Một trong những nhà khai sáng của trào lưu triết học ánh sáng

Thời kỳ Khai minh

hay Thời kỳ Khai sáng [tiếng Anh: Age of Enlightenment; tiếng Pháp: Siècle des Lumières], còn gọi là Thế kỷ Ánh sáng, là giai đoạn thế kỷ 18 của triết học phương Tây, hay thời kỳ dài hơn gồm cả Thời đại Lý tính [Age of Reason]. Từ này có thể được dùng với nghĩa hẹp hơn để chỉ phong trào của trí thức trong lịch sử, phong trào Khai sáng, phong trào ủng hộ lý tính với vai trò nền tảng căn bản của quyền lực.

Thời kỳ Khai sáng thường được liên hệ chặt chẽ với cuộc Cách mạng Khoa học, do cả hai phong trào đều nhấn mạnh vào lý tính, khoa học hay sự hợp lý, trong khi phong trào Khai sáng còn tìm cách phát triển hiểu biết có hệ thống về các quy luật tự nhiên và thần học. Phong trào bắt nguồn từ cuộc cách mạng tri trức khởi đầu bởi Galileo và Newton, trong một bầu không khí ngày càng kém thiện cảm với quyền lực áp chế, trong những khám phá về cá nhân, xã hội, và nhà nước, các nhà tư tưởng Khai sáng tin rằng có thể áp dụng tư duy có hệ thống cho mọi lĩnh vực hoạt động của con người kể cả hoạt động nhà nước. Những người đi đầu phong trào tin rằng họ sẽ dẫn thế giới vào một thời đại mới của nhân tính, lý tính và tự do từ một thời kỳ dài đầy nghi ngờ, phi lý, mê tín dị đoan, và độc tài mà họ gọi là Thời kỳ Đen Tối [Dark Ages]. Nhà văn thiên tài Pháp Voltaire nổi tiếng là một người chỉ trích việc áp đặt tôn giáo truyền thống, đồng thời là nhà triết học và nhà sử học văn hóa,được vị vua kiệt xuất của nước Phổ lúc ấy là Friedrich II Đại Đế rất ưa chuộng. Phong trào đã góp phần tạo ra nền tảng tư tưởng cho Cách mạng Mỹ và Cách mạng Pháp, Phong trào độc lập Mỹ La Tinh, và Hiến pháp Ba Lan ngày 3 tháng 5; góp phần dẫn tới sự trỗi dậy của chủ nghĩa tự do cổ điển, dân chủ, và chủ nghĩa tư bản.

Phong trào Khai sáng đi kèm với thời kỳ cổ điển và baroque trong âm nhạc và thời kỳ tân cổ điển trong nghệ thuật; thời hiện đại chú ý đến phong trào Khai sáng như là một trong những mô hình trung tâm cho nhiều phong trào thời hiện đại.

Phong trào Khai sáng chỉ xảy ra tại Đức, Pháp, Anh, và Tây Ban Nha, nhưng tầm ảnh hưởng của nó lan xa hơn. Nhiều người trong số những người khai sinh ra Hợp chúng quốc Hoa Kỳ đã chịu ảnh hưởng lớn bởi các tư tưởng của thời kỳ Khai sáng, đặc biệt trong lĩnh vực tôn giáo [Thuyết thần giáo tự nhiên] và trong lĩnh vực chính trị với Hiến pháp Hoa Kỳ, Tuyên ngôn nhân quyền Hoa Kỳ [Bill of rights], cùng với Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền của Pháp.

Kế thừa những thành tựu đã đạt được từ sau thời Phục hưng, khoa học và triết học thế kỷ XVIII có những bước tiến lớn.

Trong vật lý học, Vônta [Volta] và Ganvani [Galvani] nghiên cứu những hiện tượng về điện, tìm ra điện dương và điện âm; Franklin giải thích hiện tượng sấm sét và phát minh cột thu lôi. Anh em Môngônfie [Mongolfier] chế tạo khinh khí cầu. Trong hóa học, Lavoadiê [Lavoisier] phân tích thành phần của không khí, của nước và tìm ra phương pháp nghiên cứu tổng hợp. Về sinh học, Linnê [Linné] đưa ra cách phân loại thực vật, Buyphông [Buffon] xây dựng vườn bách thảo thành trung tâm nghiên cứu thực vật học và viết nhiều sách về ngành khoa học này.

