Nguồn gốc tư tưởng nhân văn hồ chí minh năm 2024

Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam. Tổng hợp tri thức văn hóa phương Đông và phương Tây, tư tưởng Hồ Chí Minh đạt tới tầm cao trí tuệ của thời đại, thấm đậm bản sắc văn hóa và bản lĩnh của dân tộc, có sức sống mạnh mẽ, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng được hoàn thiện, phát triển cùng với những thắng lợi và những bước tiến lên của cách mạng nước ta, của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước. Bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh là bảo vệ hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, cũng là bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện toàn cầu hóa.

NỘI DUNG

1. Khái niệm, nguồn gốc, quá trình hình thành tư trưởng Hồ Chí Minh

Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II [tháng 2-1951] đến nay, Đảng ta luôn luôn khẳng định vai trò, ý nghĩa, tác dụng của đường lối chính trị, tư tưởng, đạo đức, phương pháp, phong cách... Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII [tháng 6 - 1991], Đảng Cộng Sản Việt Nam đã trân trọng ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của mình: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng [tháng 4 – 2001] một lần nữa khẳng định lại điều này. Đây là một sự tổng kết sâu sắc, bước phát triển mới trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta và là một quyết định quan trọng có ý nghĩa lịch sử, đáp ứng yêu cầu phát triển của sự nghiệp cách mạng nước ta, tình cảm nguyện vọng của toàn Đảng toàn quân, toàn dân ta.

1.1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh” là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.

...Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”.

Định nghĩa về tư tưởng Hồ Chí Minh như trên thể hiện bốn nội dung chủ yếu sau:

- Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn 70 năm qua và tiếp tục soi sáng con đường chúng ta tiến lên xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.

1.2. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh.

  1. Tư tưởng và văn hóa truyền thống Việt Nam.

Dân tộc Việt Nam trong hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã tạo lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những truyền thống tốt đẹp và cao quý.

- Trước hết, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường trong đấu tranh dựng nước và giữ nước. Chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu chảy xuyên suốt trường kỳ lịch sử Việt Nam, là chuẩn mực cao nhất trong bảng giá trị văn hóa – tinh thần việt Nam. Mọi học thuyết đạo đức, tôn giáo từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam đều được tiếp nhận khúc xạ qua lăng kính của tư tưởng yêu nước đó.

- Thứ hai, là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái. Truyền thống này cũng hình thành cùng với sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và với giặc ngoại xâm. Bước sang thế kỷ XX, mặc dù xã hội Việt Nam đã có sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu giai cấp – xã hội, nhưng truyền thống này vẫn bền vững. Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát huy sức mạnh của truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân tương ái thể hiện tập trung trong bốn chữ “đồng” [đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh].

- Thứ ba, dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống lạc quan, yêu đời. Tinh thầ lạc quan đó có cơ sở từ niềm tin vào sức mạnh của bản thân mình, tin vào sự tất thắng của chân lý, chính nghĩa. Hồ Chí Minh là hiện thân của truyền thống lạc quan đó.

- Thứ tư, dân tộc Việt Nam là dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo, ham học hỏi và mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa của nhân loại. Người việt Nam từ xưa đã rất xa lạ với đầu óc hẹp hòi, thủ cựu, thói bài ngoại cực đoan. Trên cơ sở giữ vững bản sắc của dân tộc, nhân dân ta đã biết chọn lọc, tiếp thu, cải biến những cái hay, cái tốt, cái đẹp của người thành những giá trị riêng của mình. Hồ Chí Minh là hình ảnh sinh động và trọn vẹn của truyền thống đó.

  1. Tinh hoa văn hóa nhân loại.

Hồ Chí Minh xuất thân trong gia đình khoa bảng, từ nhỏ Người đã được hấp thụ môt nền Quốc học và Hán học khá vững vàng. Khi ra nước ngoài, Người có thể viết văn Anh, văn Pháp sắc sảo như một nhà báo phương Tây thực thụ, nhưng khi có nhu cầu “tự bạch” thì Người làm thơ bằng chữ Hán. Chính điều đó tạo điều kiện cho Người tiếp thu được tinh hoa văn hóa nhân loại và làm nên nét đặc sắc ở Hồ Chí Minh, một con người biểu tượng cho sự kết hợp hài hòa văn hóa Đông – Tây.

- Tư tưởng văn hóa phương Đông.

+ Nho giáo. Nho giáo có những yếu tố duy tâm, lạc hậu, nhưng nho giáo cũng có nhiều yếu tố tích cực, nên có ảnh hưởng khá lâu dài trong lịch sử. Đó là triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời; lý tưởng về một xã hội bình trị; triết lý nhân sinh: tu thân dưỡng tính góp phần đề cao văn hóa, lễ giáo, đề cao tinh thần hiếu học.

Hồ Chí Minh đã khai thác nho giáo, lựa chọn những yếu tố tích cực, phù hợp để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng. Người dẫn lời của Lênin: “Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được những điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại”.

+ Phật giáo. Phật giáo là một trong những tôn giáo du nhập vào Việt Nam khá sớm. Những mặt tích cực của Phật giáo đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tư duy, hành động, cách ứng xử của con người Việt Nam.

Phật giáo có tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, thương người như thể thương thân; xây dựng nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện; đề cao tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân biệt đẳng cấp. Phật giáo Thiền tông coi trọng lao động, chống lười biếng.

Phật giáo vào Việt Nam, gặp chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ đã hình thành nên Thiền phái trúc lâm Việt Nam, chủ trương không xa đời mà sống gắn bó với nhân dân, với đất nước, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân chống kẻ thù dân tộc.

