Quan điểm triết học Mác - Lênin về cách mạng xã hội

Về luận điểm của V. I. Lê-nin: Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một thời đại

01/11/2014

Share

Facebook

Email

Print

Viber

Pinterest

Linkedin

Năm 1915, trong tác phẩm “Bàn về khẩu hiệu Liên bang châu Âu”, V. I. Lê-nin đã đưa ra luận điểm có giá trị khoa học và phát triển sáng tạo học thuyết Mác về chủ nghĩa tư bản và cách mạng vô sản: “người ta không thể coi cách mạng xã hội chủ nghĩa là một công cuộc làm một lần thì xong, mà phải coi đó là một thời đại chấn động vũ bão về chính trị và kinh tế”[1]. Đó là thời đại đấu tranh giai cấp gay gắt nhất, thời đại cách mạng và phản cách mạng và nhất định “phải xảy ra các cuộc cách mạng chính trị”. Cách mạng chính trị lật đổ giai cấp thống trị là sự khởi đầu của quá trình cách mạng để thiết lập chế độ chính trị, chế độ kinh tế và xây dựng, hoàn thiện chế độ ấy.

Theo V. I. Lê-nin, “sự phát triển không đồng đều về kinh tế và chính trị là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản. Do đó, chúng ta thấy rằng chủ nghĩa xã hội có thể thắng trước hết là trong một số ít nước tư bản chủ nghĩa hoặc thậm chí chỉ trong một nước tư bản chủ nghĩa”[2]. Cách mạng Tháng Mười Nga [năm 1917] do V. I. Lê-nin và Đảng Bôn-sê-vích lãnh đạo là một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đã nổ ra và thắng lợi ở một nước như thế. Song để bảo đảm cho thắng lợi hoàn toàn, vững chắc của chủ nghĩa xã hội thì không thể chỉ làm một lần thế là xong, mà phải là cả một quá trình lâu dài để cải biến toàn diện cả về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa để tạo dựng một xã hội hoàn toàn mới – xã hội xã hội chủ nghĩa.

Cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử lâu dài,là một thời đại theo quan niệm của V. I. Lê-nin. Có thể thấy rõ quan niệm đó trên mấy nội dung thiết yếu.

Nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là xây dựng, phát triển kinh tế

Sau Cách mạng Tháng Mười, giai cấp vô sản đã thiết lập được một kiểu nhà nước cao nhất là Chính quyền Xô-viết. “Nhưng chúng ta tuyệt đối không thể tự mãn với những thành quả đã đạt được, vì chúng ta chỉ mới bắt đầu chuyển lên chủ nghĩa xã hội; và về phương diện đó, điều quyết định vẫn chưa được thực hiện”[3]. V. I. Lê-nin nhấn mạnh tới điều kiện vật chất thứ hai để chuyển lên chủ nghĩa xã hội là phát triển kinh tế “nâng cao năng suất lao động trên phạm vi cả nước”. Nhà nước mạnh và nền sản xuất với năng suất lao động cao là điều kiện vật chất để bảo đảm thiết lập chủ nghĩa xã hội. Cần phải động viên, tổ chức quần chúng nhân dân lao động có trật tự, có kỷ luật.

Biện pháp tịch thu tư liệu sản xuất của các nhà tư bản, xóa bỏ sở hữu tư bản và quan hệ sản xuất tư bản là những biện pháp thường thấy sau khi nổ ra cách mạng chính trị. Nhưng V. I. Lê-nin không thiên về vấn đề đó. Phê phán “những người cộng sản cánh tả” “ấu trĩ” chỉ quan tâm tới việc kiên quyết “quốc hữu hóa”, “tịch thu”, “đập tan” tất cả những gì của chủ nghĩa tư bản, V. I. Lê-nin cho rằng “sao mà họ lắm tính kiên quyết đến thế… và lại ít chịu suy nghĩ đến thế!”[4]. Không phải cứ tịch thu, quốc hữu hóa là có chủ nghĩa xã hội. Vấn đề biết suy nghĩ, tính toán để phát triển sản xuất, phát triển nền kinh tế thế nào cho có hiệu quả. V. I. Lê-nin nhấn mạnh một thực tế đáng buồn vừa “tả khuynh” vừa “ấu trĩ” tiểu tư sản: “Chúng ta đã quốc hữu hóa, đã tịch thu, đã đánh đổ, đã đập tannhiều hơn là đã kịp tính toán. Mà xã hội hóa khác với tịch thu giản đơn chính là ở chỗ tịch thu chỉ cần có “tính kiên quyết”, không cần biết tính toán một cách đúng đắn và phân phối một cách đúng đắn cũng được,còn xã hội hóa mà không biết làm điều đó thì không xong”[5].

V. I. Lê-nin đã làm sâu sắc và nghiêm túc hơn nội dung về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhất là nội dung kinh tế của thời kỳ này. Người nhấn mạnh tính chất quá độ của nền kinh tế: “danh từ nước Cộng hòa xô-viết xã hội chủ nghĩa có nghĩa là Chính quyền xô-viết quyết tâm thực hiện bước chuyển lên chủ nghĩa xã hội, chứ hoàn toàn không có nghĩa là đã thừa nhận chế độ kinh tế mới là chế độ xã hội chủ nghĩa.

Vậy thì danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có”[6]. V. I. Lê-nin đã nêu rõ các thành phần kinh tế ở nước Nga lúc đó là:

1] Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một bộ phận lớn có tính chất tự nhiên;

2] Sản xuất hàng hóa nhỏ [trong đó bao gồm đại đa số nông dân bán lúa mì];

3] Chủ nghĩa tư bản tư nhân;

4] Chủ nghĩa tư bản nhà nước;

5] Chủ nghĩa xã hội.

Các thành phần kinh tế tồn tại, phát triển đan xen trong suốt thời kỳ quá độ. Theo quan niệm của V. I. Lê-nin, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế là một đặc trưng cơ bản của thời kỳ quá độ.

Về kinh tế, để xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải sử dụng đúng đắn và phát huy vai trò của các thành phần kinh tế kể cả kinh tế tư bản tư nhân và nhất là kinh tế tư bản nhà nước. Phải kế thừa và sử dụng có hiệu quả thành quả kỹ thuật, khoa học, công nghệ của chủ nghĩa tư bản. “Không có kỹ thuật tư bản chủ nghĩa quy mô lớn được xây dựng trên những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại, không có một tổ chức nhà nước có kế hoạch có thể khiến cho hàng chục triệu người phải tuân theo hết sức nghiêm khắc một tiêu chuẩn thống nhất trong công việc sản xuất và phân phối sản phẩm, thì không thể nói đến chủ nghĩa xã hội được”[7].

