Quy định của pháp luật về quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, thân thể danh dự sức khỏe

Quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng thân thể sức khỏe danh dự và nhân phẩm là một trong các quyền con người của công dân Việt Nam được pháp luật quy định rõ ràng trong các bộ luật. Tuy nhiên nhiều bạn đọc lại chưa biết cũng như nắm không rõ về các quyền lợi ích hợp pháp của mình.

Cùng chuyên viên của chúng tôi tìm hiểu về các Quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng thân thể sức khỏe danh dự và nhân phẩm trên qua nội dung bài viết sau.

Quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng thân thể sức khỏe danh dự và nhân phẩm là các quyền lợi hợp pháp và chính đáng của công dân Việt Nam được Nhà nước bảo đảm bằng các biện pháp sức mạnh của mình. Trước pháp luật mọi người đều bình đẳng.

Quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, thân thể, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm là quyền cơ bản của công dân. Hiện pháp luật nước ta quy định:

+ Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không ai được xâm phạm thân thể của người khác. Việc bắt giữ người phải theo đúng quy định của pháp luật. + Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Điều đó là mọi người phải tôn trọng tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của người khác. Mọi việc làm xâm hại đến ính mạng, thân thể, sức khỏe danh dự và nhân phẩm của người khác đều bị pháp luật trừng phạt nghiêm khắc.

Pháp luật quy định về quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng thân thể sức khỏe danh dự và nhân phẩm

Tính mạng thân thể sức khỏe danh dự và nhân phẩm con người là những vấn đề hết sức quan trọng và được pháp luật quy định rõ ràng và có biện pháp xử lý nghiêm minh trước các hành vi xâm hại đến tính mạng thân thể sức khỏe danh dự và nhân phẩm con người. Con người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm và được đảm bảo về sức khỏe, bảo vệ khỏi bất cứ một hình thức nào có thể xâm hại đến tính mạng, thân thể, danh dự, nhân phẩm. Trên thực tế vẫn luôn tồn tại những hành vi vi phạm quy định của pháp luật, xâm hại đến quyền con người do đó pháp luật đã có những quy định chặt chẽ để bảo vệ quyền lợi của công dân.

Hiện nay các quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng thân thể sức khỏe danh dự và nhân phẩm được quy định chi tiết và cụ thể qua Hiến pháp 2013, Bộ luật Dân sự 2015 và Bộ luật Hình sự 2015 [sưả đổi bổ sung năm 2017], bộ luật tố tụng hình sự. Cụ thể:

+ Tại điều 19 Hiến pháp năm 2013 thì “ Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”. Khoản 1 điều 20 Luật Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”. Như vậy tất cả mọi cá nhân đều được đảm bảo quyền lợi về bất khả xâm phạm đến thân thể của mình, không có bất cứ ai có quyền được xâm hại các quyền lợi đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác dưới mọi hình thức.

+ Tại khoản 1 điều 32 Bộ luật dân sự năm 2015 cũng quy định về quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể công dân như sau: “ 1. Cá nhân có quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể”. Tính mạng con người vô cùng quan trọng, trong mọi hoàn cảnh, mọi lúc, mọi nơi, bất cứ cá nhân nào cũng có quyền được bảo hộ một cách tối đa nhất có thể, không ai có quyền xâm phạm, xâm hại đến tính mạng, thân thể hay về sức khỏe. Trên thực tế, dù là những hành vi do lỗi cố ý hay là lỗi vô ý mà gây ảnh hưởng xấu đến tính mạng, sức khỏe của con người đều sẽ phải chịu những trách nhiệm nhất định trước người bị thiệt hại và trước pháp luật.

+ Đặc biệt trong Bộ luật Hình sự năm 2015 dành riêng Chương XIV [từ Điều 123 đến Điều 156] quy định hình phạt đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người.

+ Cũng theo quy định của pháp luật tại Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, liên quan đến trách nhiệm hình sự của một cá nhân có dấu hiệu tội phạm, khi xét thấy một cá nhân có yếu tố cấu thành dấu hiệu tội phạm, cơ quan có thẩm quyền có thể thực hiện việc giữ người khi vào hoàn cảnh khẩn cấp, toàn bộ quá trình bắt, tạm giam, tạm giữ bất cứ cá nhân nào cũng phải được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục luật định.