Phật giáo Việt Nam đã đi vào đời sống tinh thần dân tộc và nhân dân lao động, để lại dấu ấn sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

+ Hồ Chí Minh cũng nghiên cứu và thấu hiểu tư tưởng của các nhà tư tưởng phương Đông như Lão tử, Mặc tử, Quản tử... Khi đã trở thành người mácxít, Hồ Chí Minh vẫn tìm hiểu thêm về chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Hồ Chí Minh đã biết khai thác những yếu tố tích cực của tư tưởng và văn hóa phương Đông để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của Người.

- Tư tưởng và văn hóa phương Tây.

+ Ngay từ khi còn học ở Trường tiểu học Đông Ba rồi vào Trường Quốc học Huế, Hồ Chí Minh đã làm quen với văn hóa Pháp. Đặc biệt, Người rất ham mê môn lịch sử, và say sưa tìm hiểu cuộc Đại cách mạng Pháp 1789.

+ Khi xuất dương, Người đã từng sang Mỹ, đến sống ở New York, làm thuê ở Bruclin và thường đến thăm khu Haclem của người da đen. Người thường suy nghĩ về tự do, độc lập, quyền sống của con người... được ghi trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ.

+ Đến Pháp, Hồ Chí Minh được tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm của các nhà tư tưởng khai sáng như tinh thần pháp luật của Môngtétxkiơ, khế ước xã hội của Rútxô... Tư tưởng dân chủ của các nhà khai sáng đã có ảnh hưởng lớn tới tư tưởng của Người.

+ Hồ Chí Minh hình thành phong cách dân chủ của mình từ trong cuộc sống thực tiễn. Người học được cách làm việc dân chủ trong cách sinh hoạt khoa học ở Câu lạc bộ Phôbua [Faubourg], trong sinh hoạt chính trị của Đảng xã hội Pháp.

Tóm lại, nhờ sự thông minh, óc quan sát, ham học hỏi và được rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp, trên hành trình cứu nước Hồ Chí Minh đã biết làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, của văn hóa Đông, Tây, từ tầm cao củ tri thức nhân loại mà suy nghĩ và lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận dụng và phát triển.

  1. Chủ nghĩa Mác – Lênin, cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh.

- Tác động của mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với dân tộc và thời đại đã đưa Hồ Chí Minh đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin, từ người yêu tước trở thành người cộng sản. Nhờ có thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin Hồ Chí Minh đã hấp thụ và chuyển hóa được những nhân tố tích cực và tiến bộ của truyền thống dân tộc cũng như của tư tưởng – văn hóa nhân loại để tạo nên hệ thống tư tưởng của mình. Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác – Lênin, những phạm trù cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong những phạm trù cơ bản của lý luận mác – Lênin.

- Sở dĩ Hồ Chí Minh đã lựa chọn các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trên một loạt luận điểm cơ bản hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh có nguyên nhân sâu xa là:

+ Khi đi tìm đường cứu nước, ở tuổi 20, Hồ Chí Minh đã có một vốn học vấn chắc chắn, một năng lực trí tuệ sắc sảo. Nhờ vậy Người quan sát, phân tích, tổng kết một cách độc lập tự chủ và sáng tạo; không rơi vào sao chép, giáo điều, rập khuôn; tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin một cách sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam.

+ Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin là để tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, tức là từ nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam.Chính Người đã viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin ,tin theo Quốc tế III”. Nhờ Lênin, người đã tìm thấy “Con đường giải phóng chúng ta” và từ Lênin, Người đã trở lại nghiên cứu Mác sâu sắc hơn.

+ Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý luận Mác – Lênin theo phương pháp nhận thức mácxít, cốt nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất chứ không tự trói buộc trong cái vỏ ngôn từ. Người vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin để tự tìm ra những chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, từng thời kỳ cụ thể của cách mạng Việt Nam chứ không đi tìm những kết luận có sẵn trong sách vở kinh điển.

  1. Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh.

- Trước hết, đó là tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong nghiên cứu, tìm hiểu.

- Đó là sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của thời đại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế.

- Đó là ý chí của một nhà yêu nước, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước, thương dân, thương yêu những người cùng khổ sẵn sàng chịu đựng những hy sinh cao nhất vì độc lập của tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của đồng bào.

Chính những phẩm chất cá nhân cao đẹp đó đã quyết định việc Hồ Chí Minh tiếp nhận, chọn lọc, chuyển hóa phát triển những tinh hoa của dân tộc và thời đại thành tư tưởng đặc sắc của mình.

1.3. Cấu trúc, nguồn gốc, nội dung và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với Đảng và dân tộc ta.

* Thứ nhất, về cấu trúc: Khái niệm nêu rõ “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản cách mạng Việt Nam”. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh tập trung bàn đến các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, bao gồm: xác định con đường của cách mạng Việt Nam; mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng; lực lượng tiến hành; phương pháp tiến hành và giai cấp lãnh đạo cách mạng.

Nhận thức như vậy để khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cần tránh những khuynh hướng sai lệch và xuyên tạc cho rằng:

Một là, không có tư tưởng Hồ Chí Minh: cho rằng không có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh mà chỉ một vài phát biểu ngắn gọn của Người.

Hai là, cái gì cũng quy về tư tưởng Hồ Chí Minh mà không hiểu tư tưởng của Người chỉ gắn với những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, như vậy vô tình hạ thấp chứ không phải đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Ví dụ: tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng cháy chữa cháy…

Phải hiểu: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một khái niệm khoa học, vì thế hết sức cô đọng, chặt chẽ, có nội hàm lý luận cao, có sức sống mãnh liệt và giá trị lý luận, thực tiễn rất to lớn không những với cách mạng Việt Nam mà còn đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng giai cấp, giải phóng loài người trên phạm vi toàn thế giới.