V. I. Lê-nin cũng nhấn mạnh việc học tập nghiêm túc cách tổ chức, quản lý nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản. “Chỉ có những người nào hiểu rằngkhông học tậpnhững kẻ tổ chức ra tơ-rớt thìkhông thểtạo ra hoặc thực hiện chủ nghĩa xã hội, chỉ những người đó mới đáng gọi là người cộng sản. Bởi vì chủ nghĩa xã hội đâu phải là điều bịa ra, mà nó là kết quả của việc đội tiền phong của giai cấp vô sản, sau khi cướp được chính quyền, nắm lấy và vận dụng những cái mà các tơ-rớt đã tạo ra. Đảng vô sản chúng ta sẽkhông lấy được ở đâu racái năng lực tổ chức nền sản xuất cực kỳ lớn theo kiểu tơ-rớt và như tơ-rớt, nếu không lấy năng lực đó ở các chuyên gia hạng nhất của chủ nghĩa tư bản”[8].

Chỉ với những người lao động được bảo đảm lợi ích kinh tế của họ, được đào tạo, với nền khoa học, kỹ thuật phát triển và trình độ cao về tổ chức quản lý toàn bộ nền kinh tế và ở từng đơn vị kinh tế, mới có thể tạo ra năng suất cao trong lao động sản xuất và mang lại kết quả, hiệu quả kinh tế thiết thực. Theo V. I. Lê-nin, năng suất lao động cao là điều phải được đặc biệt coi trọng trong xây dựng và bảo đảm thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. “Xét đến cùng, thì năng suất lao động là cái quan trọng nhất, chủ yếu nhất cho thắng lợi của chế độ xã hội mới. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một năng suất lao động chưa từng thấy dưới chế độ nông nô. Chủ nghĩa tư bản có thể bị đánh bại hẳn, và sẽ bị đánh bại hẳn, vì chủ nghĩa xã hội tạo ra một năng suất lao động mới, cao hơn nhiều. Đó là sự nghiệp rất khó khăn và rất lâu dài, nhưngsự nghiệp đó đã bắt đầu, và đấy là điều chủ yếu”[9].

Ở một nước mà kinh tế tiểu nông là phổ biến, chưa phát triển chủ nghĩa tư bản, thì việc tạo ra năng suất lao động cao là vô cùng khó khăn, đòi hỏi phải có cách tổ chức và giải pháp quản lý ở trình độ ngày càng cao và đội ngũ những người lao động được đào tạo và rèn luyện kỷ luật trong quá trình xây dựng nền đại công nghiệp.

V. I. Lê-nin là người khởi xướngchính sách kinh tế mới. Chính sách đó đã làm rõ thêm những vấn đề của thời kỳ quá độ, nhất là quá độ kinh tế. V. I. Lê-nin nhấn mạnh chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế, làm cho mọi thành phần phát huy cao nhất vai trò, mặt tích cực của nó. Chú trọng phát triển kinh tế thị trường, thúc đẩy lưu thông hàng hóa. Coi trọng lợi ích kinh tế của các giai cấp, tầng lớp những người lao động để thúc đẩy kinh tế phát triển. Chú trọng học tập mô hình và cách tổ chức quản lý kinh tế của các nước tư bản phát triển, nhất là tiếp nhận những thành quả khoa học, kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản.

Xây dựng nền kinh tế theo con đường xã hội chủ nghĩa phải bắt đầu từ những chính sách như thế. Phải suy nghĩ nghiêm túc để có nhận thức đúng đắn về cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhất là những bước đi trong chính sách kinh tế. Nhận thức quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là vấn đề hàng đầu. Trong hơn 6 năm lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Nga [1917 – 1924], V. I. Lê-nin đã nhìn nhận thấu đáo các đặc trưng, quy luật khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đề ra những quan điểm, chính sách đúng đắn cả về kinh tế, chính trị và xã hội.

Vai trò của đảng cầm quyền và nhà nước xã hội chủ nghĩa trong cách mạng xã hội chủ nghĩa

Khi xác định từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản có một thời kỳ cách mạng, C. Mác đã xác định tương ứng với thời kỳ đó là chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. Đó là hình thức quá độ chính trị. Cuộc cách mạng chính trị của giai cấp vô sản nổ ra, thiết lập một hình thức nhà nước cách mạng kiểu mới do đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo. Đó là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho thắng lợi của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Công xã Pa-ri [18-3-1871] là cuộc cách mạng vô sản nhưng đã không duy trì được thắng lợi vì không có được một đảng cách mạng – đội tiên phong lãnh đạo. Đó là một bài học lớn của Công xã. Cách mạng Tháng Mười thắng lợi nhờ sự lãnh đạo của Đảng Bôn-sê-vích của V. I. Lê-nin dày dạn kinh nghiệm, có lý luận tiên phong hướng dẫn, có trình độ tổ chức, lòng trung thành với giai cấp và dân tộc, Tổ quốc. Sau này, chủ nghĩa xã hội thất bại ở Liên Xô [năm 1991] xét đến cùng là vì Đảng không còn đủ uy tín chính trị, năng lực lãnh đạo và cầm quyền.

Trong những năm tháng sau Cách mạng Tháng Mười, V. I. Lê-nin đặc biệt quan tâm đến những vấn đề kinh tế và chính trị. Năm 1919, V. I. Lê-nin viết tác phẩmKinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản.Thời đại của cách mạng xã hội chủ nghĩa, về chính trị không có gì khác là chuyên chính vô sản. Nhiều người đã không hiểu đúng hoặc xuyên tạc khái niệm về chuyên chính vô sản. V. I. Lê-nin nhiều lần nêu rõ, về lý luận, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội có một thời kỳ quá độ với những đặc điểm, đặc trưng về kinh tế, chính trị, xã hội.

