Phân tích khái niệm vụ việc dân sự có yếu to nước ngoài

Trong giai đoạn hội nhập phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, các giao lưu, quan hệ dân sự trong và ngoài nước ngày càng phát triển về số lượng và sự đa dạng điều đó kéo theo những tranh chấp, mâu thuẫn có yếu tố nước ngoài mà Tòa án phải giải quyết ngày càng tăng. Để đáp ứng được nhu cầu vận động của thị trường và kịp thời điều chỉnh phù hợp các quan hệ dân sự mới phát sinh, tạo môi trường pháp lý thuận lợi bình đẳng, bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể một cách toàn diện và triệt để khi bị xâm phạm.

Trong phạm vi bài viết, chúng tôi phân tích quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành và những hạn chế, khó khăn trong thực tiễn áp dụng giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài.

1.Vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài

Theo quy định tại Điều 464 BLTTDS 2015 thì vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định khi thuộc một trong các trường hợp sau:

– Về chủ thể: Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài: Một trong những tiêu chí xác định yếu tố nước ngoài là khi giải quyết vụ việc dân sự có một trong các bên; một trong các bên được hiểu là một hoặc các bên đương sự [nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan] là cá nhân nước ngoài [trong trường hợp là cá nhân] hoặc là cơ quan, tổ chức nước ngoài [trong trường hợp là cơ quan tổ chức]. Dấu hiệu nước ngoài ở đây được xác định dựa trên “quốc tịch nước ngoài”, theo đó cá nhân nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam bao gồm người có quốc tịch của một nước khác không phải là quốc tịch Việt Nam và người không quốc tịch [người không có quốc tịch Việt Nam và cũng không có quốc tịch nước ngoài][1]; đối với tổ chức nước ngoài, mặc dù trong hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam chưa có định cụ thể tổ chức nước ngoài nhưng dựa theo định nghĩa tương tự về cá nhân nước ngoài thì tổ chức nước ngoài có thể hiểu là tổ chức được thành lập theo pháp luật nước ngoài, theo pháp luật quốc tế.

– Về sự kiện pháp lý: Các bên tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ dân sự xảy ra ở nước ngoài: Căn cứ để xác định yếu tố trong trường hợp này dựa vào nơi xảy ra sự kiện pháp lý làm xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ dân sự ở nước ngoài, nhưng hiện nay xảy ra tranh chấp tại Việt Nam thì được xác định là vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài.

– Về đối tượng tranh chấp: Các bên tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài là trường hợp các đương sự tham gia đều có quốc tịch Việt Nam, sự kiện pháp lý làm xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ dân sự xảy ra ở Việt Nam nhưng tài sản là đối tượng tranh chấp hoặc đối tượng của yêu cầu ở nước ngoài.

Theo cách tiếp cận của BLTTDS 2015 thì vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định dựa theo tiêu chí quốc tịch đương sự, nơi xảy ra sự kiện pháp lý và nơi có đối tượng tranh chấp. Về nguyên tắc khi vụ việc dân sự thuộc một trong các trường hợp trên thì được xác định là vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài và Tòa án phải áp dụng các quy định tại Phần thứ tám – Thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài để giải quyết.

Một điểm mới tiến bộ của BLTTDS 2015 so với BLTTDS 2004 [sửa đổi bổ sung 2011] khi loại bỏ tiêu chí tình trạng cư trú “người Việt Nam định cư ở nước ngoài” bởi thời điểm đó hệ thống các văn bản pháp luật Việt Nam được giải thích tại Điều 3 khoản 3 Nghị định số138/2006/NĐ-CP quy định “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài” là người có quốc tịch Việt Nam và người gốc Việt Nam đang cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài“. Khái niệm này được khẳng định lại tại Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 như sau: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài“. Tuy nhiên, lại không có văn bản pháp luật hay hướng dẫn xác định thế nào là “cư trú, sinh sống lâu dài”, cụm từ mang tính định tính “lâu dài” lại bị bỏ ngỏ không giải thích dẫn đến việc khó khăn trong công tác áp dụng pháp luật. Để tháo gỡ vướng mắc này BLTTDS 2015 đã loại bỏ tiêu chí tình trạng cư trú ra ngoài các tiêu trí xác định vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài.