* Thứ hai, về nguồn gốc: Đảng ta đã chỉ rõ ba nguồn gốc lý luận hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Bao gồm: Chủ nghĩa Mác – Lênin, các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa của nhân loại. Đặc biệt, chủ nghĩa Mác - Lênin có vai trò quyết định nhất tới việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh bởi đã trang bị cho Người thế giới quan và phương pháp luận Mác xít. Với thế giới quan và phương pháp luận Mác xít, Hồ Chí Minh có sự chuyển biến về chất trong tư tưởng cách mạng của mình để có thể hấp thụ và chuyển hóa được những giá trị tích cực và tiến bộ trong truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, giúp Người nhận định, đánh giá, phân tích, tổng kết rất nhiều những học thuyết, quan điểm khác nhau và đặc biệt là những kinh nghiệm hoạt động thực tiễn một cách khoa học, để từ đó nâng trí tuệ của Người lên một tầm cao mới tìm ra con đường cứu nước đúng đắn – con đường cách mạng vô sản.

Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết duy nhất từ trước tới nay đặt ra mục tiêu, chỉ rõ con đường giải phóng triệt để giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới thoát khỏi tình trạng bị nô dịch và bóc lột, thoát khỏi đói nghèo và tha hoá về nhiều mặt. Đồng thời, học thuyết đó chỉ ra lực lượng cách mạng thực hiện sự nghiệp giải phóng và phát triển xã hội là giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đem lại cho họ niềm tin vào khả năng và sức mạnh của chính mình.

Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin còn thể hiện ở chỗ đó là học thuyết mở, không cứng nhắc, bất biến mà nó đòi hỏi luôn được bổ sung, tự đổi mới, tự phát triển trong dòng phát triển trí tuệ của nhân loại. Mác-Ăngghen cũng như Lênin đã nhiều lần khẳng định học thuyết của các ông không phải là cái đã xong xuôi, bất biến, không phải là giáo điều mà chỉ là kim chỉ nam cho hành động. Nó gắn liền với sự phát triển của phong trào cách mạng, với thực tiễn vận động của lịch sử, hay nói cách khác học thuyết đó chỉ đưa ra cơ sở và phương pháp luận cho suy nghĩ và hành động. Điều đó hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa giáo điều xơ cứng.

Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá một cách khách quan, chính xác, đầy đủ và sâu sắc vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình cách mạng Việt Nam. Vào năm 1927, Hồ Chí Minh đã viết: “…Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin”. Theo Người, chủ nghĩa Mác - Lênin không những là kim chỉ nam mà còn là “mặt trời soi sáng” con đường chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Trả lời phỏng vấn nhà báo Pháp vào tháng 7-1969, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng tôi giành được thắng lợi là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng… chúng tôi giành được những thắng lợi đó trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác - Lênin”.

Bác vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Hồ Chí Minh nhận thấy chủ nghĩa Mác - Lênin chủ yếu vẫn được hình thành trên nền tảng triết lý phương Tây, mang dấu ấn đấu tranh giai cấp ở phương Tây. Để hoàn thiện, Người đã bổ sung chủ nghĩa Mác - Lênin bằng dân tộc học phương Đông, bởi phương Tây chưa phải là toàn thế giới. Ví như, Thứ nhất, xác định mâu thuẫn cơ bản nhất trong xã hội: Ở Phương Tây sau khi các cuộc cách mạng tư sản thành công, các quốc gia tư bản được thành lập thì mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản; còn ở Việt Nam lúc này là thuộc địa của thực dân Pháp mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với bọn đế quốc xâm lược và phong kiến tay sai là mâu thuẫn cơ bản nhất, chủ yếu nhất. Thứ hai, mục đích của cách mạng: Trên cơ sở xác định mâu thuẫn cơ bản nhất trong xã hội, quan điểm của chủ nghĩa Mác cho rằng trước hết phải thực hiện nhiệm vụ giải phóng giai cấp, trong khi đó ở một nước thuộc địa như Việt Nam theo Hồ Chí Minh trước hết cách mạng phải nhằm giải phóng dân tộc, vấn đề này ở các nước tư bản châu Âu cơ bản đã được giai cấp tư sản làm trong cuộc cách mạng tư sản. Thứ ba, quan điểm về Đảng và xây dựng Đảng: Để thực hiện được mục đích của cuộc cách mạng, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác phải có Đảng lãnh đạo, Đảng đó là đội tiên phong của giai cấp vô sản, nó là sản phẩm của sự kết hợp giữa hai yếu tố: chủ nghĩa Mác cộng với phong trào công nhân. Ở Việt Nam, để cách mạng thắng lợi, Bác khẳng định phải có Đảng chân chính lãnh đạo, “Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác-Lê làm cốt” và ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam phải có thêm yếu tố phong trào yêu nước và ngay từ đầu Đảng đã cắm rễ sâu trong lòng dân tộc.

Nếu Hồ Chí Minh không vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta để xây dựng hệ thống lý luận cách mạng soi đường cho cách mạng Việt Nam thì làm sao chúng ta có thể chớp thời cơ và giành thắng lợi nhanh gọn trong thời gian chưa đầy hai tuần của tháng Tám năm 1945 và tiếp theo là thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến thần thánh, quá độ lên chủ nghĩa xã hội khi cả nước có chiến tranh với tư duy “chủ nghĩa xã hội thời chiến”.

Như vậy Bác đã tiếp thu có chọn lọc các yếu tố tích cực, biết kế thừa có phê phán, chọn lọc mọi tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho tư tưởng của mình, đúng như Bác đã nói “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội… Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”.