Trách nhiệm của công dân về quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng thân thể sức khỏe danh dự và nhân phẩm

Quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng thân thể sức khỏe danh dự và nhân phẩm là quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi người do đó chúng ta phải biết tôn trọng tính mạng, thân thể, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm của người khác và chính bản thân mình. Bản thân mỗi người phải biết tự bảo vệ quyền của mình, tố cáo những việc làm sai trái với quy định của pháp luật. Ngoài ra khi có hành vi xâm hại đến tính mạng thân thể sức khỏe danh dự và nhân phẩm sẽ phải chịu trách nhiệm với hành vi của bản thân mình.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về vấn đề Quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng thân thể sức khỏe danh dự và nhân phẩm. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng.

1. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín

Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín là một trong số những quyền nhân thân cơ bản của con người. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín được ghi nhận trong tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 tại điều 12: “Không ai phải chịu can thiệp một cách tùy tiện vào cuộc sống riêng tư, gia đình, nơi ở hoặc thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự hoặc uy tín cá nhân…”

Và quyền nhân thân này cũng được quy định trong công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966: “Không ai bị can thiệp một cách độc đoán hoặc bất hợp pháp đến đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín hoặc bị xúc phạm bất hợp pháp đến danh dự và uy tín”

Để đảm bảo quyền này được thực hiện trên thực tế, pháp luật Việt Nam đã sớm có quy định về quyền này. Hiến pháp năm 1980 đã quy định: “Công dân có quyền tự được pháp luật bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm”[Điều 70].

Đến Hiến pháp năm 1992 lại tiếp tục ghi nhận quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của công dân tại Điều 71: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm”.

Sau đó, Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.”

Như vậy quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín là quyền hiến định và đã được quy định tại Điều 37 Bộ luật dân sự năm 2015.

2. Quy định của pháp luật về nguyên tắc

Theo Điều 11 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có quy định:

“Mọi người có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản.

Mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân; xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân đều bị xử lý theo pháp luật.

Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho Nhà nước khác”.

Nguyên tắc này có cơ sở hiến định tại Điều 19, 20, 32, 51 của Hiến pháp năm 2013:

“Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” [Điều 19]

“Mọi người…được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm.” [Điều 20];

”Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ” [Khoản 2 ĐIều 32];

“Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa” [ khoản 2,3 Điều 51].

3. Nội dung của nguyên tắc

Một là, mọi người có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản.

Khi có căn cứ xác định tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và người thân thích của họ [người thân thích của người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại bao gồm: vợ chồng, bố mẹ đẻ, bố mẹ chồng, bố mẹ vợ, bố mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, ông bà nội, ngoại, anh chị em ruột, anh chi em nuôi, cụ nội, cụ ngoại, bác ruột, cô dì, cậu mợ, cháu ruột] mà bị xâm hại, hoặc bị đe dọa xâm hại do việc cung cấp chứng cứ, tài liệu, thông tin liên quan đến tội phạm thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải quyết định áp dụng những biện pháp bảo vệ có hiệu quả.

Các biện pháp bảo vệ trong tố tụng hình sự bao gồm: Bố trí lực lượng, tiến hành các biện pháp nghiệp vụ, sử dụng vú khí, công cụ hỗ trợ và các phương tiện khác để canh giác, bảo vệ, hạn chế việc đi lại, tiếp xúc của người được bảo vệ để đảm bảo an toàn cho họ; giữ bí mật và yêu cầu người khác giữ bí mật các thông tin liên quan đến người được bảo vệ; di chuyển, giữ bí mật chỗ ở, nơi làm việc, học tập; thay đổi tung tích, lý lịch, đặc điểm nhận dạng của người được bảo vệ nếu được họ đồng ý; Răn đe, cảnh báo, vô hiệu hóa các hành vi xâm hại người được bảo vệ; Ngăn chặn kịp thời các hành vi xâm hại theo quy định của pháp luật và thực hiện các biện pháp bảo vệ khác theo quy định của pháp luật [ Điều 486 BLTTHS].

Không ai bị tước đoạt tính mang nếu không bị Tòa án tuyên phạt tử hình và có quyết định thi hành án tử hình của Tòa án. Bản án tử hình được xem xét một cách chặt chẽ theo quy định tại Điều 367 BLTTHS. Nghĩa là, bản án tuyên người đó tử hình và án đã có hiệu lực pháp luật, hồ sơ vụ án được Viện trưởng VKSNDTC và Chánh án TANDTC xem xét trình chủ tịch nước.

Hai là, mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân đều bị xử lý theo quy định của pháp luật. Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế và hình phạt áp dụng đối với cá nhân và pháp nhân phải có căn cứ pháp luật, do cơ quan có thẩm quyền áp dụng và tuân theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định. Người bị bắt, bị giam, giữ phải tuân theo quy định của BLTTHS, không thể bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.

Mọi hành vi có lỗi, gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân đều bị xử lý theo quy định của pháp luật, trong đó có các biện pháp xử lý hình sự theo quy định của BLHS.

