Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa càng hoàn thiện bao nhiêu lại càng tự tiêu vong bấy nhiêu?

Giá trị bền vững trong quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa

11 January 2021

Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những nội dung cơ bản trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu cao nhất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là thiết lập một xã hội mới tốt đẹp hơn so với chủ nghĩa tư bản, thiết lập một chế độ dân chủ cho đông đảo nhân dân lao động, một nền dân chủ nhân văn, tiến bộ, vì hạnh phúc con người. Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa không phải ny sinh từ hư vô, mà được sinh thành và phát triển lên từ chế độ dân chủ tư sản. Xét trên tổng thể lịch sử phát triển dân chủ của xã hội loài người thì chế độ dân chủ tư sản được coi như là một nấc thang, một giai đoạn tất yếu, hay nói cách khác, nếu không có chế độ dân chủ tư sản thì không có chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Chế độ dân chủ tư sản không chỉ là sản phẩm riêng của giai cấp tư sản, mà là thành quả của cuộc đấu tranh, bền bỉ lâu dài của nhân loại tiến bộ, của nhân dân lao động được kết tinh dưới chủ nghĩa tư bản. Dân chủ tư sản về nội dung, cũng như cơ chế, công nghệ dân chủ mang tính chất giai cấp của giai cấp tư sản, nhưng cũng hàm chứa nhiều yếu tố mang tính nhân loại, tính nhân văn mà chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa có thể kế thừa và phát triển.

Những thành tựu dân chủ đạt được trước chủ nghĩa xã hội, mà đỉnh cao nhất của nó là dân chủ tư sản xét về ý nghĩa khách quan của nó đều có ý nghĩa tiến bộ vì nó là từng bước chuẩn bị tiến tới nền dân chủ rộng rãi, triệt để và hoàn thiện nhất đó là dân chủ xã hội chủ nghĩa. Cho dù các nền dân chủ trước đây, kể cả dân chủ tư sản, chưa đem lại và không thể đem lại quyền lực xã hội cho đa số quần chúng lao động, nhưng nó vẫn trở nên cần thiết đối với sự tiến bộ xã hội. Nó tích lũy và làm chín muồi dần dần ý thức dân chủ, tinh thần phản kháng mọi tình trạng bất công và sự áp bức, bóc lột đối với con người. nó thức tỉnh con người, thúc đẩy con người trong cuộc đấu tranh giành lấy dân chủ, tự do cho chính mình. Nó là môi trường, là “trường học” thực tiễn giáo dục và nâng cao ý thức dân chủ, tập hợp, lôi cuốn quần chúng lao động vào cuộc đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ. Cuộc đấu tranh đòi dân chủ của quần chúng lao động càng sâu rộng, chế độ dân chủ tư sản càng phát triển càng tiến gần chủ nghĩa xã hội bấy nhiêu. Nói về điều đó Lênin đã khẳng định rằng, chính chủ nghĩa tư bản trong quá trình phát triển của nó đã tạo các tiền đề, điều kiện cho sự chính muồi đầy đủ của dân chủ và mỗi khi dân chủ đã phát triển đầy đủ thì nó không thể dung nạp được trật tự tư sản.