Việc thiết lập, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa vững mạnh là vấn đề thiết yếu vì chính quyền nhà nước là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Cần phải công khai khẳng định bản chất giai cấp vô sản của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước đó có chức năng, nhiệm vụ tổ chức, xây dựng chủ nghĩa xã hội vì lợi ích của giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Nhà nước đó thực hiện nền dân chủ vô sản hay dân chủ xã hội chủ nghĩa đối với số đông nhân dân và cũng cần trấn áp sự phản kháng của thế lực thống trị đã bị đánh đổ. “Chuyên chính vô sản là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp vô sản”[10]. Giai cấp vô sản với tư cách là giai cấp lãnh đạo, thông qua vai trò của đội tiên phong của mình là đảng cộng sản cầm quyền phải biết hướng chính sách vào việc thực hiện những vấn đề cấp thiết nhất về kinh tế, xã hội. Đó là nhiệm vụ, trách nhiệm chính trị lớn lao đối với nhân dân. Thực hiện có kết quả những vấn đề cấp thiết đó chính là thực hiện chuyên chính vô sản. Việc tổ chức thực hiện ngày càng có hiệu quả những mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa là chức năng, bản chất của chuyên chính vô sản. Đó là hình thức chính trị rốt cuộc đã tìm thấy trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản như C. Mác đã khẳng định.

Sự tồn tại của các giai cấp trong thời đại cách mạng xã hội chủ nghĩa

Trong thời kỳ quá độ hay thời đại cách mạng xã hội chủ nghĩa, các giai cấp vẫn tồn tại liên kết với nhau vì sự nghiệp xây dựng và sáng tạo xã hội mới.C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã từng nêu rõ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là xóa bỏ tư hữu, xóa bỏ các giai cấp. Nhưng khi vẫn tồn tại chế độ tư hữu, nhiều chế độ sở hữu và nhiều thành phần kinh tế thì tất yếu tồn tại lâu dài các giai cấp, lực lượng xã hội. V. I. Lê-nin cho rằng: “Không thể nào ngay một lúc mà xóa bỏ được giai cấp.

Và các giai cấpvẫn tồn tạivàsẽ tồn tạitrong suốt thời đại chuyên chính vô sản… Trong thời đại chuyên chính vô sản, các giai cấp vẫn tồn tại, nhưng bộ mặt của mỗi một giai cấp đều có thay đổi; quan hệ qua lại giữa các giai cấp cũng biến đổi. Cuộc đấu tranh giai cấp chưa chấm dứt dưới thời chuyên chính vô sản, nó chỉ diễn biến ra dưới những hình thức khác mà thôi”[11]. V. I. Lê-nin đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Cùng với những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hay cách mạng xã hội là một thời đại, V. I. Lê-nin đã đề cập tới vấn đề thời gian của quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là khoảng thời gian rất dài. Năm 1921, V. I. Lê-nin nêu rõ “Các thời hạn đều dài hơn, như đã giả định hồi đó” [năm 1918 – TG].

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ rất khó khăn và lâu dài, phải trải qua nhiều chặng đường, bước đi quá độ khác nhau, phải tính đến những chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống xã hội và phải tính đến đặc điểm của bất kỳ một bước quá độ nào. “Nhưng làm thế nào trên thực tế thực hiện được bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản cũ, quen thuộc, mà mọi người đã từng biết, sang chủ nghĩa xã hội mới chưa hình thành hẳn, chưa có một cơ sở vững chắc – đó là nhiệm vụ khó nhất. Trong trường hợp tốt nhất thì bước quá độ ấy cũng chiếm mất nhiều năm. Suốt cả thời kỳ đó, trong chính sách của chúng ta, lại chia ra thành nhiều bước quá độ nhỏ hơn nữa. Và tất cả cái khó khăn của nhiệm vụ chúng ta phải làm, tất cả cái khó khăn của chính sách và tất cả sự khéo léo của chính sách là ở chỗ biết tính đến những nhiệm vụ đặc thù của từng bước quá độ đó”[12].

Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga được chuyển lên từ cách mạng dân chủ tư sản [Cách mạng Tháng Hai]. Có những nhiệm vụ của cả hai cuộc cách mạng đó, Đảng Bôn-sê-vích và những người cộng sản Nga phải thực hiện ngay sau khi nổ ra cách mạng chính trị. Ở đây có mối quan hệ giữa cách mạng dân chủ tư sản và cách mạng xã hội chủ nghĩa. “Cuộc cách mạng thứ nhất chuyển thành cuộc cách mạng thứ hai. Cuộc cách mạng thứ hai, nhân tiện, giải quyết luôn cả những vấn đề của cuộc cách mạng thứ nhất. Cuộc cách mạng thứ hai củng cố sự nghiệp của cuộc cách mạng thứ nhất”. “Chế độ xô-viết chính là một trong những cái xác minh hoặc biểu hiện rất rõ ràng việc chuyển biến đó từ cuộc cách mạng này thành cuộc cách mạng kia. Chế độ xô-viết là chế độ dân chủ ở mức cao nhất cho công nhân và nông dân; đồng thời, nó có nghĩa là sự đoạn tuyệt với chế độ dân chủ tư sản và sự xuất hiện, trong lịch sử thế giới, một chế độ dân chủ kiểu mới, tức là chế độ dân chủ vô sản hay là chuyên chính vô sản”[13]. Đó là luận điểm cách mạng không ngừng của V. I. Lê-nin. Luận điểm đó phù hợp với cách mạng Việt Nam khi tất yếu chuyển từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Sự vận dụng ở Việt Nam

Cần nhấn mạnh rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng thành công những bài học, giá trị lý luận của Cách mạng Tháng Mười và những chỉ dẫn của V. I. Lê-nin để hoàn thành giải phóng dân tộc, hoàn thành trọn vẹn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc từ năm 1954 và trên cả nước từ năm 1975. Trong lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng đã khắc phục bệnh chủ quan, nóng vội, duy ý chí, giáo điều khi học tập kinh nghiệm nước ngoài. Với tư duy mới, Đảng đã nhận thức đúng đắn hơn những luận điểm của V. I. Lê-nin về thời đại cách mạng xã hội chủ nghĩa, vận dụng đúng đắn những đặc trưng và quy luật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vào thực tiễn Việt Nam để đề ra đường lối đổi mới vàCương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhất là công cuộc đổi mới đã làm cho nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn. Sáng tỏ hơn về mục tiêu và mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với 8 đặc trưng mà Cương lĩnh bổ sung, phát triển tại Đại hội XI của Đảng [tháng 1-2011] đã xác định. Mô hình đó đã thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng; thể hiện rõ cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng, quyền làm chủ của nhân dân, lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ; quyền sống và điều kiện phát triển con người; những vấn đề về văn hóa, xã hội và quan hệ quốc tế. Mô hình đó là sự phát triển hoàn chỉnh khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng về cơ bản. Thực tiễn cũng làm sáng tỏ hơn những vấn đề về quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bước phát triển quá độ đó về kinh tế là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều chế độ sở hữu và nhiều loại thị trường khác nhau. Về chính trị là tăng cường vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; thực hiện tốt hơn dân chủ xã hội chủ nghĩa. Về xã hội, củng cố đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước đi và chính sách thích hợp. Về văn hóa, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Thời kỳ quá độ ở Việt Nam cũng được nhận thức là một thời kỳ dài và phải trải qua nhiều chặng đường với hình thức, bước đi khác nhau.