Thực tiễn áp dụng, kể từ ngày 01/7/2016 khi gặp vụ việc đương sự là người Việt Nam ở nước ngoài [nếu không thuộc các tiêu chí tại khoản 2 Điều 464 BLTTDS 2015] thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh[2] giải quyết sẽ áp dụng pháp luật giải quyết theo thủ tục thông thường. Theo chúng tôi, việc sửa đổi nêu trên mặc dù tháo gỡ được khó khăn trong công tác giải thích và thống nhất áp dụng pháp luật nhưng việc xây dựng nội dung điều luật như trên không đáp ứng được yêu cầu và mục đích của chế định thủ tục giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, bởi các quy định tại Phần thứ tám được xây dựng là những quy định đặc thù, có nội dung phản ánh một số hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng liên quan trực tiếp đến đương sự ở nước ngoài. Trong vụ việc đương sự ở nước ngoài nhưng tiến hành thủ tục tố tụng như vụ việc dân sự thông thường sẽ không bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự ở nước ngoài, gây khó khăn cho Tòa án trong công tác áp dụng pháp luật.

Điển hình như vụ án: Chị Lưu Thị Tuyết N [quốc tịch Việt Nam] có đăng ký kết hôn với anh Chu Quang D [quốc tịch Việt Nam] tại UBND phường A, thành phố B, tỉnh C. Sau một thời gian chung sống, anh D đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài. Thời gian lao động nước ngoài, chị N nhận thấy vợ chồng không còn tình cảm và anh D đã có người phụ nữ khác ở nước ngoài nên chị N làm đơn xin ly hôn. Đối chiếu theo Điều 464 BLTTDS 2015 thì đây không thuộc trường hợp vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, nên trình tự thủ tục giải quyết theo thủ tục thông thường, khi đó thời hạn giải quyết vụ án được xác định: Thời hạn chuẩn bị xét xử  đối với các vụ án vụ án tranh chấp về dân sự [Điều 26 BLTTDS] và những tranh chấp về hôn nhân gia đình [Điều 28 BLTTDS] thì thời hạn là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án; Đối với các vụ án Tranh chấp về kinh doanh, thương mại [Điều 30 BLTTDS] và tranh chấp về lao động [Điều 32 BLTTDS] thì thời hạn là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án. Và Tòa án phải thực hiện nhiều lần việc cấp tống đạt các văn bản như: Thông báo thụ lý, Thông báo mở phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Giấy triệu tập lần 1; Giấy triệu tập lần 2; Bản án sơ thẩm… Với thời hạn nêu trên và thủ tục thông thường thì Tòa án không thể giải quyết được đúng thời hạn trong vụ án trên. Thiết nghĩ cần có hướng dẫn hợp lý, linh hoạt hơn trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết vụ việc trên.

2.Khởi kiện và nộp tiền tạm ứng án phí

Đối với vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài thì về nguyên tắc phải áp dụng các quy định tại Phần thứ tám BLTTDS 2015, trong trường hợp phần này không có quy định thì áp dụng các quy định khác có liên quan của BLTTDS 2015 để giải quyết. Do quy định về gửi đơn khởi kiện và thụ lý vụ án không có quy định trong Phần thứ tám nên sẽ áp dụng quy định tại Điều 190, 195. Theo đó, người khởi kiện gửi đơn khởi kiện kèm theo tài liệu, chứng cứ mà mình hiện có đến Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án bằng các phương thức: nộp trực tiếp tại Tòa án; gửi đến Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính; gửi trực tiếp bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin của Tòa án. Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì thẩm phán phải thông báo ngay cho người khởi kiện biết để họ đến Tòa án.

Thực tiễn giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, trong rất nhiều vụ án đương sự ở nước ngoài gửi theo đường bưu điện đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo về nhưng không có địa chỉ hay thông tin liên lạc của người thân ở trong nước để Tòa án yêu cầu nộp tiền tạm ứng án phí. Trường hợp trên, rất nhiều Tòa án lúng túng khi không biết vận dụng quy định pháp luật nào để giải quyết việc yêu cầu nộp tiền tạm ứng án phí? Bởi nếu áp dụng theo thủ tục chung là thông báo cho người khởi kiện biết để nộp tạm ứng án phí thì Tòa án thông báo dưới hình thức nào, khi người khởi kiện đang ở nước ngoài? Đây là vấn đề khó khăn trong thực tiễn rất cần sự hướng dẫn của TAND tối cao trong thời gian tới.