Hơn nữa, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xét về bản chất của nó, là có khả năng vượt qua được những hạn chế, những trở ngại mà chế độ dân chủ tư sản không thể vượt qua. Nếu như trong chế độ dân chủ tư sản, nhà nước càng dân chủ bao nhiêu, mở rộng các quyền hạn, quyền tự do và những đảm bảo cho những quyền đó bao nhiêu, thì càng làm sâu thêm tính chất không dung hợp với chủ nghĩa tư bản bấy nhiêu. Cho nên chế độ nhà nước càng dân chủ, thì chế độ tư bản chủ nghĩa càng không thể chứa đựng nổi. Còn đối với chủ nghĩa xã hội thì ngược lại – như Lênin đã chỉ ra - “Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn”, là một trong những nhiệm vụ cấu thành của cách mạng xã hội chủ nghĩa, là vấn đề có tính quy luật của sự phát triển và hoàn thiện của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Cách mạng xã hội chủ nghĩa, chế độ xã hội chủ nghĩa tạo ra những những tiền đề, điều kiện để phát triển dân chủ đến cùng. Trong chủ nghĩa xã hội về chính trị đó là sự thống trị chính trị của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân, xét về bản chất, là giai cấp tiên tiến nhất, giai cấp cách mạng nhất và là giai cấp có lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của quảng đại quần chúng lao động. Đó là điểm khác nhau hết sức quan trọng với các giai cấp cầm quyền trong các chế độ bóc lột. Có sự thống nhất về lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế là tiền đề, cơ sở cho sự bình đẳng về các mặt khác trong đời sống xã hội, cho sự bình đẳng về chính trị và xã hội. Trong chủ nghĩa xã hội “giai cấp vô sản trở thành giai cấp thống trị”, “giành lấy dân chủ”, nhưng “giành lấy dân chủ” cho phải cho riêng mình mà cho số đông, cho quảng đại quần chúng lao động. Về nền tảng kinh tế, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội dựa trên nền kinh tế phát triển cao với lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu. Trong nền kinh tế đó nhân dân, trước hết là nhân dân lao động làm chủ các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Đó là tiền đề kinh tế hết sức trọng yếu để khẳng định quyền dân chủ, quyền làm chủ của quảng đại quần chúng nhân dân trong xã hội.

Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, do đó không chỉ kế thừa những giá trị đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản, mà còn phát triển thêm những giá trị mới, những điều kiện mới phát huy dân chủ. Cụ thể:

Một là, tạo ra được những điều kiện vật chất và tinh thần để nhân dân được hưởng những quyền dân chủ đã được ghi nhận trong hiến pháp, pháp luật. Khi nói đến bước đầu tiên của xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, V.I.Lênin đã nhấn mạnh rằng: “trọng tâm phải chuyển từ chỗ thừa nhận, về mặt hình thức những quyền tự do [như dưới chế độ đại nghị tư sản] đến chổ bảo đảm thực tế cho những người lao động – những người đã lật đổ bọn bóc lột được hưởng những quyền tự do.”[1]1. Như vậy, xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa bước đầu tiên chưa phải là ghi nhận những quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Điều đó nhân loại đã đạt được ở mức độ nhất định trong chủ nghĩa tư bản. Điều quan trọng đầu tiên là phải tạo ra những điều kiện để nhân dân được hưởng, thực hiện được những quyền dân chủ đó trong thực tế. Làm được điều đó là đã thực hiện được một bước chuyển biến từ “lượng thành chất” của chế độ dân chủ.

Hai là, sức sống của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa chính là sự tham gia đông đảo của nhân dân lao động vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội, phát triển thêm những quyền dân chủ cho nhân dân. Lôi cuốn quần chúng nhân dân lao động không chỉ tham gia một cách độc lập vào việc tuyển cử, mà cả vào việc quản lý hàng ngày [quản lý xã hội, quản lý nhà nước – dân chủ tham gia]. Trong lịch sử dân chủ thời cổ đại cho đến tư bản, quyền công dân và quyền làm chủ xã hội là không đồng nhất với nhau. Do đó dân chủ xã hội chủ nghĩa không chỉ ban bố và thực hiện một số quyền công dân như kiểu dân chủ tư sản, mà tạo ra cơ chế sao cho quyền lực của nhân dân là quyền lực tối cao. Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã nhiều lần khẳng định, dân chủ xã hội chủ nghĩa tức là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực của mình để quản lý công việc nhà nước. Nhân dân có quyền làm chủ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Nói về giá trị mới này của dân chủ xã hội chủ nghĩa, V.I.Lênin viết: “lôi cuốn có hệ thống ngày càng nhiều công dân, rồi sau đó là toàn thể công dân vào việc trực tiếp và hàng ngày gánh phần trách nhiệm nặng nề của mình trong công tác quản lý nhà nước.”