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hoàn toàn có khả năng bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa: bỏ qua việc xác lập kiến trúc thượng tầng và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và có thể kế thừa nhiều thành quả của nhân loại đã được tạo ra dưới chủ nghĩa tư bản, nhất là khoa học, công nghệ. Trong thời đại ngày nay, mỗi quốc gia, dân tộc có quyền lựa chọn con đường phát triển riêng của mình nhưng vẫn có thể tham gia chủ động, tích cực và có trách nhiệm vào quá trình hội nhập quốc tế. Trên cơ sở học thuyết lý luận về chủ nghĩa xã hội và quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã tổng kết, đồng thời, từ những kinh nghiệm và thành quả thực tiễn của công cuộc đổi mới, Đảng và nhân dân ta luôn vững tin vào con đường xã hội chủ nghĩa – con đường tất yếu của lịch sử mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn ngay từ năm 1930./.

——————————————

[1]V. I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 26, tr. 444

[2] V. I. Lê-nin: Sđd, t. 26, tr. 447

[3] V. I. Lê-nin: Sđd, t. 36, tr. 213

[4] V. I. Lê-nin: Sđd, t. 36, tr. 359

[5] V. I. Lê-nin: Sđd, t. 36, tr. 360

[6] V. I. Lê-nin: Sđd, t. 36. tr. 362

[7] V. I. Lê-nin: Sđd, t. 36, tr. 368

[8] V. I. Lê-nin: Sđd, t. 36, tr. 382

[9] V. I. Lê-nin: Sđd, t. 39, tr. 25

[10] V. I. Lê-nin: Sđd, t. 43, tr. 263

[11] V. I. Lê-nin: Sđd, t. 39, tr. 318

[12] V. I. Lê-nin: Sđd, t. 40, tr. 119-120

[13] V. I. Lê-nin: Sđd, t. 44, tr. 184

Đánh giá post

  • TAGS
  • cach mang
  • chấn động
  • chinh tri
  • chủ nghĩa
  • dang
  • dang bo
  • dang spkt
  • dang uy
  • dangbo
  • đấu tranh
  • giá trị
  • hcmute
  • học thuyết
  • khẩu hiệu
  • khoa học
  • không thể
  • kinh tế
  • liên bang
  • luận điểm
  • ly luan
  • người ta
  • phát triển
  • sáng tạo
  • spkt
  • tác phẩm
  • thời đại
  • tư bản
  • ute
  • vô sản
  • vũ bão
  • xã hội

Share

Facebook

Email

Print

Viber

Pinterest

Linkedin

Bài trướcVề tính đa dạng của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội: từ Các Mác tới Chủ tịch Hồ Chí Minh và thực tiễn Việt Nam

Bài tiếp theoÝ nghĩa thực tiễn của Cách mạng Tháng Mười Nga với việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ ở nước ta

Nguồn gốc và bản chất của nhà nước

Nguồn gốc

Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rõ chỉ có tìm được nguồn gốc đích thực của nhà nước ngay trong xã hội, đặc biệt là từ kinh tế. Các Mác và Ăng ghen đã cách mạng rằng không phải khi nào xã hội cũng có nhà nước.

Trong thị tộc, bộ lạc không có nhà nước. Phù hợp với tình trạng kinh tế thấp kém, chưa có sự phân hoá giai cấp. Đứng đầu các thị tộc và bộ lạc là những tộc trưởng do nhân dân bầu ra. Quyền lực của người đứng đầu những cơ quan quản lý xã hội dựa vào sức mạnh đạo đức và uy tín. Tộc trưởng có trách nhiệm triển khai các công việc của thị tộc và bộ lạc. Quyền hành và chức năng của các cơ quan lãnh đạo thời kỳ này chưa mang tính chất chính trị. Như vậy, thể chế xã hội trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ là thể chế tự quản của nhân dân.

Lực lượng sản xuất phát triển đã đưa đến sự ra đời của chế độ tư hữu xã hội phân chia thành giai cấp. Chế độ sở hữu chung bị thay thế, xuất hiện chế độ người bóc lột người. Cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp đối kháng lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử xã hội dẫn tới nguy cơ chẳng những các giai cấp đó tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội. Để thảm hoạ đó không diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời, đó là nhà nước - một thiết chế có tiền thân của mình từ những tổ chức phi chính trị xuất hiện ngay trong xã hội thị tộc, bộ lạc. Trong thị tộc, bộ lạc đã xuất hiện những thiết chế có chức năng bảo vệ lợi ích chung của cả cộng đồng, giờ đây khi xuất hiện giai cấp, những thiết chế đó biến thành công cụ bảo vệ quyền lợi của một giai cấp. “Lúc đầu xã hội, bằng sự phân công đơn giản trong lao động thiết lập ra những cơ quan đặc thù để bảo vệ những lợi ích chung của mình. Nhưng với thời gian, các cơ quan ấy, mà cơ quan chủ chốt là chính quyền nhà nước, do phục vụ lợi ích riêng của mình từ chỗ là tôi tớ của xã hội biến thành chủ nhân của xã hội".