Dưới chế độ quân chủ chuyên chế, ở nhiều nước châu Âu đã xuất hiện một trào lưu tư tưởng mới đòi quyền tự do, công kích triều đình phong kiến và những nhà vua độc đoán, phê phán sự tha hóa của giáo hội Thiên chúa, đưa ra các dự kiến về thể chế xã hội tương lai. Nổi bật nhất là các nhà tư tưởng và các nhà khoa học Pháp, được gọi là các nhà

Khai sáng.

Môngtexkiơ [Charles Louis Montesquieu 1689 - 1755

] là một nhà luật học, hoạt động trong lĩnh vực tư pháp rất nổi tiếng. Trong Những bức thư Ba Tư, Khảo sát về sự lớn mạnh và suy tàn của La Mã, Tinh thần luật pháp, ông đã đưa ra nguyên tắc tách biệt giữa ba quyền lực: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp. Ông cho rằng nhà nước lập hiến ở Anh thời đó là mẫu mực của thể chế chính trị, phù hợp với tình trạng chung của xã hội.

Vônte [Francois Marie Arouet 1694 - 1778] là một bậc thiên tài với khả năng hiểu biết toàn diện và đã thành công trên các lĩnh vực nghiên cứu triết học, văn học, sử học, và cả vật lý học. Trong Những bức thư triết học [1733], ông công kích gay gắt chế độ chuyên chế và nhà thờ Pháp nên bị chính phủ nhiều lần bắt giam. Ông phải ra nước ngoài nhưng lại được vua Phổ Frêđêrich II và nữ hoàng Nga Catêrina II trọng đãi, có quan hệ tốt với các vua Thụy Điển, Đan Mạch, Ba Lan... Ông chủ trương xóa bỏ chế độ chuyên chế nhưng vẫn giữ thể chế quân chủ với những vị vua sáng suốt, nếu vua trở nên tàn bạo thì nhân dân có quyền đánh đổ. Tư tưởng và những công trình nghiên cứu của ông có ảnh hưởng lớn đối với tinh thần cách mạng đang âm ỉ ở châu Âu và đóng góp phần quan trọng vào kho tàng văn minh nhân loại, nên thế kỷ XVIII đươc mệnh danh là thế kỷ Vônte.



Rutxô [Jean Jacques Rousseau 1712 - 1778

] xuất thân từ gia đình nghèo khổ, phải trải qua nhiều nghề để kiếm sống, đi nhiều nước châu Âu nên có thể thấy rõ tình cảnh cùng cực của người dân thường, đề xuất nhiều ý tưởng cấp tiến. Trong những tác phẩm nổi tiếng như Luận về nguồn gốc của sự bất bình đẳng xã hội, Emilơ, Khế ước xã hội, ông nói lên quyền lợi của người dân, đặc biệt là nông dân và dân nghèo. Trong khi lên án chế độ phong kiến, ông phê phán chế độ sở hữu tư nhân và hậu quả của nó là tình trạng bất bình đẳng trong xã hội. Ông chủ trương thay thế chế độ tư hữu lớn bằng chế độ tư hữu nhỏ, ai cũng có một tài sản nhất định, thiết lập chế độ cộng hòa, người dân có quyền chính trị như nhau, được hưởng quyền tự do và bình đẳng. Tư tưởng của Rutxô có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với cách mạng Pháp cuối thế kỷ XVIII.