Dân chủ và chủ nghĩa xã hội gắn liền với nhau, đòi hỏi có nhau. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của chủ nghĩa xã hội. Đó là nguyên lý hết sức cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội nhiều khi chúng ta thường nhấn mạnh vế dân chủ là mục tiêu, coi nhẹ vai trò động lực của dân chủ. Mục đích của chủ nghĩa xã hội là giành lại quyền dân chủ, quyền làm chủ cho nhân dân. Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra, sẽ không có chủ nghĩa xã hội chân chính và chủ nghĩa xã hội cũng sẽ không đạt được mục tiêu đó của mình, nếu không coi dân chủ là động lực, không lấy dân chủ làm động lực.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, V.I Lênin hết sức quan tâm vai trò động lực của dân chủ. V.I.Lê nin đã chỉ ra rằng: “thiểu số người, tức là đảng, không thể thực hiện chủ nghĩa xã hội được. Chỉ có hàng chục triệu người, khi đã học được cách tự mình thiết lập chủ nghĩa xã hội thì mới thực hiện được chủ nghĩa xã hội”. Rằng: “Tính sáng tạo sinh động của quần chúng, đó là nhân tố cơ bản của xã hội mới… chủ nghĩa xã hội không phải là kết quả của những sắc lệnh từ trên ban xuống, tính chất máy móc hành chính và quan liêu không dung hợp được với tinh thần của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội sinh động sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân.” Vì vậy, V.I.Lê nin lưu ý rằng: “Không nên sợ nhân dân. Sự giải quyết của đa số công nhân và nông dân không phải là trạng thái vô chính phủ. Đó là điều duy nhất có khả năng đảm bảo cho chế độ dân chủ nói chung và cho việc thành công trong sự tìm tòi những biện pháp thích đáng để thoát khỏi sự sụp đổ về kinh tế, nói riêng”. Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Chỉ người nào tin tưởng vào nhân dân, dấn mình vào nguồn sáng tạo sinh động của nhân dân mới là người chiến thắng và giữ được chính quyền”

Trong cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã hết sức chú ý đến vai trò động lực của dân chủ. Hồ Chí Minh cho rằng: “trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân, của dân chủ, coi dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn của công việc trên con đường phát triển, Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên rằng “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”; rằng: dân ta là tài năng, trí tuệ và sáng tạo, họ biết “giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”. Tin vào dân, vào sức mạnh của dân chủ, Người kịch liệt phê phán các biểu hiện: xa dân, khinh dân, sợ dân; không tin cậy nhân dân; không hiểu biết nhân dân; không thương yêu nhân dân. Những biểu hiện đó là nguyên nhân của căn bệnh nguy hiểm quan liêu, mệnh lệnh, dẫn đến kết quả là “hỏng việc”.

Không phải ngẫu nhiên V.I.Lênin và Hồ Chí Minh – những người trực tiếp lãnh đạo cách mạng lại nhấn mạnh vai trò động lực của dân chủ. Nhấn mạnh vai trò động lực của dân chủ trước hết, vì thiếu dân chủ cách mạng dân chủ nhân dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ không có sức mạnh, sẽ không thành công. Thứ nữa, khi đã có chính quyền trong tay, không ít cán bộ, đảng viên đã có những biểu hiện “xa dân”, “tự cao, tự đại”, “bệnh kiêu ngạo cộng sản”, “không tin vào khả năng của nhân dân, coi khinh nhân dân” và “sợ nhân dân”. Từ đó họ không quan tâm đến việc xây dựng và phát huy dân chủ. Miệng hô hào dân chủ, nhưng làm thì mệnh lệnh, độc đoán; cấp trên không dân chủ đối với mình thì thấy khó chịu, nhưng lại không muốn dân chủ đối với cấp dưới. Họ coi dân chủ như một phương tiện thuận lợi cho mình, khi cần thì dùng, không cần thì bỏ. Đối với họ dân chủ nhiều khi chỉ là “vật trang trí”, “sự đối phó” với cấp dưới, với nhân dân, với dư luận. Những sai lầm nghiêm trọng dẫn tới sự sụp đổ của hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa trong thời gian qua có nguyên nhân do không thấy được vai trò của dân chủ, coi dân chủ là cái để ban phát, muốn mở ra cũng được, khép vào lúc nào cũng được.