Nguyên nhân trực tiếp của sự xuất hiện nhà nước là do mâu thuẫn ngày càng sâu sắc, không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào, về mặt khách quan, những mâu thuẫn của giai cấp không thể điều hoà được thì ở đó nhà nước xuất hiện. Ngược lại, khi nhà nước tồn tại cũng chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà. Không có nhà nước, một tổ chức bạo lực chuyên được dùng để trấn áp thì giai cấp thống trị không thể duy trì được ách áp bức, bóc lột của mình đối với giai cấp bị trị. Rõ ràng, nhà nước ra đời là một tất yếu khách quan để làm “dịu” sự xung đột giai cấp, làm cho sự xung đột ấy diễn ra trong vòng “trật tự” để duy trì chế độ kinh tế, trong đó, giai cấp này bóc lột giai cấp khác. V.I Lênin đã từng viết: “Theo Mác, nhà nước là một cơ quan thống trị giai cấp, đó là một cơ quan áp bức của một giai cấp này đối với một giai cấp khác, đó là sự kiến lập ra một “trật tự”, trật tự này hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức kia bằng cách làm cho dịu xung đột giai cấp".

Bản chất của nhà nước

Khi nhà nước ra đời, nó tựa hồ đứng ngoài xã hội, làm cho xã hội tồn tại trong vòng trật tự nhất định, nhưng trên thực tế sự tồn tại của nhà nước đã chỉ rõ.

Lực lượng lập ra và sử dụng nhà nước phải là giai cấp có thế lực nhất - giai cấp thống trị về mặt kinh tế. Nói một cách khác, nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của giai cấp khác. Nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị về kinh tế trở thành giai cấp thống trị về chính trị. Trên cơ sở đó có thêm những phương tiện mới để đàn áp và bóc lột các giai cấp bị áp bức. “Nhà nước chẳng qua chỉ là bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác”2. Luận điểm đó làm nổi bật bản chất của nhà nước.

Nhà nước là bộ máy thống trị dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác. Nhà nước là cơ quan quyền lực của một giai cấp đối với toàn xã hội, là công cụ chuyên chính của một giai cấp. Không bao giờ tồn tại nhà nước đứng trên giai cấp, hoặc nhà nước chung cho mọi giai cấp.

Giai cấp thống trị sử dụng bộ máy nhà nước để đàn áp, cưỡng bức các giai cấp khác trong khuôn khổ lợi ích của giai cấp thống trị.

Theo bản chất đó, nhà nước không thể là lực lượng điều hoà sự xung đột giai cấp mà ngược lại, nó càng làm cho mâu thuẫn giai cấp gay gắt hơn.

Theo đó nhà nước là bộ phận quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp. Tất cả mọi hoạt động của nhà nước trên tất cả các lĩnh vực xã hội đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị.

Tóm lại, Nhà nước chỉ là công cụ chuyên chính của một giai cấp. Tuy nhiên cũng có trường hợp, nhà nước giữ được một mức độ độc lập nào đó đối với cả hai giai cấp đối địch, khi cuộc đấu tranh giữa chúng đạt tới thế cân bằng nhất định. Hoặc nhà nước là sản phẩm của sự thoả hiệp về quyền lợi tạm thời giữa một số giai cấp để chống lại giai cấp khác. Những trường hợp trên là có tính chất ngoại lệ và tạm thời. Sự phát triển của nền kinh tế - xã hội nói chung và cuộc đấu tranh giai cấp nói riêng sẽ phá vỡ thế cân bằng giữa các giai cấp thù địch với nhau, sự thoả hiệp tạm thời lại phá vỡ quyền thống trị xã hội tất yếu sẽ tập trung vào một giai cấp nhất định.

Thực tế, lịch sử đã chứng minh, dù được che dấu dưới hình thức tinh vi như thế nào, dù có bị khúc xạ qua các lăng kính ra sao? Nhà nước trong xã hội có giai cấp cũng chỉ là công cụ bảo vệ lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị, cũng chỉ là bộ máy trấn áp của một giai cấp này đối với một giai cấp khác.

Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, cơ sở lý luận của cách mạng Việt Nam

