Phân tích câu tục ngữ đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma thì mặc áo giấy

Con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội. Môi trường, hoàn cảnh xung quanh có ảnh hưởng rất lớn đối với mỗi người. Bàn về vấn đề này, tục ngữ có câu: “ Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”. Trước tiên, chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa của câu tục ngữ. Mực là một chất liệu để viết, có màu đen; đèn là một vật dụng phát ra ánh sáng. Gần ánh đèn mọi vật sẽ được soi sáng. Nhưng mực và đèn còn là hai hình ảnh tượng trưng cho môi trường sống của con người. Khi sống trong một môi trường xấu thì con người cũng sẽ bị ảnh hưởng những cái xấu xa. Nếu sống trong một môi trường tốt thì con người đó cũng sẽ được ảnh hưởng những điều tốt đẹp. Từ đó, ông cha ta muốn khuyên dạy chúng ta phải biết chọn cho mình một môi trường sống thật tốt. Bởi vì môi trường sống có ảnh hưởng lớn tới nhân cách của con người. Vậy, tại sao ông cha ta lại nói: “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng” ? Mỗi một người đều sống trong một môi trường khác nhau nhưng phải biết chọn cho mình một môi trường sống tốt. Môi trường sống tốt đó là một môi trường biết đoàn kết yêu thương, biết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ…. Vì vậy nếu chúng ta không biết chọn cho mình một môi trường sống tốt đẹp thì nhân cách của chúng ta cũng sẽ bị ảnh hưởng. Câu tục ngữ đã khuyên dạy chúng ta tránh xa môi trường xấu, bởi vì nếu sống trong môi trường xấu, chúng ta cũng sẽ bị ảnh hưởng những cái xấu xa; còn ở những môi trường tốt chúng ta sẽ đựơc học tập những điều tốt đẹp, mở mang vốn hiểu biết và trở thành con người có ích cho xã hội. Đặc biệt, cuộc sống con người khi gặp phải khó khăn rất dễ bị xa ngã nếu không tỉnh táo sẽ bị cám dỗ làm mất đi nhân cách tốt đẹp của mình. Vì vậy, câu tục ngữ thực sự như là một lời giáo huấn của ông cha ta. Người học sinh chúng ta trong trắng, rất dễ bị tác động của môi trường sống bên ngoài. Vì vậy để giữ được nhân cách và phẩm chất của mình, chúng ta phải nhận thức được vai trò của môi trường sống vô cùng quan trọng tới việc hình thành nhân cách của con người. Nghĩa là chúng ta phải xa lánh những tệ nạn xã hội, phải biết chọn bạn mà chơi để nhân cách của mình không bị vẩn đục; biết phân tích giảng giải cho bạn bè hiểu được gía trị của phẩm chất đạo đức con người. Chúng ta phải luôn luôn biết được bổn phận của người học sinh, biết gần gũi thân ái với bạn bè để xung quanh chúng ta luôn có môi trường sống tốt đẹp để chúng ta hoàn thiện nhân cách của mình.

Câu tục ngữ với hình ảnh giàu ý nghĩa tượng trưng đã trở thành một bài học có giá trị để giáo dục biết bao thế hệ thấy được vai trò của môi trường sống. Trong xã hội ngày nay, có rất nhiều những tệ nàn xã hội thì việc làm theo lời khuyên của cha ông ta thực sự có giá trị đối với mỗi người.

tham khảo thêm //diendan.hocmai.vn/showthread.php?t=217038

Giải thích Gần mực thì đen gần đèn thì rạng

Từ lâu nhân dân ta đã rút ra kết luận đúng đắn là môi trường xã hội mà mình đang sống, đặc biệt là mối quan hệ bạn bè có một tác dụng quan trọng đối với nhân cách đạo đức của mỗi người. Kết luận ấy được đúc kết lại thành câu tục ngữ:

“ Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”​

Câu tục ngữ có giúp ích gì cho chúng ta trong cuộc sống hôm nay? Để nêu lên một bài học, một kinh nghiệm trong cuộc sống, ông cha ta thường mượn hình ảnh sự vật có liên quan đến con người để thể hiện ý của mình. Mực có màu đen, nếu ta tiếp xúc, sử dụng không khéo léo sẽ dễ dàng bị vấy bẩn. Mực tượng trưng cho những cái xấu xa, những điều không tốt đẹp. Còn đèn là vật phát ra ánh sáng soi tỏ mọi vật xung quanh. Đến gần đèn, ta được soi sáng. Đèn tượng trưng cho những cái tốt đẹp, sáng sủa. Từ hai hình ảnh tương phản nhau “ mực” và “ đèn”, câu tục ngữ nhằm nhắc nhở chúng ta : Nếu giao du với những người xấu ta se tiêm nhiễm thói hư tật xấu; ngược lại nếu ta quan hệ với người tốt ta sẽ được ảnh hưởng tốt, sẽ học tập được những đức tính của bạn Câu tục ngữ là bài học kinh nghiệm của người xưa được đúc kết từ cuộc sống. Nó thể hiện rất rõ mối quan hệ giữa môi trường xã hội vơi việc hình thành nhân cách con người. Ở gia đình, cha mẹ anh chị là tấm gương để cho đứa trẻ bắt chước. Nếu gia đình hòa thuận, cha mẹ là tấm gương sáng về học tập, về đạo đức thì gia đình đó sẽ có những đứa con ngoan. Trong khu xóm cũng vậy, nếu cả tập thể đều biết chấp hành tốt những quy định chung về nếp sống văn minh đô thị , biết giáo dục con cái tốt thì con em trong khu phố đó sẽ có một cuộc sống nền nếp đạo đức tốt. Gần gũi với chúng ta nhất là việc giao du với bạn bè trong trường trong lớp, nếu ta quan hệ được với nhiều bạn tốt, chăm ngoan học giỏi, nói năng lễ độ biết kính trên nhường dưới… thì chúng ta sẽ học tập được những đức tính tốt ấy và trở nên người tốt. Ngược lại, trong gia đình, nếu cha mẹ chỉ biết lo làm ăn không quan tâm đến con cái, vợ chồng luôn luôn bất hòa thì chắc chắn những đứa trẻ lớn lên trong môi trường đó sẽ nhanh chóng trở thành đứa con hư. Ngoài xã hội, khi tiếp xúc gần gũi với môi trường không tốt đẹp, con người dễ dàng tập nhiễm những thói hư tật xấu và dần dần đánh mất bản chất lương thiện của mình. Cụ thể ở môi trường học tập, quanh ta có biết bao nhiêu bạn xấu thường xuyên trốn học, quậy phá, học yếu làm phiền lòng thầy cô. Nếu ta cứ lân la gắn bó với những bạn ấu ấy thì sớm muộn gì ta cũng bị ảnh hưởng lây. Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, nhân dân ta có nhiều câu ca dao mang nội dung giáo dục về vấn đề này:

“ Thói thường gần mực thì đen
Anh em bạn hữu phải nên chọn người”​

Tuy nhiên, không phải ai cũng dễ dàng bị lôi kéo bởi môi trường xấu xa. Vẫn có những cánh sen vươn lên từ bùn lầy nước đọng, dù xung quanh hôi hám sen vẫn nở đẹp và tỏa ngát hương thơm. Thực tế vẫn có những người sống trong môi trường không tốt đẹp, không thuận lợi mà vẫn giữ mình không sa ngã. Môi trường càng xấu xa thì phẩm chất của con người càng tuyệt vời đáng khâm phục. Anh Nguyễn Văn Trỗi, người thợ điện ở thành phố Sài Gòn hoa lệ, vẫn không chút mảy may xao động bởi cuộc sống hào nhoáng, những thủ đọan lọc lừa xảo trá. Anh chọn cho mình con đường Cách mạng, chấp nhận chiến đấu và hy sinh cho lý tưởng mà mình theo đuổi… Tấm gương của anh và biết bao gương sáng khác đã trở thành bài học cho bao thế hệ cháu con học tập. Ngày nay, trong xu thế cả nước tiến lên con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa, vẫn có những con người không giữ vững bản chất tốt đẹp của mình. Giữa cuộc sống tốt đẹp, giữa môi trường thân thiện, họ vẫn biến chất, thoái hoa, sống ăn chơi sa đọa trên những đồng tiền bất chính, những đồng tiền mồ hôi xương máu của nhân dân đóng góp… Những con người đó chính là những “ con sâu làm rầu nồi canh”, là thứ ung nhọt của xã hội mà chúng ta có nhiệm vụ phải loại trừ. Có thể nói, câu tục ngữ trên là một lời khuyên bảo sâu sắc, giúp em bài học bổ ích, một cách nhìn đúng đắn về mối quan hệ giữa môi trường xã hội với việc hình thành nhân cách của bản thân. Câu tục ngữ giúp em có tinh thần cảnh giác trong việc giao du tiếp xúc với bạn bè, đồng thời xác định cho mình một thế đứng vững vàng trước những tác động tiêu cực của môi trường xung quanh để luôn luôn “ gần mực” mà vẫn không “ đen” và “ gần đèn” để luôn tỏa sáng. Từ xưa,trong cuộc sống lao động và chiến đấu của mình,nhân dân ta đã rút được biết bao bài học quý giá.Đó là những kinh nghiệm trong sản xuất,chiến đấu và cách ứng xử trong xã hội.Đó là cách nhìn nhận mối quan hệ giữa môi trường xã hội với việc hình thành nhân cách của mỗi người. Câu tục ngữ : “Gần mực thì đen,gần đen thì rạng” đã nói lên kinh nghiệm đó. Để nêu lên một bài học,một kinh nghiệm trong cuộc sống,ông cha ta thường mượn hình ảnh một sự vật có liên quan đến con người để thể hiện ý của mình.Mực màu đen,tượng trưng cho những cái xấu xa,những cái không tốt đẹp.Đèn là vật phát ra ánh sáng,soi tỏ mọi vật xung quanh,tượng trưng cho những cái tốt đẹp,sáng sủa.Từ hai hình ảnh tương phản nhau “mực và đèn”,câu tục ngữ đã đưa ra kết luận : “Gần mực thì đen,gần đèn thì rạng”.Đó là quy luật của sự vật.Dựa vào thực tế cuộc sống của con người,ta thấy câu tục ngữ hoàn toàn đúng khi xét trong mối quan hệ giữa môi trường xã hội với việc hình thành nhân cách mỗi người.Nhưng trong vài trường hợp đặc biệt,có thể gần mực mà không đen,gần đèn mà không rạng.Vì con người có khả năng vượt khỏi hoàn cảnh,chế ngự môi trường xung quanh. Trong thực tế,hai mặt khả năng này không loại trừ nhau mà chúng bổ sung cho nhau,giúp chúng ta hiểu một cách đầy đủ về mối quan hệ giữa môi trường xã hội với việc hình thành nhân cách. Trong kho tàng văn học dân gian,nhân dân ta có câu tương tự :

Ở bầu thì tròn,ở ống thì dài​

Và :