Thực tiễn của hơn 30 năm đổi mới ở Việt Nam càng ngày càng khẳng định vai trò to lớn của dân chủ. Sự xuất hiện tình trạng mất ổn định, những “điểm nóng”, khiếu kiện đông người không phải do dân chủ, do mở rộng dân chủ, mà ngược lại do thiếu dân chủ, thiếu công khai, minh bạch từ phía chính quyền. Cũng chính từ việc giải quyết những “điểm nóng” mà quy chế dân chủ cơ sở được hình thành. Qua thực tế xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã tạo ra nền dân chủ xã hội chủ nghĩa tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được cũng cố. Đảng và Nhà nước tiếp tục đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ, đảm bảo lợi ích của nhân dân, vai trò giám sát của nhân dân đối với hoạt động của các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Dân chủ trong Đảng, trong các tổ chức và xã hội được mở rộng, nâng cao. Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật được coi trọng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phát huy tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Từ đó giữ vững ổn định chính trị, an ninh trật tự ở cơ sở; góp phần đẩy mạnh cải cách hành chính, ngăn chặn đẩy lùi những vi phạm dân chủ, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; bầu không khí dân chủ, ý thức chính trị, ý thức chấp hành pháp luật được nâng lên; quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân được phát huy, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia, bàn bạc và giải quyết nhiều vấn đề ở cơ sở; cán bộ, công chức nhận thức sâu sắc hơn về vai trò của nhân dân, tôn trọng quyền giám sát, tổ chức đối thoại, lắng nghe ý kiến nhân dân; năng lực làm chủ của nhân dân ở cơ sở có nhiều chuyển biến tích cực.

Như vậy, lý luận và nhất là thực tiễn chứng tỏ rằng phát huy dân chủ, mở rộng dân chủ, thực hành trong thực tế dân chủ không phải như một số người lo ngại là sẽ mất ổn định, mà là ngược lại chính trị, kinh tế - xã hội ổn định và phát triển hơn. Xu thế chung sự phát triển của lịch sử theo quy luật từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện, những nền dân chủ chỉ để phục vụ cho lợi ích của một nhóm giai cấp thống trị nhất định phải được thay thế bởi một nền dân chủ cho đông đảo nhân dân lao động, một nền dân chủ nhân văn, tiến bộ vì hạnh phúc con người. Đó là giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa./.

V.I. Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ Matxcơva, 1976, tập 33

V.I. Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ Matxcơva, 1977, tập 36

V.I. Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ Matxcơva, 1977, tập 32

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 5

ThS. Lê Thị Thảo

GV Khoa Lý luận cơ sở

1. Dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa

1.1. Dân chủ và sự ra đời, phát triển của dân chủ

1.1.1. Quan niệm về dân chủ

1.1.1.1. Chủ ngữ thuật ngữ được ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII - VI trước công nguyên

1.1.1.2. Được hiểu là nhân dân cai trị và sau này được gọi giản lược là quyền lực của nhân dân hay quyền lực thuộc về nhân dân.

1.1.2. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin

1.1.2.1. Về phương diện quyền lực, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ nhân của nhà nước. Dân chủ là quyền lợi của nhân dân. Quyềnlợi căn bản nhất của nhân dân chính là quyền lực nhà nước thuộc sở hữu của nhân dân, của xã hội; bộ máy nhà nước phải vì nhân dân, vì xã hội mà phục vụ.

1.1.2.2. Trên phương diện chế độ xã hội và lĩnh vực chính trị, dân chủ là một hình thức hay hình thái nhà nước, là chính thể dân chủ hay chế độ dân chủ.

1.1.2.3. Trên phương diện tổ chức và quản lý xã hội, dân chủ là một nguyên tắc. Nguyên tắc này kết hợp với nguyên tắc tập trung để hình thành nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và quản lý xã hội.

