Nguyên nhân việt nam sập bẫy thu nhập trung bình năm 2024

Bẫy thu nhập trung bình là một chướng ngại mà bất kỳ quốc gia nào cũng phải trải qua trong quá trình phát triển kinh tế. Khái niệm “bẫy thu nhập trung bình” được Ngân hàng Thế giới [World Bank] lần đầu đưa ra vào năm 2007. Đây là thuật ngữ dùng để chỉ tình trạng một quốc gia mặc dù đã thoát nghèo, gia nhập vào nhóm nước có thu nhập trung bình nhưng mất nhiều thập kỷ vẫn không trở thành quốc gia phát triển. Có không ít quốc gia gặp phải tình trạng này và là sự cảnh báo đối với các quốc gia khác trong điều hành và phát triển kinh tế.

Năm 2020, Ngân hàng Thế giới phân loại nhóm nền kinh tế thu nhập thấp có GDP bình quân đầu người ở dưới mức 1.035 USD; nhóm nền kinh tế có thu nhập trung bình thấp sở hữu mức GDP bình quân đầu người từ 1.036 USD-4.045 USD; các nền kinh tế thu nhập trung bình cao có mức GDP bình quân đầu người từ 4.046 USD-12.535 USD và nhóm nền kinh tế thu nhập cao có GDP bình quân đầu người trên 12.536 USD. [5]

Theo mức phân loại này của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam được xếp trong nhóm các nền kinh tế có mức thu nhập trung bình thấp. Việt Nam chính thức thoát ngưỡng thu nhập thấp vào năm 2009 khi mức GDP bình quân đầu người đạt 1.160 USD. Kể từ thời điểm đó đến nay, chỉ tiêu này vẫn tăng hàng năm nhưng luôn nằm trong giới hạn thu nhập trung bình thấp. Giai đoạn 2010 - 2019, nước ta liên tiếp đạt mức thu nhập bình quân đầu người năm sau cao hơn năm trước. Trong giai đoạn này, thu nhập bình quân của Việt Nam tăng từ 1.273 USD [năm 2010] lên 2.109 USD [năm 2015] và tăng lên 2.714 USD năm 2019.

Năm 2020, đại dịch Covid-19 đã gây ra những ảnh hưởng toàn diện, sâu rộng đến tất cả các quốc gia trên thế giới và hiện nay vẫn còn diễn biến phức tạp. Nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập quốc tế sâu rộng và chịu nhiều tác động, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Trong báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội tới, Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá 14, Chính phủ đánh giá quy mô GDP tiếp tục tăng nhưng giá trị gia tăng thấp hơn nhiều so với năm 2019 và bình quân giai đoạn 2016 - 2020. Năm 2020, GDP theo giá hiện hành ước đạt khoảng 6,3 triệu tỉ đồng, tăng khoảng 263.000 tỉ đồng so với năm 2019; đáng chú ý, GDP bình quân đầu người ước đạt 2.750 USD, tăng gần 35,6 USD so với năm 2019. Tốc độ tăng GDP năm 2020 thấp hơn nhiều so với mức tăng của năm 2019 [đạt 7,02%]. Các hoạt động sản xuất, kinh doanh của Việt Nam chỉ cố gắng ở mức duy trì hoạt động, động lực tăng trưởng phải dựa nhiều vào vốn. Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế [IMF] năm 2020, kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng mức 2,4% và là một trong 4 nền kinh tế trên thế giới có được sự tăng trưởng về GDP bình quân đầu người. [6]

Tuy nhiên, cách thức tăng trưởng kinh tế của nước ta cũng bộc lộ những khiếm khuyết khiến cho mức tăng trưởng biến động, không ổn định. Trong quy mô tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, vốn đóng vai trò rất quan trọng. Việt Nam đã huy động được lượng vốn đầu tư khá lớn kể từ khi thực hiện chính sách mở cửa. Mặc dù vốn đầu tư tăng lên nhưng hiệu quả đầu tư còn thấp, biểu hiện ở chỉ số ICOR khá cao trong các giai đoạn phát triển: 2011 - 2015 là 6,25; năm 2016 là 6,42; năm 2017 giảm xuống 6,11; 5,97 năm 2018; năm 2019 đạt 6,07. Bình quân giai đoạn 2016 - 2019 hệ số ICOR đạt 6,14, thấp hơn so với hệ số 6,25 của giai đoạn 2011 - 2015.