* Thứ ba, về nội dung: Theo quan điểm của Đảng được trình bày tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, tư tưởng Hồ Chí Minh gồm 9 nội dung cơ bản:

Một là, tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Hai là, tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Ba là, tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân. Bốn là, tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Năm là, tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. Sáu là, tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Bảy là, tư tưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Tám là, tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Chín là, tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. [Những nội dung này sẽ được làm rõ trong những bài tiếp theo]

* Thứ tư, về giá trị: Là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”. Tài sản tinh thần là khái niệm khó có thể nhận diện một cách cụ thể nhưng nó lại có khả năng gắn kết cộng đồng, kết dính tâm thức dân tộc. Trong thực tế tài sản vật chất có thể mất đi nhưng tài sản tinh thần thì luôn bền vững bởi nó góp phần tạo dựng nên truyền thống văn hóa, tạo nên hệ thống giá trị chuẩn mực của xã hội đồng thời định hướng giá trị cho tương lai.

Khi nói đến tài sản tinh thần là nói đến sức sống của một di sản trong cộng đồng, trong lòng dân tộc. Nhân dân ta, Đảng ta đã thừa hưởng một tài sản tinh thần to lớn là tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó chính là niềm tự hào lớn lao của dân tộc Việt Nam. Xác định tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và của dân tộc ta không chỉ thuần túy như một sự đề cập về vấn đề sở hữu mà còn xác định ý thức trách nhiệm trong việc giữ gìn, làm giàu và phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng lý luận và định hướng cho Đảng ta xây dựng đường lối đúng đắn, tổ chức lực lượng cách mạng và dẫn dắt nhân dân đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong toàn bộ tiến trình của cách mạng nước ta: thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp và thắng lợi trong kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng ta đã chỉ rõ: Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và là kim chỉ nam cho hành động của Đảng, đã đem lại thắng lợi cho công cuộc đổi mới ở nước ta, sẽ tiếp tục dẫn dắt chúng ta trên con đường xây dựng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” và trong giai đoạn hiện nay là soi đường cho Đảng và nhân dân ta trên con đường thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Thông qua việc học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh để bồi dưỡng, củng cố cho cán bộ, đảng viên lập trường, quan điểm cách mạng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tích cực đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là hệ thống kinh thánh, giáo điều, lý thuyết suông. Đó là một học thuyết khoa học được thực tiễn minh chứng, nó chính là cái hồn, cái thần thái, cái sức sống của thực tiễn đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.

2. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Chủ nghĩa Mác-Lênin, tưởng Hồ Chí Minh là gì, nguồn gốc, bản chất, nội dung, đặc trưng… rất dễ hiểu và cơ bản mọi người đã rõ. Vấn đề khó cần phải quan tâm là thực hiện sao cho đúng, cho trúng, cho hiệu quả, nhất là trong hoàn cảnh khó khăn hiện nay.

Nhìn lại lịch sử, từ khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời cho đến nay, luôn phải đương đầu với những cuộc đấu tranh về hệ tư tưởng giữa các lập trường, tư tưởng đối lập nhau. Đặc biệt, ngay sau khi các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ về mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội; lợi dụng sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực, các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản và bọn cơ hội, xét lại chủ nghĩa Mác - Lênin đã tuyên truyền, xuyên tạc, tấn công quyết liệt, lớn tiếng cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, lạc hậu; rằng chủ nghĩa Mác Lênin chỉ có giá trị ở cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, thế kỷ XXI không còn phù hợp nữa. Đồng thời, các thế lực thù địch cũng ra sức phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng cho rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự sao chép chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, thậm chí đem đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin; cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh theo chủ nghĩa dân tộc...

Hiện nay và những năm sắp tới, lợi dụng những khó khăn, những diễn biến phúc tạp của tình hình thế giới, khu vực trong nước, các thế lực thù địch đang và sẽ tiếp tục ra sức chống phá cách mạng Việt Nam, chống phá công cuộc đổi mới đất nước vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Nhân dân ta. Đặt biệt là tiếp tục công kích, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để đi tới xóa bỏ nền tảng lý luận của Đảng ra khỏi đời sống tinh thân của xã hội ta. Xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Truyền bá hệ tư tưởng tư sản phản động, xuyên tạc, hạ thấp, phủ nhận để đi tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam, hòng làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Cùng với âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, thì những diễn biến trong đời sống xã hội, sự tác động từ những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế đã làm cho một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân phai nhạt lý tưởng, giảm sút lòng tin, chạy theo lối sống thực dụng, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.

Trước những chống phá bằng các thủ đoạn, phương pháp ngày càng tinh vi, xảo quyệt, thâm độc của các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng, lý luận, chúng ta đã tích cực, chủ động triển khai các hoạt động đấu tranh phòng, chống và đã thu được những kết quả quan trọng, góp phần phê phán các quan điểm thù địch, sai trái, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trên cơ sở đó đã góp phần định hướng nhận thức, tư tưởng cho các tầng lớp nhân dân, củng cố niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Tuy nhiên, công tác đấu tranh phòng, chống các quan điểm thù địch, sai trái, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập trong nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân về những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành trong việc xác định chương trình, kế hoạch và tổ chức lực lượng, triển khai các hoạt động đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa thật sự chủ động, tích cực. Việc phối hợp, kết hợp đấu tranh và điều kiện bảo đảm thông tin, tư liệu, kinh phí cho hoạt động đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vẫn còn chưa theo kịp diễn biến của tình hình.