1.1.3. Trên cơ sở của chủ nghĩa Mác – Lênin và điều kiện cụ thể của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng

1.1.3.1. Dân chủ trước hết là một giá trị nhân loại chung, nó phải thuộc về nhân dân. Người đã khẳng định: Dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ, “nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”.

1.1.3.2. Dân chủ là một thể chế chính trị, Người khẳng định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ, mà Chính phủ là người đầy tớ trung thành của nhân dân”…

1.1.4. Tóm lại: Dân chủ là một giá trị xã hội phản ánh những quyền cơ bản của cong người; là một hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp cầm quyền; có quá trình ra đời, phát triển cùng với lịch sử xã hội nhân loại.

1.1.5. Sự ra đời phát triển của dân chủ

1.1.5.1. Có ba nền [ chế độ] dân chủ

1.1.5.1.1. Nền dân chủ chủ nô, gắn với chiếm hữu nô lệ.

1.1.5.1.2. Nền dân chủ tư sản, gắn với chế độ tư bản chủ nghĩa.

1.1.5.1.3. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, gắn với chế độ xã hội chủ nghĩa.

1.2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa

1.2.1. Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

1.2.1.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được phôi thai từ thực tiễn đấu tranh giai cấp ở Pháp và công xã Pari năm 1871.

1.2.1.2. Tuy nhiên, chỉ đến khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công với sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới [1917], nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mới chính thức được xác lập.

1.2.1.3. Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là từ thấp tới cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện; có sự kết hợp một cách chọn lọc giá trị của các nền kinh tế dân chủ trước đó, trước hết là là nền dân chủ tư sản.

1.2.1.4. Nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là không ngừng mở rộng dân chủ, nâng cao mức độ giải phóng cho những người lao động, thu hút họ tham gia tự giác vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Càng hoàn thiện bao nhiêu, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lại càng tự tiêu vong bấy nhiêu.

1.2.1.5. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ có trong lịch sử nhân loại, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ; dân chủ và pháp luật nằm trong sự thống nhất biện chứng; được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

1.2.2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

1.2.2.1. BẢN CHẤT CHÍNH TRỊ

1.2.2.1.1. -Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

1.2.2.1.2. -Nhân dân lao động là những người làm chủ những quan hệ chính trị trong xã hội.

1.2.2.1.3. -Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc.

1.2.2.2. BẢN CHẤT KINH TẾ

1.2.2.2.1. -Dựa trên chế độ sở hữu xã hội về những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội

1.2.2.2.2. -Đảm bảo quyền làm chủ trong quá trình sản xuất kinh doanh, quản lý và phân phối.

1.2.2.2.3. -Coi lợi ích kinh tế của người lao động là động lực cơ bản nhất có sức thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển.

1.2.2.3. BẢN CHẤT TT-VH-XH

1.2.2.3.1. -Tư tưởng: lấy hệ tư tưởng Mác Lê-nin - hệ tư tưởng của giai cấp công nhân làm chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác trong xã hội mới.

1.2.2.3.2. -Xã hội: tiếp thu những giá trị tư tưởng-văn hóa, văn minh, tiến bộ xã hội…

Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng CNXH

[ĐCSVN] - Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, đăng trên Báo Nhân dân, ngày [16/5/2021], đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục khẳng định và làm rõ, dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội...

Hội nghị tiếp xúc giữa cử tri với người ứng cử đại biểu Quốc hội khoá XV thuộc Đơn vị
bầu cử số 1 của TP Hà Nội. [Ảnh: Đăng Khoa]

Phát triển lý luận và thực tiễn về dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những thành tựu to lớn của Đảng ta qua 35 năm đổi mới, góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển đường lối đổi mới của Đảng vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, đáp ứng được khát vọng của nhân dân, phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn Việt Nam. Tổng kết về vấn đề này, khẳng định: “Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng nền dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ thực sự thuộc về nhân dân là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam”[1]. Đây là một trong những luận điểm khái quát cốt lõi về bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Thứ nhất: “Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”

Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước ta là một nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới là trách nhiệm của dân... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[2], trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã khẳng định, dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, chế độ xã hội xã hội “do nhân dân làm chủ”[3], ở đó, quyền làm chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ và làm chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội theo nguyên tắc Đảng Cộng sản – đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động lãnh đạo, thực hiện nhất nguyên về chính trị. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng các hình thức trực tiếp và gián tiếp, thông qua các tổ chức trong hệ thống chính trị, trong đó nòng cốt là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, trên cơ sở nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước “đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội”[4].