3.Thông báo về việc thụ lý, ngày mở phiên họp, phiên tòa

3.1. Thông báo thụ lý vụ án

Thụ lý vụ án là một trong những sự kiện pháp lý quan trọng, là cơ sở khẳng định yêu cầu của người khởi kiện đã được Tòa án tiến hành xem xét, giải quyết thông qua các giai đoạn tố tụng theo luật định. Văn bản thông báo thụ lý với mục đích truyền tải nội dung thông báo tới những người có liên quan biết rằng kể từ thời điểm này, Tòa án đã thụ lý giải quyết yêu cầu khởi kiện có liên quan trực tiếp tới quyền lợi của họ. Như vậy nội dung chính, then chốt mà Tòa án ban hành Thông báo thụ lý vụ án chính là thông báo thời gian thụ lý [thời gian bắt đầu quá trình tố tụng]. Tòa án có trách nhiệm gửi Thông báo thụ lý vụ án này tới Viện Kiểm sát cùng cấp, nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài khi có đương sự ở nước ngoài nên nhằm giảm thiểu thời gian cũng như chi phí tố tụng mà bên cạnh việc truyền đạt nội dung thụ lý vụ án, trong thông báo này còn nêu rõ về thời gian, địa điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải], thời gian mở lại phiên họp; thời gian mở phiên tòa và thời gian mở lại phiên tòa cho đương sự ở nước ngoài[3]. Như vậy, dưới hình thức là văn bản thông báo thụ lý vụ án nhưng nội dung văn bản pháp lý này về bản chất chứa đựng rất nhiều văn bản tố tụng khác bao gồm: Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Giấy triệu tập đương sự.

Một điểm cần lưu ý là theo quy định của khỏan 1 Điều 476 BLTTDS 2015 thì Tòa án phải gửi thông báo này cho đương sự ở nước ngoài, vậy vấn đề đặt ra là đương sự ở trong nước thì gửi thông báo này hay là làm riêng thông báo thụ lý vụ án theo Mẫu số 30-DS Thông báo về việc thụ lý vụ án danh mục 93 biểu mẫu trong tố tụng dân sự [ban hành kèm theo nghị quyết số 01/ 2017/NQ-HĐTP ngày 13 tháng 01 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC] để gửi cho đương sự ở trong nước. Hiện nay có 02 cách áp dụng như sau:

Quan điểm thứ nhất: Áp dụng đúng tinh thần nội dung của khoản 1 Điều 476 BLTTDS 2015 là thông báo thụ lý này chỉ gửi cho đương sự ở nước ngoài, còn đương sự ở Việt Nam sẽ ban hành thông báo thụ lý vụ án riêng theo mẫu số 30 nêu trên. Lập luận cho quan điểm này cho rằng, việc ban hành văn bản thông báo thụ lý vụ án trong đó bao gồm ấn định trước cả thời gian, địa điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải], thời gian mở lại phiên họp; thời gian mở phiên tòa và thời gian mở lại phiên tòa là đặc biệt chỉ được sử dụng cho đương sự ở nước ngoài vì luật quy định rất rõ ràng là thông báo này gửi cho đương sự ở nước ngoài, còn các đương sự ở trong nước vẫn sử dụng theo mẫu văn bản chung. Theo cách hiểu này, vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài thì Tòa án vẫn sẽ ban hành đầy đủ các giấy tờ tố tụng liên quan trong từng giai đoạn theo thủ tục chung như các thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử… để tiến hành giao cho các đương sự ở trong nước theo thủ tục chung.

Quan điểm thứ hai không đồng tình với quan điểm thứ nhất và cho rằng cách hiểu nêu trên là phiến diện không chính xác. Khoản 1 Điều 476 cần được hiểu là thông báo thụ lý này không chỉ được gửi cho đương sự ở nước ngoài còn được gửi cho cả đương sự ở Việt Nam. Bởi trong cùng một vụ án không thể ban hành các loại văn bản pháp lý cho từng đương sự khác nhau, không đảm bảo tính thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật và không đảm bảo quyền bình đẳng giữa các đương sự khi đương sự ở nước ngoài thì nắm bắt được toàn bộ thời gian, địa điểm, quá trình tố tụng trong khi đương sự ở trong nước thì không. Do vậy, Thông báo thụ lý vụ án trong đó nêu rõ cả thời gian, địa điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải], thời gian mở lại phiên họp; thời gian mở phiên tòa và thời gian mở lại phiên tòa cần được gửi cho các đương sự mà không phân biệt là đương sự trong nước hay đương sự nước ngoài. Chúng tôi đồng tình với quan điểm này, như vậy nét đặc thù trong quá trình giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài là Tòa án sẽ không cần thiết ban hành các văn bản tố tụng như thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử… mà các nội dung này đã được thể hiện trong thông báo thụ lý vụ án.