Chuyên đề 1
CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
LÀ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG, CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
------------
I- CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN LÀ HỌC THUYẾT KHOA HỌC VÀ CÁCH MẠNG NHẤT TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
1. Chủ nghĩa Mác - Lênin là thành tựu trí tuệ vĩ đại của loài người
a] Sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin là quy luật phát triển khách quan của xã hội
- Trong quá trình phát triển xã hội loài người, nhất là từ khi xuất hiện các giai cấp và đấu tranh giai cấp, quần chúng lao động luôn luôn mơ ước được sống trong một xã hội bình đẳng, công bằng, có cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Những tư tưởng tiến bộ, nhân đạo đã hình thành và phát triển trong lịch sử nhân loại đều mong muốn giải phóng các giai cấp cần lao khỏi ách áp bức, bất công.
- Đến giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở nhiều nước Tây Âu, nhất là nước Anh, đã phát triển mạnh mẽ. Bước lên vũ đài chính trị, giai cấp vô sản cần có lý luận khoa học để hướng dẫn cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp mình khỏi áp bức, bất công xã hội. Trên thế giới lúc đó cũng đã xuất hiện những tiền đề về kinh tế - xã hội khoa học và lý luận, v.v… dẫn tới sự ra đời của chủ nghĩa Mác.
Về điều kiện kinh tế - xã hội: Với sự ra đời của nền sản xuất đại công nghiệp dựa trên kỹ thuật cơ khí trước hết là ở nước Anh, lực lượng sản xuất xã hội đạt tới trình độ xã hội hóa ngày càng cao. Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của lực lượng sản xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất trong xã hội tư bản ngày càng phát triển, trở thành mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản.
Sự phát triển của nền đại công nghiệp đã sản sinh ra một giai cấp mới, đó là giai cấp công nhân. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, đã xuất hiện hai giai cấp cơ bản, đối lập nhau về lợi ích là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ngày càng lan rộng, phát triển tự phát tới tự giác, từ đấu tranh kinh tế tới đấu tranh chính trị, cần có lý luận khoa học và cách mạng dẫn dắt, soi đường. Chủ nghĩa xã hội khoa học do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập đã đáp ứng yêu cầu cấp thiết đó.
Về tiền đề khoa học và lý luận: Vào giữa thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, trong đó có ba phát minh quan trọng: Thuyết tiến hóa của Đácuyn; Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của Lômônôxốp; Thuyết tế bào. Các phương pháp nhận thức khoa học như: quy nạp, phân tích, thực nghiệm, tổng hợp… đã thúc đẩy năng lực tư duy khoa học không ngừng phát triển.
Về lý luận, có những thành tựu phát triển của triết học cổ điển Đức [tiêu biểu là Cantơ, Phoiơbắc], kinh tế chính trị cổ điển Anh [tiêu biểu là Ađam Xmít và Đavít Ricácđô], chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp thế kỷ XIX [tiêu biểu là Xanh - Ximông, Rôbớc Ôoen, Sáclơ Phuriê]…
- Dựa trên những tiền đề khoa học và lý luận, nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp thiết trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, C. Mác [1818 - 1883] và Ph. Ăngghen [1820 - 1895] đã kế thừa, tiếp thu có chọn lọc, phát triển, sáng tạo ra học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân là chủ nghĩa xã hội khoa học. C. Mác và Ph. Ăngghen đã phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư và sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, chỉ rõ sự hình thành, phát triển, diệt vong của chủ nghĩa tư bản và vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
- Chủ nghĩa Mác ra đời là thành tựu trí tuệ của loài người, phản ánh thực tiễn xã hội, nhất là cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, đáp ứng yêu cầu phát triển của cách mạng thế giới, là một tất yếu khách quan trong tiến trình phát triển lịch sử của tư tưởng nhân loại.
b] Sự vận dụng và phát triển không ngừng của chủ nghĩa Mác - Lênin trong các giai đoạn lịch sử
Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới đã chuyển sang giai đoạn phát triển mới, giai đoạn của chủ nghĩa đế quốc. Sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản làm cho mâu thuẫn giữa các nước đế quốc không thể điều hòa được, dẫn tới chiến tranh đế quốc. Đồng thời, với sự xâm chiếm và bóc lột thuộc địa tàn khốc của các nước đế quốc, trên thế giới đã xuất hiện phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc đại và phụ thuộc chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Yêu cầu của thực tiễn cách mạng lúc đó là phải vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện mới.
V.I. Lênin [1870 - 1924] đã vận dụng và phát triển sáng tạo toàn diện học thuyết Mác để giải quyết những vấn đề của cách mạng vô sản trong điều kiện đó. Người đã phân tích sâu sắc chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, chỉ ra những mâu thuẫn nội tại không thể khắc phục được để khẳng định khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản và mối quan hệ giữa cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc.
Sau thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917. V.I. Lênin đã phát triển một loạt vấn đề lý luận về xây dựng Chính quyền xôviết; phát triển kinh tế, khoa học - kỹ thuật; tiến hành công nghiệp hóa, điện khí hóa toàn quốc; thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa…
Để bảo vệ chủ nghĩa Mác, V.I. Lênin đấu tranh không khoan nhượng với các quan điểm tư sản, kịch liệt phê phán chủ nghĩa xét lại, cơ hội, “tả” khuynh, “hữu” khuynh, giáo điều,… trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác.
Sự phát triển sáng tạo học thuyết Mác của V.I. Lênin đã làm cho chủ nghĩa cộng sản khoa học trở thành hệ thống lý luận thống nhất của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Giai đoạn phát triển mới của chủ nghĩa Mác đã gắn liền với tên tuổi của V.I. Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân được gọi là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Với bản chất khoa học và cách mạng, ngày nay chủ nghĩa Mác - Lênin đã, đang tiếp tục được vận dụng, bổ sung và phát triển trong thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc trên thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
2. Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận thống nhất gồm ba bộ phận: triết học Mác - Lênin, kinh tế chính trị Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học
- Triết học Mác - Lênin [bao gồm chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử], là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết học Mác - Lênin đem lại cho con người thế giới quan khoa học và phương pháp luận đúng đắn để nhận thức và cải tạo thế giới.
- Kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, kinh tế chính trị Mác - Lênin chỉ rõ bản chất những quy luật kinh tế chủ yếu hình thành, phát triển và đưa chủ nghĩa tư bản tới chỗ diệt vong. Với phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu những quy luật phát triển của quan hệ sản xuất mới, con đường xây dựng một xã hội không có áp bức, bất công, vì tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người. Giai đoạn đầu của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là chủ nghĩa xã hội.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu những quy luật chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và phương hướng xây dựng xã hội mới. Chủ nghĩa xã hội khoa học đã chứng minh rằng, việc xã hội hóa lao động trong chủ nghĩa tư bản đã tạo ra cơ sở vật chất chủ yếu cho sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa xã hội. Cơ sở lý luận của sự chuyển biến đó là chủ nghĩa Mác - Lênin và lực lượng xã hội thực hiện sự chuyển biến đó là giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
3. Những nội dung chủ yếu thể hiện bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin
a] Chủ nghĩa Mác - Lênin là thành tựu trí tuệ của nhân loại
Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời trên cơ sở những tri thức tiên tiến nhất của thời đại về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và những thành tựu về lý luận trong triết học, kinh tế chính trị và tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Kế thừa, tiếp lthu và phát triển những thành tựu trí tuệ của nhân loại, C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin đã sáng tạo ra học thuyết khoa học và cách mạng cho giai cấp vô sản, đó là chủ nghĩa xã hội khoa học. Do vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin là thành tựu trí tuệ chung của nhân loại.
b] Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết duy nhất nêu lên mục tiêu chung là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người và chỉ ra lực lượng, con đường, phương thức đạt mục tiêu đó
- Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ: quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Điều đó đã chỉ ra cho xã hội, đặc biệt là giai cấp công nhân, nhân dân lao động, phương pháp luận đúng đắn để nhận thức và cải tạo thế giới.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin đã phân tích điều kiện kinh tế - xã hội và khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng triệt để nhất trong cuộc đấu tranh xóa bỏ áp bức, bất công và tình trạng người bóc lột người. Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, là vũ hí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp mình, qua đó giải phóng xã hội và giải phóng con người.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ giải thích mà còn vạch ra con đường, những phương tiện cải tạo thế giới. Đó là mối liên hệ hữu cơ, biện chứng giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng. C. Mác viết: “… lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào chúng” .
c] Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống lý luận toàn diện, học thuyết khoa học, cách mạng hoàn chỉnh
- Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong triết học mácxít làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ rõ sự chuyển biến từ một hình thái kinh tế - xã hội này sáng một hình thái kinh tế - xã hội khác như một quá trình lịch sử tự nhiên.
- Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thể hiện sự vận động, thay thế các phương thức sản xuất trong xã hội. Đó là cơ sở khẳng định sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản, sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội.
- Học thuyết giá trị thặng dư đã chỉ rõ mục đích và quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, từ đó vạch ra bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản đã chỉ rõ giai cấp công nhân là người lãnh đạo cuộc đấu tranh để lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa và xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, giải phóng giai cấp mình, đồng thời giải phóng xã hội.
d] Chủ nghĩa Mác - Lênin là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan khoa học và phương pháp luận mácxít
- Thế giới quan duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin giúp con người hiểu rõ bản chất của thế giới là vật chất. Thế giới [tự nhiên, xã hội] và tư duy của con người vận động, biến đổi theo những quy luật khách quan. Con người thông qua hoạt động thực tiễn có thể nhận thức, giải thích và cải tạo thế giới.
- Phương pháp luận mácxít giúp xem xét sự vật hiện tượng một cách khách quan, toàn diện, phân tích cụ thể theo tinh thần biện chứng.
Sự thống nhất giữa thế giới quan và phương pháp luận đã đưa chủ nghĩa Mác -Lênin trở thành một hệ thống lý luận mang tính khoa học và tính cách mạng sâu sắc.
đ] Chủ nghĩa Mác - Lênin và học thuyết mở, không ngừng đổi mới, phát triển cùng với sự phát triển của tri thức nhân loại
C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin đã nhiều lần khẳng định học thuyết của các ông không phải là cái đã xong xuôi hẳn, còn nhiều điều các ông chưa có điều kiện, thời gian, cơ hội nghiên cứu. Theo các ông, phát triển lý luận Mác - Lênin là trách nhiệm của các thế hệ kế tiếp sau, của những người mácxít chân chính, nếu họ không muốn trở nên lạc hậu với thời đại của họ. Trên thực tế, ngay trong quá trình hình thành và phát triển hệ thống quan điểm lý luận của mình, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đã điều chỉnh một số luận điểm đã trở nên lạc hậu, phát triển, bổ sung những quan điểm lý luận mới.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết mở, không cứng nhắc và giáo đều: đồng thời, có giá trị bền vững, xét trong tinh thần biện chứng, nhân đạo và hệ thống tư tưởng cốt lõi của nó. Kiên định những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin là trung thành với bản chất khoa học và cách mạng của nó để không ngừng phát triển, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin ngày càng hoàn thiện và gắn liền với thực tiễn.
II- TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH LÀ SỰ VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀO ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM
1. Khái niệm “tư tưởng Hồ Chí Minh”
- Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển trong quá trình lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam, lãnh đạo Đảng và nhân dân ta đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, xây dựng xã hội mới. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng những nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nước ta. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI [tháng 6-1991], trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, lẫn đầu tiên Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra khái niệm về tư tưởng Hồ Chí Minh và khẳng định: “cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh” . Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX [2001], khái niệm và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh đã được xác định rõ hơn.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
2. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta.
Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu bản chất khoa học và cách mạng của học thuyết này. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã vận dụng và phát triển sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết thành công những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Kết quả vận dụng sáng tạo và phát triển đó là tư tưởng Hồ Chí Minh, sự bổ sung vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự kế thừa các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước truyền thống, ý chí độc lập, tự cường; đoàn kết, nhân ái, khoan dung, tinh thần cộng đồng; lạc quan yêu đời, cần cù, thông minh, sáng tạo… của dân tộc Việt Nam được Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng và phát triển. Tư tưởng của Người là sự kết tinh những tinh hoa văn hóa, tinh thần, trí tuệ, đạo đức của dân tộc Việt Nam. Vì vậy, Đảng ta đã khẳng định: Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chí Minh, người anh hùng dân tộc vĩ đại. Vậy chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Trong suốt cuộc đời, đặc biệt trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh luôn tìm tòi, học hỏi và tiếp thu có chọn lọc, có phê phán các quan điểm của các trường phái triết học, các trào lưu tư tưởng trên thế giới, cả phương Đông và phương Tây, vận dụng vào thực tiễn Việt Nam, phát triển lên, trở thành tư tưởng của mình.
Trong ba nguồn gốc trên, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đặc biệt chủ nghĩa yêu nước là cơ sở ban đầu, là động lực thúc đẩy Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, làm cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có nội dung mới, tầm cao mới, “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh, giúp cho việc phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại có định hướng khoa học và cách mạng đúng đắn. Tinh hoa văn hóa nhân loại làm phong phú và sâu sắc thêm chủ nghĩa yêu nước và tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở Hồ Chí Minh.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của các nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất của cá nhân Người.
Những điều kiện trên cũng đã đến với nhiều người cùng thời với Hồ Chí Minh, nhưng chỉ với Hồ Chí Minh những điều kiện đó mới được kết hợp lại, phát triển lên, trở thành tư tưởng Hồ Chí Minh bởi có sự tham gia của các phẩm chất cá nhân của Người.
Thứ nhất, đó là khả năng tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo cùng với sự nhận xét, phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu.
Thứ hai, là sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của nhân loại, kinh nghiệm đấu tranh của nhân dân thế giới trong phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế.
Thứ ba, trong quá trình đi đến chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã trải qua cuộc sống của người công nhân lao động thực sự, luôn hòa mình với đời sống của giai cấp cần lao. Chính đó là yếu tố chủ quan then chốt, quyết định bước chuyển từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin, để Người trở thành một chiến sĩ cách mạng nhiệt thành; thương yêu những người cùng khổ; sẵn sàng hy sinh vì độc lập của Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của đồng bào.
Cùng với những năng lực bẩm sinh, những phẩm chất cá nhân cao quý trên đã giúp Hồ Chí Minh tiếp nhận, chọn lọc, chuyển hóa, phát triển những tinh hoa của dân tộc và thời đại thành tư tưởng đặc sắc của mình - tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nêu những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh là:
- Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
- Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
- Tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc.
- Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân.
- Tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
- Tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
- Tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
- Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân…
III- ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - SỰ LỰA CHỌN LỊCH SỬ CỦA DÂN TỘC TA
1. Tính tất yếu khách quan của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
a] Sự lựa chọn khách quan của lịch sử dân tộc [điều kiện lịch sử của Việt Nam]
- Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhân dân ta đã đứng lên đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược. Từ năm 1858 đến trước năm 1930, đã có hành trăm phong trào, cuộc khởi nghĩa oanh liệt dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu, các nhân sĩ, trí thức, người yêu nước… theo nhiều khuynh hướng khác nhau, nhưng đều bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và thất bại. Nguyên nhân chính là do chưa có đường lối cứu nước đúng đắn theo một hệ tư tưởng tiên tiến, khoa học và cách mạng. Đó là sự khủng hoảng về đường lối cứu nước. Đầu thế kỷ XX, toàn bộ trí lực của dân tộc hướng vào tìm kiếm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
- Tháng 6-1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành [Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh] ra đi tìm đường cứu nước. Bôn ba qua nhiều nước trên thế giới, vừa lao động, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư sản điển hình, như Cách mạng tư sản Pháp, Chiến tranh giành độc lập ở Mỹ; tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp, sau đó trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, Người đã rút ra nhiều bài học quý báu và bổ ích, là cơ sở cho sự lựa chọn con đường cách mạng của mình.
- Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, Người đã tìm thấy con đường duy nhất đúng đắn để cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Đó là tiến hành vô sản: độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; gắn cách mạng giải phóng dân tộc trong nước với phong trào cách mạng thế giới… Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” . Từ đó, Người truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta, sáng lập và rèn luyện Đảng ta, lãnh đạo Đảng và nhân dân ta giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Toàn dân ta đi theo Đảng. Đó là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam.
b] Sự lựa chọn khách quan của thời đại [điều kiện lịch sử thế giới]
- Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 thành công đã mở ra thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Chính tính chất của thời đại mới đã tạo ra khả năng hiện thực cho những dân tộc đang còn lạc hậu giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Những khả năng hiện thực này đã đem lại nhận thức mới mẻ và triệt để trong quan niệm, cũng như giải pháp để giải quyết vấn đề độc lập dân tộc.
- Về lý luận và thực tiễn, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng triệt để giai cấp công nhân và nhân dân lao động thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, bất công, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân và đưa nhân dân lao động trở thành những người làm chủ xã hội. Độc lập dân tộc chỉ có gắn với chủ nghĩa xã hội thì mới vững chắc. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
- Trong quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc, chủ nghĩa xã hội bảo đảm quyền tự quyết dân tộc, quyền lựa chọn chế độ chính trị, lựa chọn con đường và mô hình phát triển; xóa bỏ tình trạng dân tộc này áp bức, bóc lột, nô dịch dân tộc khác trên thế giới.
- Chủ nghĩa xã hội tạo ra sự trao đổi, hợp tác kinh tế, văn hóa giữa các nước dựa trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, vì một thế giới hòa bình, không có chiến tranh, bạo lực, bất công; bảo đảm cho con người sống trong an ninh và hạnh phúc.
2. Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi thành lập Đảng
Trong hơn 80 năm qua, Đảng và nhân dân ta luôn kiên trì và thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Chình vì vậy, cách mạng nước ta đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại.
- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa [nay là Cộng hòa xã hội chỉ nghĩa Việt Nam]. Đây là kết quả tổng hợp của các cao trào cách mạng diễn ra liên tục từ ngày thành lập Đảng, từ Cao trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh 1930 - 1931, Cuộc vận động dân chủ 1936 - 1939 đến Cao trào vận động giải phóng dân tộc 1939 - 1945. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã xóa bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở nước ta, giành lại nền độc lập cho dân tộc, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
- Thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc. Thắng lợi đó đã tạo điều kiện đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội và góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội.
- Thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” đã củng cố vững chắc nền độc lập dân tộc, từng bước đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội.
Bài học lớn luôn luôn được đặt ở vị trí hành đầu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt qua hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, là phải “kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” .
3. Những nội dung cơ bản của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập địa vị thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa.
Với điểm xuất phát từ trình độ phát triển kinh tế - xã hội rất thấp, quá trình đó tất yếu đòi hỏi phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường. Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 20 năm đổi mới. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã cụ thể hóa những phương hướng trong Cương lĩnh 1991, chỉ ra 8 quá trình sau:
Một là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây là bước phát triển mới về lý luận của Đảng ta trong quá trình đổi mới. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường thể hiện qua bốn đặc trưng cơ bản là:
- Mục tiêu phát triển kinh tế là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng…
- Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
- Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục…, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.
- Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dước sự lãnh đạo của Đảng.
Hai là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Từ một nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, tất yếu phải tiến hành công nghiệp hóa. Trong thời đại bùng nổ cách mạng khoa học và công nghệ, công nghiệp hóa phải kết hợp ngay từ đầu với hiện đại hóa, gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội.
Văn hóa hiểu theo nghĩa chung là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. Để xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh phải lấy văn hóa làm nền tảng tinh thần. Đại hội X khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội” .
Bốn là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc.
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ nhân dân là bản chất của chế độ xã hội ở nước ta. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Phát huy dân chủ gắn liền với phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các hình thức thực hành dân chủ: dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp ở cơ sở và tự quản trong các cộng đồng dân cư. Đại đoàn kết toàn dân tộc vừa là nguồn lực chủ yếu để xây dựng xã hội mới, vừa là nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Năm là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Nhà nước pháp quyền là sự tiến bộ của nhân loại, trong đó có đặc điểm nổi bật là bảo đảm quyền tối cao của pháp luật. Nhà nước pháp quyền ở nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình chủ yếu bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay là xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước; xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát các cơ quan công quyền; tiếp tục đổi mới hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp; tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Sáu là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta. Trong điều kiện hiện nay, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là “nhiệm vụ then chốt”, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng.
Bảy là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia.
Dựng nước gắn liền với giữ nước là quy luật lịch sử của dân tộc ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Các vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước. Trong thời kỳ phát triển mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bảo đảm an ninh quốc gia ngày nay bao gồm: an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa, an ninh xã hội. Bảo vệ Tổ quốc ngày nay không chỉ là bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, vùng trời, vùng biển mà còn là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân; bảo vệ kinh tế, văn hóa dân tộc, sự nghiệp đổi mới…
Tám là, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu khách quan đang lôi cuốn nhiều nước tham gia. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là phải chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ động về đường lối, chính sách, bước đi hội nhập. Tích cực chuẩn bị vươn lên tham gia mạnh mẽ hơn, đầy đủ hơn vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc./.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Toplist mới

Bài mới nhất

Chủ Đề