Với bản chất và đặc điểm nêu trên, dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là chế độ dân chủ thực sự, không phải là dân chủ hình thức, cực đoan, vô chính phủ. Nó đối lập với chuyên quyền độc đoán, đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, quan liêu. Nói một cách khác, dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ thấm nhuần đầy đủ và sâu sắc nhất tính pháp lý và tính nhân văn. Khẳng định điều này, đồng chí Tổng Bí thư đã viết: “Chúng ta cần một xã hội, mà trong đó, sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người”[5].

Trong những năm thực hiện đổi mới, Đảng đã nhận thức sâu sắc rằng để đi lên chủ nghĩa xã hội, cùng với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.., nhất thiết phải xây dựng thành công nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bởi vì “dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển”[6], không có dân chủ thì không có chủ nghĩa xã hội. Với tư cách là đỉnh cao trong toàn bộ lịch sử tiến hoá của dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa kết tinh trong bản thân mình toàn bộ những giá trị dân chủ đạt được trong lịch sử và nảy sinh những giá trị dân chủ mới về chất. Ở đây, dân chủ trở thành giá trị phổ biến của xã hội, thâm nhập vào mọi quan hệ chính trị - xã hội, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, bao quát mọi góc độ trong sự tồn tại của con người, tạo ra ngày càng đầy đủ những điều kiện cho sự giải phóng mọi năng lực sáng tạo của con người. Đây cũng là căn cứ để Đảng ta xác định, dân chủ là một trong những thành tố quan trọng trong hệ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Trên cơ sở những chỉ báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ “dân là chủ” đến “dân làm chủ” là một bước phát triển về chất, Đảng ta không chỉ xác định vị thế, tư cách chủ thể xã hội là của nhân dân, “dân là gốc”, mà quan trọng hơn, bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là phải làm cho nhân dân được hưởng quyền làm chủ và có năng lực, phương pháp, bản lĩnh làm chủ trên thực tế... khi đó, dân chủ trở thành động lực để xây dựng, phát triển đất nước. Tại Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định: “…thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “Dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân hưởng thụ””[7].

Thứ hai: “Xây dựng nền dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ thực sự thuộc về nhân dân là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam”

Thực tiễn cách mạng Việt Nam, đặc biệt qua 35 năm đổi mới, thể hiện rất rõ và hết sức sinh động những tiến bộ đạt được trong phát huy dân chủ, cũng như xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Quan niệm về dân chủ ngày càng được mở rộng. Dân chủ được xem xét trên nhiều khía cạnh: là chế độ chính trị; là giá trị; là phương thức và nguyên tắc tổ chức xã hội; dân chủ chung đối với xã hội và dân chủ riêng đối với mỗi cá nhân; dân chủ được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Dân chủ phải được thể hiện trong tất cả các cấp độ: Từ cơ quan lãnh đạo cao nhất đến từng cơ sở; đặc biệt quan trọng là dân chủ ở cơ sở.

Bên cạnh đó, Đảng ta chỉ rõ: “Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm; vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật”[8], nguyên nhân của hạn chế này là do hoạt động của hệ thống chính trị chưa thực sự đồng bộ, hiệu quả, các điều kiện để người dân làm chủ chưa đầy đủ, sự thiếu gương mẫu của một bộ phận cán bộ, đảng viên, sự thiếu ý thức dân chủ, lợi dụng dân chủ của một bộ phận nhân dân… Do vậy, đồng chí Tổng Bí thư chỉ rõ: “Xây dựng nền dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ thực sự thuộc về nhân dân là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam”.