Vì vậy, việc đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống các quan điểm thù địch, sai trái trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận nhằm khẳng định, bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đẩy mạnh việc phê phán, bác bỏ các quan điểm thù địch, sai trái trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đang trỏ thành nhiệm vụ quan trọng trong công tác tư tưởng và lý luận ở nước ta hiện nay.

Để tiếp tục bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, phải kết hợp chặt chẽ giữa "xây" với "chống". Vừa kiên định, bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, vừa tích cực chủ động đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận.

Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là phải nắm vững mối quan hệ giữa kiên định và phát triển. Nghĩa là, phát triển trên cơ sở kiên định nguyên tắc cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, với xu thế của thời đại. Thực tiễn luôn vận động, phát triển và biến đổi không ngừng nên lý luận Mác - Lênin cũng cần được bổ sung, phát triển phù hợp với thực tiễn đương đại. Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống mở, không thể coi những nhận thức đạt được cho đến ngày nay là những chân lý tuyệt đối cuối cùng. Không ngừng phát triển chủ nghĩa Mác _ Lênin vừa là yêu cầu thực tiễn xã hội, vừa là yêu cầu nội tại của học thuyết Mác - Lênin. Có phát triển và thông qua phát triển, chủ nghĩa Mác - Lênin mới tự bảo vệ được mình, mới phát huy sức sống và sức mạnh với thời đại. Tư tưởng Hồ Chí minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Vì vậy, bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chính là phát huy sức mạnh, sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin ở nước ta.

Để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phải kiên quyết đấu tranh với những quan điểm, tư tưởng thù địch, sai trái, bảo vệ tính khoa học, trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cần tổ chức nghiên cứu, nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh từ những luận điểm chung đến những luận điểm cụ thể, trên từng lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Tăng cường hơn sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất cúa các cấp ủy đảng trong đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch; bảo đảm các hoạt động đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận theo đúng định hướng của Đảng, chặt chẽ về nguyên tắc, vững vàng trong quan điểm chính trị, sâu sắc về tính khoa học, hiệu quả trong phương pháp đấu tranh. Cần huy động lực lượng rộng rãi trong các cơ quan nghiên cứu lý luận, các cơ quan nghiên cứu khoa học, các cơ quan truyền thông, báo chí...tiến công chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Cung cấp đầy đủ các thông tin liên quan đến vấn đề đấu tranh dưới nhiều hình thức, để kịp thời định hướng đấu tranh. Quan tâm đầu tư kinh phí, phương tiện, điều kiện, vật chất cho các hoạt động đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận.

Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước tiếp tục có những chuyển biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường; cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ngày càng trở nên khó khăn. Vì vậy, đi đôi với tăng cường đấu tranh, phê phán, bác bỏ các quan điểm thù địch, sai trái, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phải từng bước hiện thực hóa những mục tiêu, chính sách, lý tưởng về chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Phải chứng minh trên thực tế tính cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước bằng những kết quả hiện thực, bằng những thành quả trong công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Cần khẳng định rằng, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và mọi tầng lớp nhân dân. Trong đó đội ngũ cán bộ, đảng viên là lực lượng đi đầu. Để đấu tranh, bảo vệ thành công nền tảng tư tưởng của Đảng, trước hết phải bảo vệ vững chắc nội bộ. Nội bộ đoàn kết, không dao động, không "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" thì thế lực thù địch dù có nhiều âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt đến mấy cũng khó bề làm lung lạc ý chí, niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Vì thế, việc đầu tiên là cần có biện pháp đấu tranh, khắc phục thực trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý không chỉ phai nhạt lý tưởng mà còn thiếu niềm tin vào con đường xã hội chủ nghĩa. Trong thực tiễn đời sống hiện nay vô cùng phức tạp, phong phú, muôn màu muôn vẻ, với đa quan điểm, đa cách nhìn, đa tính cách, quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong mỗi cá nhân, tổ chức thường bắt đầu từ mất niềm tin, mất phương hướng, từ bỏ lý tưởng, mục tiêu cách mạng, chủ nghĩa Mác-Lênin, sẵn sàng thay đổi, phản bội, đưa đất nước đi theo hướng khác, con đường phi xã hội chủ nghĩa. Thực tế là nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại trong cả nhận thức và hành động của một số người. Do mặt trái của kinh tế thị trường. Kết hợp với sự xuất hiện những thế mạnh của chủ nghĩa tư bản hiện đại trong quá trình toàn cầu hóa. Những điều đó đã tác động mạnh tới nhận thức của một số người, trong đó có một số văn nghệ sĩ, trí thức, làm cho nhận thức của họ trở nên mông lung, hoài nghi, mơ hồ, hối hận thậm chí còn sám hối. Để bảo vệ hiệu quả nền tảng tư tưởng của Đảng, thì toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần kiên trì tiến hành cuộc đấu tranh phê phán triệt để hệ tư tưởng tư sản, tư tưởng xã hội dân chủ, chủ nghĩa thực dụng tồn tại trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Tiếp tục khẳng định chế độ và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là con đường duy nhất đúng. Bởi nó vừa thể hiện tính cách mạng triệt để, vừa phù hợp với quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội. Bên cạnh đó, cần có biện pháp thiết thực củng cố và phát triển mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với các tổ chức trong hệ thống chính trị, hệ thống chính trị xã hội và nhân dân. Phê phán, bác bỏ các quan điểm, tư tưởng và ý đồ thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Phát hiện, xử lý kịp thời những âm mưu phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng từ các thế lực thù địch, vạch mặt những phần tử cơ hội chính trị, ngăn chặn những hành vi xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, ngăn chặn sự chia rẽ mối đoàn kết gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân và lực lượng vũ trang. Phải tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước, cụ thể là của bộ máy chính quyền các cấp; xử lý đúng đắn những mâu thuẫn nội bộ trong các tầng lớp nhân dân, không để tích tụ, tạo tâm lý bất bình và các "điểm nóng" về an ninh trật tự trong xã hội. Đồng thời, đẩy mạnh việc đấu tranh, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng, chủ nghĩa cơ hội, thực dụng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Quyết tâm làm trong sạch từ nhận thức đến hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên - đội ngũ vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", để tạo cơ sở nền tảng đấu tranh hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch. Để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới, cần tập trung vào những vấn đề cơ bản sau:

Một là, cần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đến toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên các mặt trận: Kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và xã hội; trong tất cả các vùng miền.