Thói thường gần mực thì đen
Anh em bạn hữu phải nên chọn người.​

Những câu ca dao,tục ngữ đó đã khẳng định ảnh hưởng quyết định của môi trường xã hội đối với việc hình thành nhân cách.Trong thực tế cuộc sống,nhà trường làm công tác giáo dục tốt vì nhà trường đã chú ý đến quang cảnh sư phạm và xây dựng môi trường xã hội tốt.Ở gia đình cũng vậy,cha mẹ là những tấm gương sáng,anh chị em hòa thuận,thì gia đình sẽ có những người con ngoan.Ở lớp học cũng thế,lớp nào biết quan tâm xây dựng tập thể tốt,quan hệ giữa thầy và trò,bạn bè đúng đắn,thân ái đoàn kết,thì lớp đó có nhiều học sinh giỏi,đạo đức tốt.Gần gũi hơn,trong quan hệ bạn bè,nếu ta chơi với một người bạn tốt,chăm ngoan,học giỏi,thì chúng ta sẽ học tập được những đức tính tốt ấy và sẽ trở thành người tốt.Ngược lại,trong một gia đình,nếu cha mẹ không quan tâm đến con cái,anh em không nhường nhịn nhau,thì con cái trong gia đình cũng dễ lười biếng,ăn chơi,đua đòi. Ở những môi trường xã hội phức tạp càng dễ sinh ra những hành vi phạm pháp. Trong thực tế,khó mà tạo ra một môi trường hoàn toàn lành mạnh và tốt đẹp.Trong xã hội cũ cũng như trong xã hội chúng ta ngày nay,những yếu tố lành mạnh và chưa lành mạnh,tốt đẹp và xấu xa thường xen kẽ vào nhau để cùng tồn tại và phát triển.Có lúc,có nơi,cái chưa lành mạnh,cái chưa tốt đẹp lại lấn át cái đẹp,cái lành mạnh.Đó là lúc môi trường xã hội không thuận lợi cho việc hình thành nhân cách.Nhưng chính trong môi trường không thuận lợi ấy,vẫn có những con người có phẩm chất cao đẹp,có tình cảm đạo đức tốt đẹp,có những hành động cao cả.Chính trong môi trường không thuận lợi đó vẫn nở rộ những bông sen thơm ngát từ chốn bùn đen hôi tanh.Đó là những con người biết vượt lên trên mọi cám dỗ thấp hèn,làm được những việc có ích cho đất nước và cho chính bản thân mình. Ngày nay,trên đất nước ta còn nhiều hiện tượng tiêu cực,mặc dù chế độ ta về cơ bản là tốt đẹp.Do đó,bất cứ lúc nào,vẫn có những trường hợp gần mực mà không đen,gần đèn mà vẫn tối tăm. Sống trong môi trường tốt đẹp,nhưng chúng ta vẫn phải tiếp xúc với những hiện tượng không lành mạnh,những hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Câu tục ngữ là một lời khuyên bảo sâu sắc,đã mang đến cho chúng ta một bài học bổ ích,có cách nhìn đúng đắn về mối quan hệ giữa môi trường xã hội với việc hình thành nhân cách của bản thân.Câu tục ngữ giúp chúng ta xác lập một thế đứng vững chắc trước những tác động tiêu cực ngoài xã hội và nếu bị rơi vào một hoàn cảnh không thuận lợi,đầy rẫy những tiêu cực thì chúng ta nên có quyết tâm vượt qua.Nó giúp chúng ta có tinh thần cảnh giác trước những tác động tiêu cực của môi trường xung quanh để luôn luôn “gần mực mã vẫn không đen” và chúng ta nên có ý chí quyết tâm trở thành một ngọn đèn luôn luôn tỏa sáng.