Để xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu đòi hỏi phải có “…một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”[9]. Phải phát huy vai trò chủ thể của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân, nhằm huy động mọi nguồn lực đẩy nhanh sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng thông qua Nhà nước lãnh đạo toàn xã hội phát triển theo đúng con đường xã hội chủ nghĩa. Nhà nước là tổ chức quyền lực của nhân dân, thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật, tổ chức quản lý, điều hành xã hội để hiện thực đường lối chính trị của Đảng, hành động vì quyền lợi của nhân dân, điều gì có lợi cho dân phải cố gắng làm, điều gì có hại cho dân phải hết sức tránh, chăm lo phát triển, bồi dưỡng và tiết kiệm sức dân như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Do vậy: “Mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”[10]. Nhân dân là người chủ xã hội, cho nên nhân dân không chỉ có quyền, mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định, thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Như vậy, trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ là một trong những mối quan hệ lớn cần được tăng cường nắm vững và giải quyết hiện nay nhằm hiện thực hóa mục tiêu: “Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích” như ý kiến của đồng chí Tổng Bí thư nêu trong bài viết.

Là ước vọng hàng ngàn năm của tuyệt đại đa số nhân dân lao động, tuy nhiên, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản nói chung, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nói riêng là thực tiễn chưa có tiền lệ, khác với nền dân chủ tư sản đã có lịch sử hàng nhiều trăm năm và bản thân nó cũng đã và đang tiếp tục phải cải tiến, điều chỉnh. Do vậy, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo ý kiến của đồng chí Tổng Bí Thư, cần phải nhận thức là quá trình lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chỉ có như thế mới khắc phục các biểu hiện chủ quan duy ý chí nóng vội, cũng như tâm lý chán nản, dễ chấp nhận khiến cho quá trình dân chủ hóa trì trệ, bất cập với yêu cầu đổi mới. Chúng ta vừa tăng cường thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội, nhưng cũng cần tránh các biểu hiện dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, dân chủ kiểu phương Tây, lợi dụng dân chủ - nhân quyền để gây mất ổn định, thực hiện cách mạng “sắc màu” hòng thay đổi chế độ xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, không được phiến diện trong nhận thức về mối quan hệ giữa “đa đảng”, “đa nguyên” với mức độ cao thấp của dân chủ; khắc phục sự mơ hồ về thực chất và hình thức biểu hiện của nền dân chủ tư sản như đồng chí Tổng Bí thư đã nêu: “Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do”… không hề bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân hay vì nhân dân”[11]. Cũng như vậy, nếu ai đang đồng nhất giữa dân chủ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với dân chủ trong xã hội xã hội chủ nghĩa đầy đủ sẽ là một sai lầm nghiêm trọng. Song song với những bất cập trên, còn cần phải khắc phục tính biệt lập trong xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tuy khác biệt về bản chất chính trị với dân chủ tư sản, nhưng điều đó không ngăn trở việc kế thừa, tiếp thu có chọn lọc các thành quả của nhân loại trong xây dựng nền dân chủ của Việt Nam.

Xây dựng chế độ dân chủ phải được coi là sự nghiệp cách mạng lâu dài như khẳng định của đồng chí Tổng Bí thư, nhưng được coi là nhiệm vụ trọng yếu, bởi dân chủ vừa thể hiện bản chất của chế độ ta vừa là mục tiêu, động lực của sự phát triển đất nước. Chúng tôi hoàn toàn nhất trí và tin tưởng rằng, dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những “giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang định, kiên trì theo đuổi”, như ý kiến của đồng chí Tổng Bí Thư./.

----------------------------------------------------------------

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1], [4], [5], [9], [10], [11]. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, ngày 16 tháng 5 năm 2021

[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG – ST, tr.232

[3], [6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, tr.70

[7], [8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQG Sự thật, tr.27, 89

PGS.TS Đỗ Thị Thạch

Học viện CTQG Hồ Chí Minh

Video liên quan

Chủ Đề