Hai là, phát huy quyền làm chủ thật sự và cao cả của từng người dân ở mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh, đảm bảo dân biết, dân góp ý, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng và dân phán quyết.

Ba là, phải thành tâm nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin. Phải nhân văn, trung thực, thành tâm thương dân như xương thịt của mình.

Bốn là, thật sự chăm lo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho mỗi người dân đảm bảo công tâm, công bằng, bình đẳng.

Năm là, tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, để làm tốt hơn nữa vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Sáu là, tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu lực, hiệu quả về xây dựng, chỉnh đốn hệ thống chính trị, làm cho hệ thống chính trị tinh gọn, trong sạch, vững mạnh, thật sự là “cầu nối” gắn bó máu thịt, sâu rộng giữa Đảng với Dân.

Bảy là, phải thấu hiểu lòng dân và phải giải tỏa nỗi lòng của dân, lợi ích của từng người dân là cao cả, là thiêng liêng nhất, phải trung thực, chân tình giúp đỡ dân nghèo, dân yếu thế, dân bị oan sai.

Tám là, tiến hành mạnh mẽ, sâu rộng, liên tục trên mọi phương tiện thông tin đại chúng, các hoạt động đấu tranh phản bác, phê phán những luận điệu sai trái, xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng, làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ âm mưu của các thế lực thù địch để phòng tránh.

Chín là, cần phải tăng cường kháng thể chống lại những căn bệnh trầm kha hiện hữu: chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa hình thức, chạy theo thành tích, chủ nghĩa tự cao tự đại, xu nịnh bợ đở, chủ nghĩa quan liêu, hách dịch, bè phái, cánh hẩu, cửa quyền, quan cách mạng, và chống bệnh lãnh cảm, phi nhân tính, vô nhân văn với Đảng ta, lấy "Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng" là nội dung được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, bổ sung, phát triển năm 2011 và các văn kiện của Đảng thời kỳ đổi mới. Văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng định: "Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam…”. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội…”

Ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, khi gặp Chủ nghĩa Mác-Lê nin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước và giải phóng dân tộc. Người đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đề ra đường lối kháng chiến, lãnh đạo Nhân dân làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Kiên định con đường đã lựa chọn, Đảng tiếp tục lãnh đạo Nhân dân đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, thu non sông về một mối. Hòa bình lập lại, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội và tiến hành công cuộc đổi mới đất nước thành công. Hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh không ngừng nghiên cứu, nắm vững bản chất khoa học và cách mạng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng vào điều kiện đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan niệm Chủ nghĩa Mác-Lênin như "cẩm nang thần kỳ", như "mặt trời chói lọi" soi sáng con đường cách mạng nước ta. Quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn “nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Tuy nhiên, những tác động của tình hình thế giới, khu vực, đặc biệt sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ; những khó khăn, vướng mắc nảy sinh trong quá trình đổi mới đất nước đã tác động đến nhận thức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, dẫn đến một bộ phận cán bộ, đảng viên dao động, hoang mang, phai nhạt lý tưởng; một số người giảm sút niềm tin vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, giảm sút ý chí chiến đấu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống...như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã chỉ ra; một số cán bộ mơ hồ về bản chất của thời đại, về nguyên nhân sự sụp đổ của Liên Xô, về thời kỳ quá độ, về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…, cho rằng Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ phù hợp thế kỷ XIX, không phù hợp thực tế Việt Nam hiện nay.

Trước thực trạng đó, những kẻ cơ hội chính trị tuyên truyền Chủ nghĩa Mác- Lênin đã lỗi thời. Mặc dù thực tế, những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tinh thần khoa học và cách mạng của nó vẫn giữ nguyên giá trị; các quy luật của phép biện chứng duy vật, lý luận nhận thức mácxít, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, học thuyết giá trị thặng dư, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân...vẫn hoàn toàn phù hợp thực tế, nhưng họ đã cố tình phủ nhận. Dù hoàn cảnh thế giới có thể thay đổi, nhưng những quy luật chủ yếu của lịch sử loài người vẫn phù hợp, có giá trị bền vững lâu dài. Quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng, thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc và những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước 35 năm qua là minh chứng sinh động nhất.

Một trong những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ được Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng chỉ ra là suy thoái trong nhận thức, thái độ, hành vi đối với nền tảng tư tưởng của Đảng: "Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh”. Sự dao động trong nhận thức về nền tảng tư tưởng của Đảng có thể dẫn đến sự phản bội lại mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Trước thực trạng đó, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 35 NQ-TW ngày 22/10/2018 về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.

3. Giải pháp tăng cường bảo vệ nền tảng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ quan trọng hiện nay. Để thực hiện tốt nhiệm vụ, cần lưu ý một số điểm sau:

Một là, nghiên cứu sâu để nắm vững bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, củng cố và giữ vững lập trường cách mạng, không hoang mang dao động trước những biến đổi của tình hình thế giới và khu vực.