Nguồn: Net

Last edited by a moderator: 1 Tháng năm 2012

Từ lâu nhân dân ta đã rút ra kết luận đúng đắn là môi trường xã hội mà mình đang sống, đặc biệt là mối quan hệ bạn bè có một tác dụng quan trọng đối với nhân cách đạo đức của mỗi người. Kết luận ấy được đúc kết lại thành câu tục ngữ: “ Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” Câu tục ngữ có giúp ích gì cho chúng ta trong cuộc sống hôm nay? Để nêu lên một bài học, một kinh nghiệm trong cuộc sống, ông cha ta thường mượn hình ảnh sự vật có liên quan đến con người để thể hiện ý của mình. Mực có màu đen, nếu ta tiếp xúc, sử dụng không khéo léo sẽ dễ dàng bị vấy bẩn. Mực tượng trưng cho những cái xấu xa, những điều không tốt đẹp. Còn đèn là vật phát ra ánh sáng soi tỏ mọi vật xung quanh. Đến gần đèn, ta được soi sáng. Đèn tượng trưng cho những cái tốt đẹp, sáng sủa. Từ hai hình ảnh tương phản nhau “ mực” và “ đèn”, câu tục ngữ nhằm nhắc nhở chúng ta : Nếu giao du với những người xấu ta se tiêm nhiễm thói hư tật xấu; ngược lại nếu ta quan hệ với người tốt ta sẽ được ảnh hưởng tốt, sẽ học tập được những đức tính của bạn Câu tục ngữ là bài học kinh nghiệm của người xưa được đúc kết từ cuộc sống. Nó thể hiện rất rõ mối quan hệ giữa môi trường xã hội vơi việc hình thành nhân cách con người. Ở gia đình, cha mẹ anh chị là tấm gương để cho đứa trẻ bắt chước. Nếu gia đình hòa thuận, cha mẹ là tấm gương sáng về học tập, về đạo đức thì gia đình đó sẽ có những đứa con ngoan. Trong khu xóm cũng vậy, nếu cả tập thể đều biết chấp hành tốt những quy định chung về nếp sống văn minh đô thị , biết giáo dục con cái tốt thì con em trong khu phố đó sẽ có một cuộc sống nền nếp đạo đức tốt. Gần gũi với chúng ta nhất là việc giao du với bạn bè trong trường trong lớp, nếu ta quan hệ được với nhiều bạn tốt, chăm ngoan học giỏi, nói năng lễ độ biết kính trên nhường dưới… thì chúng ta sẽ học tập được những đức tính tốt ấy và trở nên người tốt. Ngược lại, trong gia đình, nếu cha mẹ chỉ biết lo làm ăn không quan tâm đến con cái, vợ chồng luôn luôn bất hòa thì chắc chắn những đứa trẻ lớn lên trong môi trường đó sẽ nhanh chóng trở thành đứa con hư. Ngoài xã hội, khi tiếp xúc gần gũi với môi trường không tốt đẹp, con người dễ dàng tập nhiễm những thói hư tật xấu và dần dần đánh mất bản chất lương thiện của mình. Cụ thể ở môi trường học tập, quanh ta có biết bao nhiêu bạn xấu thường xuyên trốn học, quậy phá, học yếu làm phiền lòng thầy cô. Nếu ta cứ lân la gắn bó với những bạn ấu ấy thì sớm muộn gì ta cũng bị ảnh hưởng lây. Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, nhân dân ta có nhiều câu ca dao mang nội dung giáo dục về vấn đề này: “ Thói thường gần mực thì đen Anh em bạn hữu phải nên chọn người” Tuy nhiên, không phải ai cũng dễ dàng bị lôi kéo bởi môi trường xấu xa. Vẫn có những cánh sen vươn lên từ bùn lầy nước đọng, dù xung quanh hôi hám sen vẫn nở đẹp và tỏa ngát hương thơm. Thực tế vẫn có những người sống trong môi trường không tốt đẹp, không thuận lợi mà vẫn giữ mình không sa ngã. Môi trường càng xấu xa thì phẩm chất của con người càng tuyệt vời đáng khâm phục. Anh Nguyễn Văn Trỗi, người thợ điện ở thành phố Sài Gòn hoa lệ, vẫn không chút mảy may xao động bởi cuộc sống hào nhoáng, những thủ đọan lọc lừa xảo trá. Anh chọn cho mình con đường Cách mạng, chấp nhận chiến đấu và hy sinh cho lý tưởng mà mình theo đuổi… Tấm gương của anh và biết bao gương sáng khác đã trở thành bài học cho bao thế hệ cháu con học tập. Ngày nay, trong xu thế cả nước tiến lên con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa, vẫn có những con người không giữ vững bản chất tốt đẹp của mình. Giữa cuộc sống tốt đẹp, giữa môi trường thân thiện, họ vẫn biến chất, thoái hoa, sống ăn chơi sa đọa trên những đồng tiền bất chính, những đồng tiền mồ hôi xương máu của nhân dân đóng góp… Những con người đó chính là những “ con sâu làm rầu nồi canh”, là thứ ung nhọt của xã hội mà chúng ta có nhiệm vụ phải loại trừ.

Có thể nói, câu tục ngữ trên là một lời khuyên bảo sâu sắc, giúp em bài học bổ ích, một cách nhìn đúng đắn về mối quan hệ giữa môi trường xã hội với việc hình thành nhân cách của bản thân. Câu tục ngữ giúp em có tinh thần cảnh giác trong việc giao du tiếp xúc với bạn bè, đồng thời xác định cho mình một thế đứng vững vàng trước những tác động tiêu cực của môi trường xung quanh để luôn luôn “ gần mực” mà vẫn không “ đen” và “ gần đèn” để luôn tỏa sáng.