3.2. Thời hạn mở phiên họp, phiên tòa

Khoản 2 Điều 476 BLTTDS 2015 quy định: “a] Phiên họp hòa giải phải được mở sớm nhất là 06 tháng và chậm nhất là 08 tháng, kể từ ngày ra văn bản thông báo thụ lý vụ án. Ngày mở lại phiên họp hòa giải [nếu có] được ấn định cách ngày mở phiên họp hòa giải chậm nhất là 01 tháng;

b] Phiên tòa phải được mở sớm nhất là 09 tháng và chậm nhất là 12 tháng, kể từ ngày ra văn bản thông báo thụ lý vụ án. Ngày mở lại phiên tòa [nếu có] được ấn định cách ngày mở phiên tòa chậm nhất là 01 tháng, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 477 của Bộ luật này”. Liên hệ các quy định về thời hạn giải quyết vụ án trong luật tố tụng hành chính, thời hạn giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục chung thì đây là một điểm nhấn mới, tiến bộ trong tư duy lập pháp, bởi thông thường để tránh tình trạng thiếu trách nhiệm, kéo dài thời gian giải quyết vụ án của cơ quan tiến hành tố tụng, các nhà làm luật phải quy định thời hạn tối đa của mỗi một quá trình tố tụng, quá thời hạn trên được coi là vi phạm tố tụng. Các nhà làm luật chỉ quy định thời hạn tối đa của mỗi quá trình tố tụng chứ không quy định thời hạn tối thiểu, tùy theo tính chất và quá trình thu thập chứng cứ của mỗi vụ việc dân sự mà các Thẩm phán giải quyết trong thời hạn sớm nhất có thể. Đối với vụ án có yếu tố nước ngoài, do đặc thù của các vụ việc dân sự này liên quan đến pháp luật của 02 quốc gia và quan hệ ngoại giao giữa hai nước nên phải thực hiện ủy thác tư pháp tống đạt các giấy tờ, tài liệu, quyết định của Tòa án ra nước ngoài nên BLTTDS 2015 đã quy định thời hạn mở phiên họp hòa giải trong khoảng sớm nhất là 06 tháng, chậm nhất là 08 tháng; thời hạn mở phiên tòa sớm nhất là 09 tháng, chậm nhất là 12 tháng.

Lý luận cho thấy quy định thời hạn tối thiểu và kéo dài thời hạn mở phiên họp và mở phiên tòa các vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài so với thời hạn giải quyết các vụ việc dân sự thông thường là tiến bộ sẽ tạo điều kiện cho tòa án có thể thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ, cấp tống đạt đầy đủ đúng thời hạn, góp phần giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài được chính xác, đảm bảo thời hạn theo luật định. Bên cạnh đó, thời hạn trên cũng đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự ở nước ngoài có đủ thời gian bố trí, sắp xếp công việc để tham gia tố tụng. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài cho thấy, việc quy định rõ thời hạn tối thiểu có thể mở phiên họp, phiên tòa như vậy là cứng nhắc, thiếu hợp lý, nhiều trường hợp làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của chính các đương sự, làm mất đi sự linh hoạt trong áp dụng pháp luật của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc dân sự. Bởi trong trường hợp nhận được sự hợp tác của phía đương sự ở nước ngoài và Tòa án đã nhận được văn bản trả lời cũng như đơn xin xét xử vắng mặt của đương sự ở nước ngoài nhưng Tòa án vẫn không thể giải quyết ngay vụ án mà phải chờ đến đúng thời mở phiên họp và phiên tòa đã được ấn định trong thông báo thụ lý vụ án.

Ví dụ: Trong vụ án ly hôn, A [hiện đang ở Việt Nam] làm đơn xin ly hôn với B [hiện đang ở Nhật Bản]. Vụ án được thụ lý ngày 11/7/2017. Tòa án gửi các văn bản và thông báo ấn định ngày mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 11/01/2018 và thời gian mở phiên tòa là 11/7/2018. Tòa án gửi các văn bản trên bằng phương thức theo đường bưu chính đến địa chỉ cư trú của anh B tại Nhật Bản. [Nhật Bản là nước không phản đối việc tống đạt theo đường bưu chính cho đương sự cư trú[4]]. Đến ngày 11/8/2017, thông qua đường bưu chính, Tòa án nhận được văn bản ý kiến trả lời của anh B về việc nhất trí xin ly hôn theo yêu cầu của chị A, và đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải và anh B xin xét xử vắng mặt. Vậy trong trường hợp này, mặc dù đã có đầy đủ chứng cứ để đưa vụ án ra xét xử nhưng Tòa án vẫn phải chờ đến đúng thời hạn giới hạn và thời gian đã thông báo mới được mở phiên tòa là không hợp lý, khiến đương sự ở Việt Nam cùng cơ quan tiến hành tố tụng “ngồi chờ” đến đúng thời hạn mới được xét xử.

[1] Xem Điều 3, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008.

[2] Xem khoản 3 Điều 35 BLTTDS 2015

[3] Xem khoản 1 Điều 476 BLTTDS 2015

[4] Xem Công văn số 33/TANDTC-HTQT ngày 21/02/2017 của TAND tối cao Về việc tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự ở nước ngoài trong các vụ việc dân sự, vụ án hành chính

Video liên quan

Chủ Đề