Thứ hai, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị; đổi mới mạnh mẽ nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy lý luận chính trị tại Trường Chính trị tỉnh và trung tâm chính trị cấp huyện, coi trọng giáo dục các môn lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học, cao đẳng và các cơ sở giáo dục.

Thứ ba, tăng cường công tác tuyên truyền về đường lối quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Tích cực đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, vạch trần âm mưu thủ đoạn thổi phồng những sơ hở, yếu kém trong quản lý nhà nước nhằm kích động tâm lý bất mãn, chống đối, chia rẽ nội bộ, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Tăng cường định hướng báo chí và quản lý báo chí, internet, mạng xã hội; tăng cường công tác thông tin đối ngoại nhằm nâng cao tính chiến đấu của công tác tư tưởng, đẩy lùi tình trạng suy thoái về về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Mục đích chính của kẻ thù khi tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng chính là làm lung lạc niềm tin của cán bộ, đảng viên, của nhân dân, đặc biệt là của thế hệ trẻ về vai trò lãnh đạo của Đảng và định hướng xã hội chủ nghĩa, hòng tiến tới sự thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam. Nếu như “Dù ai nói ngả nói nghiêng/ Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân” thì mọi sự bịa đặt, vu khống sẽ đều vô nghĩa. Do đó, muốn “xây” thì phải chống; muốn “chống” thì phải “xây” - xây dựng niềm tin, xây dựng tình yêu đối với lãnh tụ và với Đảng. Niềm tin ấy tuyệt đối không phải là sự cuồng tín mà phải là niềm tin khoa học, được bồi đắp bằng sự định hướng chính trị đúng đắn và nguồn thông tin chuẩn xác. Do đó, phải làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong toàn Đảng, toàn dân mà đối tượng đầu tiên là cán bộ, đảng viên. Phải làm cho việc tìm hiểu, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành một nhu cầu văn hóa của mỗi cán bộ; việc lười học chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cần bị lên án như một biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng - chính trị.

Thứ tư, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị và cán bộ làm công tác tuyên truyền, giáo dục, đội ngũ báo cáo viên các cấp và đội ngũ chuyên gia 35 của tỉnh. Hình thành đội ngũ cán bộ bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ lý luận chuyên sâu, giàu khả năng tư duy sáng tạo, am hiểu tình hình trong nước, thế giới, có khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn, sẵn sàng đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ Đảng, bảo vệ đất nước./.

Kiên định, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế:

Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục truyền thống, khơi dậy tinh thần yêu nước, giáo dục và nâng cao nhận thức của đoàn viên thanh niên và thế hệ trẻ về những thành quả mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đạt được qua từng giai đoạn lịch sử. Nâng cao nhận thức, lý tưởng cách mạng cho đảng viên trẻ, đoàn viên ưu tú, từ đó nâng cao khả năng lý luận góp phần thực hiện việc phản bác các luận điệu xuyên tạc, các quan điểm sai trái của các thế lực phản động. Đề cao nhận thức và vai trò của người thủ lĩnh thanh niên trong việc định hướng và tổ chức các nội dung hoạt động tại đơn vị.

Thứ hai, nâng cao nhận thức trong việc sử dụng mạng xã hội, truyền thông. Kịp thời tuyên truyền các thông tin chính thống, thông tin tích cực, định hướng đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên các lĩnh vực, trên không gian mạng. Phát động các phong trào thi đua tích cực trên các trang mạng xã hội. Tăng cường nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm góp phần nâng cao sức đề kháng trong nhận diện và xử lý các vấn đề tiêu cực trên các trang mạng xã hội và trong dư luận quần chúng.

Thứ ba, nâng cao chất lượng đoàn viên ưu tú giới thiệu cho Đảng xem xét kết nạp; đồng thời định kỳ hàng quý, có đánh giá đảng viên dự bị, đảng viên trẻ về ý thức, trách nhiệm và nhận thức về nền tảng tư tưởng của Đảng, về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch trong tình hình hiện nay.

Thứ tư, duy trì và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Câu lạc bộ Lý luận trẻ, xây dựng chuyên đề thực tiễn công tác đối với nâng cao khả năng lý luận chính trị, kỹ năng, nghiệp vụ phản bác bằng những việc làm cụ thể. Thể hiện vai trò, trách nhiệm trong đề ra các giải pháp có hiệu quả thực hiện cuộc vận động “Người cộng sản trẻ”; thể hiện tiếng nói, ý chí và hành động cụ thể trong các diễn đàn “Đảng với thanh niên, thanh niên với Đảng”, tăng cường thông tin tích cực đi đôi với ngăn chặn có hiệu quả, xử lý, xoá bỏ thông tin xấu độc trên Internet, mạng xã hội.

Thứ năm, tích cực tham gia các phong trào hành động cách mạng của Đoàn như “Tuổi trẻ xung kích xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, phong trào “Thanh niên tình nguyện”, phong trào “Tuổi trẻ sáng tạo”, phát huy vai trò xung kích, tình nguyện của tuổi trẻ trong đề ra các hoạt động, mô hình, giải pháp để giải quyết các vấn đề mà người dân quan tâm, đồng thời hỗ trợ giải quyết các nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của đông đảo đoàn viên, thanh niên như: vệ sinh môi trường, cải cách hành chính, phòng chống tội phạm, truyền thông trên mạng xã hội…. để qua đó nâng cao uy tín của từng đồng chí đảng viên trẻ, đoàn viên ưu tú. Để giáo dục thế hệ trẻ, phải tiếp tục cải tiến chương trình và đưa môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh vào các cấp học với hình thức phù hợp và liên thông để tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh dần thấm sâu vào tâm hồn, khối óc của thế hệ tương lai. Đội ngũ cán bộ tuyên truyền phải tìm ra những hình thức mới - sinh động mà thấm thía, đặc biệt là phải khai thác khả năng lay động lòng người của văn học - nghệ thuật để hình ảnh Hồ Chí Minh luôn sống động, gần gũi trong tâm thức nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, dù sử dụng hình thức tuyên truyền nào thì nội dung tuyên truyền phải có cơ sở khoa học, nguồn tư liệu chính xác. Sự thật chính là thứ “vắc xin” đặc hiệu nhất để gây dựng lòng tin, chống sự xuyên tạc.