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Giải thích Đi với phật mặc áo cà sa, đi với ma măc áo giấy

Để tồn tại và phát triển, con người phải tiếp xúc và tác động vào hiện thực khách quan trên cơ sở nhận thức hiện tượng chung quanh và tự nhận thức bản thân. Câu tục ngữ : "Đi với phật mặc áo cà sa; đi với ma mặc áo giấy" cho thấy một số vấn đề về nhận thức và giao tiếp.Ma thì không biết đã có ai thấy nhưng tục “đốt áo giấy cho ma” là điều không xa lạ và do đó áo giấy được gán cho là thuộc tính cuả họ nhà ...ma; còn phật, nghe đâu người luôn vận cà sa, mà cà sa rõ là đồng phục của các sư theo phật nên áo cà sa cũng được coi là thuộc tính của phật. Không biết người đầu tiên muốn “đi với phật” có đi đến tận cõi niết bàn hay không nhưng chắc chắn là nhờ thấy [có cảm giác] được cái thuộc tính mà người ấy cho là “của phật” nên mới định hướng được phản ứng, định hướng tác động của mình, định hướng cách xử sự thích hợp - là mặc ngay chiếc áo cà sa. Nhờ tri giác mà người xưa biết được “điều kiện đầu tiên để đi với phật là phải giống phật ở cái vẻ ngoài - tấm áo cà sa”. Việc tri giác ở đây đã phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm, nhờ có kinh nghiệm về “đồng phục” mà người xưa đã hiểu nhanh và tìm cách “hóa trang” cho giống phật. Có thể thấy, giữa việc “thấy phật có áo cà sa” và việc “phải mặc áo cà sa nếu muốn đi với phật” có quan hệ nhau một cách biện chứng; phải thấy [cảm giác] mới đi đến tri giác - quyết định hành động mặc áo. Vì vậy, tri giác tuy là quá trình nhận thức cao hơn cảm giác nhưng lại được xây dựng trên cơ sở cảm giác. ở đây, chủ thể nhận thức đã thể hiện rõ “tính lựa chọn của tri giác”, bởi vì vẻ ngoài của các vị phật không chỉ có mỗi áo cà sa mà còn nhiều “phụ kiện” khác, tất cả cùng tác động vào giác quan của chủ thể quan sát, nhưng người quan sát đã chọn áo cà sa. Sự “tích cực và kinh nghiệm trong khi tri giác” của chủ thể quan sát và “đặc điểm của tấm áo cà sa” của đối tượng giao tiếp là hai điều kiện giúp người quan sát “tách” tấm áo ra khỏi các vật khác đang nằm trong tầm ngắm của mình. Hai điều kiện ấy giúp chủ thể tri giác hiểu “áo cà sa” là “đặc trưng về hình thức” của đối tượng giao tiếp [phật]; sự tri giác ở đây là “tri giác có chủ định” hay là sự quan sát - là hình thức tích cực nhất của nhận thức cảm tính. Tuy vậy, nhận thức cảm tính chỉ cho biết bề ngoài của sự vật, trong khi thực tiễn luôn chứa những vấn đề phải giảI quyết trên cơ sở phải hiểu về sự vật một cách sâu sắc [cả về bản chất, quy luật và những mối liên hệ qua lại của sự vật] ; vì vậy, con người không chỉ quan sát [để nhận ra và kết luận chiếc áo cà sa là vật đặc trưng của phật] mà còn phải tư duy để tìm ra giải pháp phục vụ cho mục đích [đi với phật] của mình, do đó xuất hiện “tình huống có vấn đề” buộc con người phảI giải quyết. Không bàn đến nguyên nhân của việc “đi với phật” bởi có thể là “bị đi” mà cũng có thể là “muốn đi”; nói “đi với” nhưng chưa chắc là “theo suốt đời”, có thể “chung một đoạn” rồi sau đó thì “đường ai nấy đi”, nhưng đã “đi với” tức là đồng hành của nhau và như vậy phải “làm thế nào để cho sự giao tiếp trên chặng đường chung được diễn ra suôn sẻ - điều kiện ở đây là gì ?”