Bộ luật hình sự năm 2015 có 2 chương riêng quy định về các Tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người [chương XIV, từ Điều 123 đến Điều 156] và các Tội xâm phạm sở hữu [ chương XVI, các Điều từ 168 đến Điều 180].

Ba là, Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác, kể cả trong trường hợp họ phạm tội ở nước ngoài nhưng có mặt tại Việt nam, vì theo quy định tại Khoản 1 Điều 35 Luật tương trợ tư pháp năm 2007, cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền ở Việt nam phải từ chối dẫn độ nếu yêu cầu dẫn độ từ phía nước ngoài, nếu người bị yêu cầu dẫn độ đó là công dân Việt Nam.

4. Bảo đảm nguyên tắc trong thi hành bản án tử hình

Bảo đảm cho việc thực hiện quy định của Hiến pháp, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có những bổ sung quan trọng nhằm tăng cường tính chặt chẽ của thủ tục về thi hành bản án tử hình, trong đó có hai loại thủ tục:

- Thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi thi hành.

- Thủ tục của việc không ra quyết định thi hành án tử hình và xem xét để chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân cho người bị kết án [khoản 2 Điều 367].

Tương tự như yêu cầu đặt ra tại Điều 9 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm mới trong nội dung của nguyên tắc này là việc xác định danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân cũng là đối tượng bảo vệ của tố tụng hình sự. Bởi lẽ, khi là chủ thể của trách nhiệm hình sự thì trong các hoạt động tố tụng hình sự, các pháp nhân thương mại cũng có khả năng trở thành nạn nhân của những hành vi trái pháp luật xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của họ.

5. Thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi thi hành

Thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi thi hành được quy định tại Điều 367 BLTTHS. Theo đó, sau khi bản án tử hình có hiệu lực pháp luật, hồ sơ vụ án phải được gửi ngay cho Chánh án TANDTC; bản án phải gửi ngay cho Viện trưởng VKSNDTC. Hai chủ thể này sẽ tiến hành xem xét, quyết định kháng nghị hoặc không kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm trong thời hạn 2 tháng. Đồng thời, trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước.

Về thủ tục gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước, có một số vướng mắc, bất cập như sau:

Thứ nhất, luật không quy định thời hạn xét đơn ân giảm của Chủ tịch nước trong trường hợp người bị kết án có đơn xin ân giảm. Theo đó, luật chỉ quy định thời hạn người bị kết án gửi đơn xin ân giảm cho Chủ tịch nước và Chủ tịch nước xem xét quyết định ân giảm hay bác đơn xin ân giảm. Đồng thời, thủ tục thi hành án còn có thời hạn tiến hành, nhưng luật không quy định thời hạn xem xét đơn xin ân giảm. Nếu hết thời hạn xem xét kháng nghị mà Chánh án TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC không kháng nghị mà Chủ tịch nước chưa có quyết định về việc xem xét đơn xin ân giảm thì thủ tục thi hành án tử hình cũng không được thi hành.

Thứ hai, trường hợp bản án tử hình bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm mà Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án tử hình thì TANDTC phải thông báo ngay cho người bị kết án để làm đơn xin ân giảm. Vậy, thông báo ngay được hiểu như thế nào? Một ngày, hai ngày hay ngay trong ngày có quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm? Như vậy, luật còn bỏ ngỏ quy định này dẫn đến khó khăn trong khi thi hành trên thực tế.

Thứ ba, điểm c khoản 1 Điều 367 BLTTHS 2015 quy định: “Trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải quyết định kháng nghị hoặc quyết định không kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm”. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 400 BLTTHS 2015 thì Chánh án TANDTC không phải là chủ thể có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Nên khi xác định có căn cứ để kháng nghị tái thẩm thì Chánh án TANDTC phải đề nghị Viện trưởng VKSNDTC kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Do đó, cần phải sửa đổi điểm c khoản 1 Điều 367 theo hướng thống nhất với Điều 400.

Thứ tư, thời hạn để Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC xem xét quyết định kháng nghị hay không kháng nghị là 2 tháng. Trong thời gian đó, nếu đã ra quyết định kháng nghị hoặc quyết định không kháng nghị thì các chủ thể này có quyền thay đổi hay không? Hiện nay, luật chưa có quy định về vấn đề này nhưng trên thực tế đã có trường hợp rút quyết định không kháng nghị giám đốc thẩm? Do đó, để tạo tính pháp lý cho hoạt động này, cần bổ sung quy định có liên quan.

LUẬT MINH KHUÊ [Sưu tầm & Biên tập]

Video liên quan

Chủ Đề