Thứ sáu là, đẩy mạnh việc kiểm soát các trang mạng độc hại, chấn chỉnh sự phát ngôn thiếu trách nhiệm và tăng cường việc tác chiến trên không gian mạng. Những kẻ xuyên tạc đã triệt để sử dụng sự tiện lợi Internet và các trang mạng xã hội để tuyên truyền thông tin độc hại, vì vậy, chúng ta cần triển khai hệ thống kỹ thuật, nghiệp vụ phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm bóc gỡ, ngăn chặn, vô hiệu hóa các trang mạng, block, Facebook vi phạm pháp luật Việt Nam. Tuyên truyền và triển khai có hiệu quả Luật An ninh mạng [2018] để cán bộ, nhân dân hiểu rõ quyền lợi, trách nhiệm của mình trong việc tiếp nhận, cung cấp, phát tán thông tin. Cần làm cho người dân hiểu rõ, Nhà nước Việt Nam bảo đảm quyền tự do ngôn luận nhưng không cho phép việc phát tán bí mật quốc gia hay đưa ra các thông tin sai trái, bịa đặt làm tổn hại đến truyền thống, văn hóa dân tộc, uy tín của Đảng và Nhà nước, danh dự của người khác... Sự đúng mực, trách nhiệm trong phát ngôn hàng ngày và khi dùng mạng xã hội là yêu cầu bắt buộc, là tiêu chí để đánh giá cán bộ, đảng viên. “Đội quân tinh nhuệ” trên mặt trận tư tưởng phải xác định rõ: Không gian mạng chính là môi trường tác chiến chủ đạo để đấu tranh; cho nên, họ phải hình thành các trang web cá nhân, mở rộng phát triển các bloger, ứng dụng hiệu quả các phương tiện công nghệ thông tin hiện đại để kịp thời đưa tin và phản bác thông tin xấu độc.

Thứ bảy là, tiến hành tổng kết kinh nghiệm về công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng. Việc tổng kết kinh nghiệm sẽ mang lại cách làm hay, loại bỏ những cách làm chưa hiệu quả.

Tiếp nối truyền thống của dân tộc, tuổi trẻ Việt Nam bằng tất cả trách nhiệm và nhiệt huyết của mình sẽ phát huy cao nhất tinh thần tiên phong, tình nguyện qua những hành động cụ thể, việc làm sáng tạo đóng góp chung vào kết quả phát triển kinh tế – xã hội; cụ thể hóa sự quyết tâm của tuổi trẻ bằng kết quả trong học tập, lao động, sản xuất, kinh doanh, bằng các phong trào tình nguyện thiết thực, nhận thức đúng đắn các thông tin tích cực đi đôi với ngăn chặn có hiệu quả, xử lý, xoá bỏ thông tin xấu độc trên Internet, mạng xã hội góp phần cùng Đảng bộ và Chính quyền phát triển kinh tế; xây dựng và phát triển đô thị hiện đại; chăm lo cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện an sinh xã hội; xây dựng tổ chức Đoàn vững mạnh để luôn là người bạn đồng hành với thanh niên bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình hiện nay một cách hiệu quả và thiết thực nhất.

KẾT LUẬN

93 năm lãnh đạo và trưởng thành, 37 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta, Nhân dân ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực củ đời sống xã hội. "Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay". Điều đó là một minh chứng sinh động, khẳng định Đảng ta đã tuyệt đối trung thành và vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Song, chúng ta cũng cần nhận thức sâu sắc rằng, con đường mà chúng ta đang đi tới là không dễ dàng, bằng phẳng mà phải trải qua nhiều khó khăn, gian khổ. Nhưng chúng ta luôn tin tưởng chắc chắn rằng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất định sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh được hiện thực hóa trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; các quan điểm sai trái, thù địch chống phá cách mạng Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận sẽ sớm bị vạch trần bởi tính chất phản khoa học, cách mạng của chúng.

Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh từ đầu?

Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh? Trả lời: Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển trong quá trình lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện Việt Nam, lãnh đạo Đảng và nhân dân ta đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, xây dựng xã hội mới.

Một trọng những nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh là tiếp thu văn hóa phương Đông cụ thể là gì?

Tiếp thu văn hóa phương Đông, trước hết là Nho giáo, Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng đắn vai trò của Nho giáo và người sáng lập ra nó là Khổng Tử và đã đặc biệt khai thác những mặt tích cực của tư tưởng Nho giáo. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ những mặt bất cập, hạn chế của Nho giáo.

Nguồn gốc nào là nguồn gốc quan trọng nhất quyết định đến bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh tại sao?

Vì vậy, chủ nghĩa Marx - Lenin chính là một nguồn gốc lý luận, là cơ sở chủ yếu có vai trò quyết định trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng chủ nghĩa Marx - Lenin trong hoàn cảnh của Việt Nam.

tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân văn là gì?

Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là “toàn bộ suy nghĩ và tình cảm đã chi phối suốt cả cuộc đời của Người, một cuộc đời đấu tranh không mệt mỏi cho độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân, cho sự giải phóng của cả nhân loại và của mỗi con người”[1].

Chủ Đề