Nhiều nhà khoa học cấp tiến thời đó tập hợp trong nhóm Bách Khoa toàn thư [Encyclopédie] do nhà triết học Điđơrô [Denis Diderot 1713 - 1784] và nhà toán học Đalămbe [Jean Le Rond d' Alembert 1717 - 1783] tổ chức. Vônte, Môngtexkiơ, Rutxô cũng tham gia biên soạn bộ sách này. Nội dung của bộ Bách khoa là giải thích các hiện tượng tự nhiên và xã hội dưới ánh sáng của quan điểm duy vật và những thành tựu triết học, kinh tế học, khoa học tự nhiên mới đạt được. Điều đó có nghĩa là phản bác một cách hệ thống các quan điểm duy tâm mà giáo hội bấy lâu truyền bá và bảo vệ. Vì thế, nhà nước quân chủ Pháp ra lệnh cấm in và lưu hành các cuốn Bách khoa nhưng không ngăn được quyết tâm của các nhà khoa học, bằng mọi cách đã ra được trọn bộ

Bách khoa toàn thư.



Cũng nên nhắc đến một trào lưu tư tưởng mới do Mêliê [Jean Meslier 1664 - 1729], Mabli [1709 - 1785] và Môrenly [Morenlly] khởi xướng, chủ trương xóa bỏ hoàn toàn chế độ tư hữu vì đó là nguồn gốc của mọi nỗi khô, thiết lập chế độ sở hữu chung của xã hội, lao động là nghĩa vụ và quyền lợi chung của mọi người và nhà nước sẽ thực hiện sự phân phối bình đẳng. Trào lưu này có thể coi là những yếu tố manh nha của chủ nghĩa cộng sản sơ khai.

Các nhà kinh tế học cũng đưa ra lý thuyết mới, chỉ trích các chính sách hạn chế của nhà nước, chủ trương tự do kinh doanh. Đại diện cho phái này là Kexnây [Quesnay] và Guôcnây [Gournay] cho rằng chế độ quan thuế và sự hạn chế kinh doanh là những trở ngại lớn đối với sự phát triển kinh tế. Họ đòi hỏi phải thiết lập chế độ kinh tế tự do, chính phủ không hạn chế việc kinh doanh. Ađam Xmit [Adam Smith 1723 - 1790] nối tiếp tư tưởng trên, trong tác phẩm Nguồn tài nguyên quốc gia đã đưa ra lý thuyết về giá trị. Theo ông, nguồn gốc của giá trị một vật phẩm là do lượng lao động đã tiêu hao để sản xuất ra vật phẩm đó. Lợi nhuận là sự khấu hao vào sản phẩm do lao động của công nhân tạo ra. Đêvit Ricacđô [David Ricardo 1772 - 1823] phát triển học thuyết của A. Xmit, cho rằng lợi ích của các giai cấp trong xã hội tư sản là đối lập nhau nhưng ông coi đó là quy luật tự nhiên. Những lý luận trên đã đặt cơ sở cho học thuyết kinh tế chính trị tư sản ra đời và phát triển vào thế kỷ XVIII - XIX.

Rõ ràng là sự xuất hiện của các xu hướng triết học

Khai sáng và những học thuyết kinh tế nói trên là bước phát triển quan trọng của những trào lưu tư tưởng mới và có ý nghĩa trọng đại đối với sự chuyển biến cách mạng tiếp sau, đặc biệt là Cách mạng Pháp năm 1789.

Lịch sử triết học Khai sáng

Triết học Khai sáng là một phong trào quan trọng của
triết học thế kỷ 18, với trọng tâm là niềm tin và lòng mộ đạo. George Berkeley, một trong những nhà triết học nổi bật của phong trào này, đã cố gắng chứng minh một cách hợp lý về sự tồn tại của một thực thể tối cao. Bên cạnh các học thuyết chính trị, lòng mộ đạo và niềm tin trong thời kỳ này là một phần không thể thiếu của sự khám phá về triết học tự nhiên và luân lý học. Tuy nhiên, các nhà triết học Khai sáng nổi bật như Thomas Paine, Voltaire, Jean-Jacques Rousseau, Immanuel Kant và David Hume đặt vấn đề và tấn công các thể chế hiện có của cả Giáo hội và Nhà nước. Do chỉ trích chính phủ và giáo hội Pháp, nhà triết học vĩ đại Voltaire đã hai lần chịu kiếp tù đày. Thế kỷ 19 còn chứng kiến sự tiếp tục nổi lên của các tư tưởng duy nghiệm và ứng dụng của chúng trong kinh tế chính trị, chính phủ và các khoa học như vật lý học, hóa học, và sinh học.