. Để trao cho đời sau kinh nghiệm giao tiếp này [đi với phật], người xưa có thể đã phải trải qua một quá trình tư duy rất lâu dài với một số công đoạn nhất định như sau: Gặp tình huống giao tiếp [đi với phật] Nhận thức được tình huống có vấn đề [“làm thế nào để cho sự giao tiếp diễn ra suôn sẻ?”] Nhận thức được các đIều kiện, hiện tượng, kinh nghiệm liên quan. Hình thành các giả thuyết [Có thể đi với phật bằng “tràng hạt”, “bình bát”, hay “áo cà sa”...; đi như thế nào thì phải “sắm đủ thứ” và đi thế nào thì chỉ cần “mặc áo cà sa” là xong ?] Vận dụng thủ nghiệm [hoặc quan sát sự vận dụng] một trong các giả thuyết đã xây dựng. Nếu không thành công thì bác bỏ, áp dụng giả thuyết khác hoặc xây dựng một giả thuyết mới rồi lại thử nghiệm [việc này có thể diễn ra nhiều lần trong đời hoặc qua nhiều thế hệ]. Nếu vận dụng giả thuyết thành công thì giả thuyết trở thành kinh nghiệm thực tiễn, bấy giờ người ta “ngôn ngữ hóa” kinh nghiệm dưới dạng phù hợp [như tục ngữ...] để sử dụng hoặc truyền đạt. Bởi vậy, tục ngữ được định nghĩa là câu nói ngắn gọn, có vần, đúc kết kinh nghiệm sống và đạo đức thực tiễn của nhân dân. Câu tục ngữ “đi với phật...” cho thấy vấn đề giao tiếp của nhân cách trong tập thể và xã hội. Giao tiếp là hoạt động xác lập và vận hành các quan hệ giữa người với người nhằm đạt mục đích giao tiếp. Trong giao tiếp [với phật] trên chặng đường đi chung, mỗi bên đều là chủ thể giao tiếp và tác động lẫn nhau. Qua hoạt động “đi với phật”, người xưa đã sử dụng nhều phương tiện và một trong những phương tiện đó là tấm áo cà sa, đây là “phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ”. Có thể thấy rằng quá trình “đi với phật” [giao tiếp] là quá trình nhận thức phức tạp: - Đầu tiên là quá trình tri giác về phật [nhìn, nghe, quan sát], là khâu quyết định nhận thức, diễn ra khi bắt đầu gặp chủ thể giao tiếp [phật] và suốt thời gian đồng hành. - Quá trình tư duy, tưởng tượng, đánh giá để rút ra kết luận; chọn lọc và điều chỉnh hình thức giao tiếp - Trong quá trình giao tiếp, người xưa đã tự nhận thức về bản thân để xác định cái “thế tâm lý” rất rõ và thể hiện nó ở động từ “đi với” một cách bình đẳng mà không là “đi theo” cách lệ thuộc; có thể thấy ông cha ta thực sự rất có ý thức về “chủ quyền” khi giao tiếp. Đường phát triển đất nước sẽ có nhiều chặng, trên những chặng đường nào đó, ta sẽ có thể phải “đi với phật” hoặc “đi với ma”, do đó, phải học cách sắm, cách ăn mặc cho hợp với những người bạn đường bất đắc dĩ ấy. Đành rằng “chiếc áo chưa tạo nên ông thầy tu” nhưng không vì thế mà mất cảnh giác. Khi giao tiếp, nếu không nhận thức đúng về đối tượng và không xác định cái thế tâm lý của mình thì có thể chao đảo, chệch hướng, nhất là khi mặc vào tấm áo cà sa “mát mẻ” hay khoát lên manh áo giấy “rực rỡ sắc màu” không phải là không dễ chịu.

Nguồn: Net

Video liên quan

Chủ Đề