Tăng trưởng của Việt Nam trong những năm vừa qua chủ yếu dựa vào tăng vốn, ít dựa vào gia tăng hiệu quả sử dụng lao động và vốn thông qua ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất, chế tạo và quản lý. Quy mô vốn luôn là yếu tố có tỷ trọng đóng góp vào tăng trưởng nhiều nhất, trong khi đó năng suất bình quân tổng hợp của vốn và lao động [TFP] lại thường xuyên là yếu tố có tỷ trọng đóng góp nhỏ nhất. Mức đóng góp của các nhân tố đầu vào cho tăng trưởng kinh tế cho thấy tăng trưởng Việt Nam đã phụ thuộc quá nhiều vào vốn vật chất để tăng trưởng. Điều này dẫn đến hệ quả là: để tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam cần rất nhiều vốn đầu tư, khiến tín dụng tăng theo. Nhưng do nền kinh tế kém hiệu quả nên kết cục tất yếu là lạm phát cao, lãi suất cho vay cũng rất cao, thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại lớn. Mức độ ổn định kinh tế vĩ mô của nền kinh tế trở nên thiếu vững chắc, môi trường kinh doanh không ổn định.

Cơ cấu kinh tế ngành, vùng bước đầu tác động tích cực lên năng suất lao động, nhất là trong khu vực nông nghiệp, từng bước có sự gắn kết trong không gian phát triển hợp lý hơn giữa các ngành, vùng kinh tế. Tuy nhiên, chưa tạo chuyển biến rõ nét về hiệu quả sử dụng nguồn lực của các ngành và vùng kinh tế. Cơ cấu lại ngành nông nghiệp chưa tạo chuyển biến mạnh về tổ chức sản xuất, vẫn chủ yếu là kinh tế hộ nhỏ lẻ; năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của một số loại nông sản chưa cao. Cơ cấu lại ngành công nghiệp còn chậm, nhất là trong việc phát triển một số ngành công nghiệp ưu tiên như cơ khí chế tạo, công nghiệp phụ trợ...

Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế. Tính đến hết năm 2019, lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ước tính là 49,1 triệu người, tăng 527,7 nghìn người so với năm trước. Lao động đã qua đào tạo từ trình độ “Sơ cấp” trở lên năm 2019 ước tính là 12,7 triệu người, chiếm 22,8%. Có thể thấy nước ta có lực lượng lao động trẻ dồi dào nhưng trình độ tay nghề và chuyên môn kỹ thuật thấp, chưa đáp ứng cho định hướng phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, các chương trình giáo dục đào tạo, đặc biệt đào tạo nghề vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Tình trạng thất nghiệp cao trong thanh niên, đặc biệt là những người tốt nghiệp ở các trường đại học, cao đẳng là vấn đề đáng báo động.

Như vậy, sau gần 35 năm đổi mới với nhiều chính sách ưu tiên, ưu đãi, khoa học, công nghệ của Việt Nam đã được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan, trình độ khoa học, công nghệ hiện tại vẫn chưa thể đáp ứng được cho các yêu cầu tăng trưởng và phát triển bền vững. Trình độ khoa học, công nghệ quốc gia nhìn chung còn khoảng cách so với nhóm đầu khu vực. Hiệu quả nghiên cứu khoa học, công nghệ và ứng dụng kết quả nghiên cứu chưa cao. Năng lực hấp thụ công nghệ, đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp trong nước còn nhiều hạn chế.

Cách tăng trưởng của Việt Nam trong thời gian qua có thể khẳng định là tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng, dẫn tới khi hiệu quả sử dụng vốn ngày một giảm. Nguồn nhân lực chất lượng thấp, một nền công nghệ lạc hậu, Việt Nam có thể nào duy trì được mức tăng trưởng hiện tại, từ đó cũng không thể tăng mức thu nhập bình quân đầu người, từ đó sẽ vùng vẫy mãi trong mức thu nhập trung bình. Bởi vậy, nếu không có sự thay đổi nhanh chóng, kịp thời trong thời gian tới, việc sập bẫy thu nhập trung bình là tương lai được dự báo trước. Để thoát ra khỏi “bẫy thu nhập trung bình”, Việt Nam phải thực hiện đồng bộ cùng lúc các biện pháp, chính sách vi mô, vĩ mô hướng đến trọng tâm phát triển nguồn nhân lực và khoa học, công nghệ để đạt được mục tiêu được đưa ra trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII: “Đến năm 2030, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế.”

--

Tài liệu tham khảo:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII

2. Nguyễn Văn Luân, Ngô Văn Hải, Nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình đối với phát triển kinh tế Việt Nam, Tạp chí phát triển KH & CN, tập 18, số Q2 - 2015

Chủ Đề