Thời kỳ Khai sáng nối tiếp Thời đại Lý tính [nếu được coi là một thời kỳ ngắn] hay thời Phục hưng và phong trào Kháng cách [nếu được coi là một thời đại dài]. Sau thời Khai sáng là thời kì Lãng mạn. Từ năm 1789, phong trào Cách mạng Pháp bùng nổ, các tác phẩm của Voltaire và Rousseau ảnh hưởng rất lớn đến nhân dân Pháp. Voltaire ủng hộ các văn sĩ phê phán Giáo hội và Quốc vương Pháp đương thời. Ông viết bài thơ ca ngợi chủ nghĩa anh hùng, những cuốn sử xuất sắc, v.v...Ông cũng coi trọng quyền công dân thế giới, đề cao một chính quyền trung ương dựa trên nền tảng của sự tự do. Rousseau đã kêu gọi đưa loài người trở về với tự nhiên, bị Voltaire bỉ bác.

Bức Tranh Die Tafelrunde của họa sĩ Adolph von Menzel. Bữa ăn của Voltaire, cùng vua Phổ Friedrich II Đại Đế và khác viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Berlin.


Các ranh giới của thời Khai sáng phủ phần lớn thế kỷ 17, dù một số người gọi thời kỳ trước đó là "Thời đại Lý tính" [The Age of Reason].

Châu Âu đã bị tàn phá bởi các cuộc chiến tranh tôn giáo; khi hòa bình đã được khôi phục, sau Hiệp ước Westphalia và cuộc Nội chiến Anh, một cuộc nổi dậy của trí thức đã lật đổ niềm tin được chấp nhận rộng rãi rằng những điều huyền bí và mặc khải là những nguồn chính yếu cho tri thức và học vấn—người ta cho đây là điều đã khơi mào cho sự bất ổn định về chính trị. Thay vào đó, [theo những người chia đôi hai thời kỳ], Thời đại Lý tính tìm cách thiết lập một nền triết học tiên đề và chủ nghĩa chuyên chế để làm nền móng cho tri thức và sự ổn định. Trong các tác phẩm của Michel de Montaigne và René Descartes, nhận thức luận được dựa trên chủ nghĩa kinh nghiệm cực đoan và sự tìm hiểu sâu về bản chất của "tri thức". Mục đích của một hệ thống triết học dựa trên các tiên đề hiển nhiên đã đạt đến đỉnh cao với tác phẩm Luân lý học của Baruch Spinoza, cuốn sách đào sâu một cách nhìn phiếm thần về vũ trụ, nơi Chúa trời và Thiên nhiên là một. Tư tưởng này sau đó đã trở thành

trung tâm cho thời Khai sáng

, từ Newton tới Jefferson. Các tư tưởng của Pascal, Leibniz, Galileo và các triết gia khác của thời kỳ trước cũng đóng góp và có ảnh hưởng lớn đến thời Khai sáng; ví dụ, theo E. Cassirer, tác phẩm On Wisdom của Leibniz đã "... chỉ ra khái niệm trung tâm của thời Khai sáng và phác ra khung lý thuyết của nó" [Cassirer 1979: 121–123]. Có một làn sóng các thay đổi trong tư duy châu Âu, điển hình là triết học tự nhiên của Newton, đó là sự kết hợp giữa ngành toán học của các chứng minh bằng tiên đề với ngành cơ học của các quan sát vật lý, một hệ thống gắn kết của các phán đoán kiểm chứng được, nó đã bắt nhịp cho những gì nối tiếp Philosophiae Naturalis Principia Mathematica của Newton vào thế kỷ sau. Thời kỳ Khai sáng còn có nhà triết học Pháp Claude-Arien Helvétius. Là một nhà triết học tiến bộ, ông nghiên cứu về hạnh phúc của loài người. Ông cho rằng, hạnh phúc lớn lao của con người là dựa trên nền giáo dục, và một bộ luật xuất sắc. Ông cũng tôn trọng môi trường


Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Video liên quan

Chủ Đề