So sánh nợ xấu 2023-2023

Trong 6 tháng đầu năm 2023, nợ xấu của hầu hết các ngân hàng niêm yết đều tăng mạnh. Đáng chú ý, nợ nhóm 2 [nhóm nợ cần chú ý – có nguy cơ chuyển sang nợ xấu] tăng đột biến trong những tháng đầu năm, nhưng đã có dấu hiệu cải thiện hơn ở quý II/2023.

Tổng hợp số liệu từ Báo cáo tài chính quý II/2023 của 27 ngân hàng thương mại, tổng nợ xấu [nhóm 3-5] là khoảng 187.475 tỷ đồng, tăng 10% so với quý trước và tăng 37,4% so với thời điểm cuối năm 2022. Tỷ lệ nợ nhóm 2 toàn ngành Ngân hàng thời điểm cuối quý I/2023 tăng đến 45% so với cuối năm 2022; tại quý II/2023, xu hướng vẫn tăng nhưng tốc độ tăng đã thu hẹp hơn.

Trong khi đó, tỷ lệ bao phủ nợ xấu [LLR] toàn Ngành lại suy giảm mạnh trong một năm trở lại đây, từ mức 143% xuống 99,4%.

Theo Báo cáo ngành Ngân hàng năm 2023 của Công ty Chứng khoán VPBank [VPBankS], tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ trung bình của các ngân hàng niêm yết đang ở mức 2% [tăng 20 điểm cơ bản so với quý trước], vẫn dưới mức trần 3% nhưng cũng là con số đáng cảnh báo ở thời điểm kinh tế khó khăn, tín dụng tăng trưởng thấp.

So sánh tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ [NPL] các ngân hàng tại quý II/2023. Nguồn: VPBankS

Số liệu thống kê từ báo cáo tài chính các ngân hàng cho thấy, bức tranh nợ xấu có sự phân hóa khá mạnh. Nhìn chung, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng tăng tại đa số nhà băng. Hiện chỉ còn 2 ngân hàng giữ được tỷ lệ nợ xấu ở dưới mức 1%, là Bắc Á Bank [0,7%] và Vietcombank [0,8%].

Số ít ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu quanh ngưỡng 1% chỉ gồm ACB, Techcombank, ngoài ra có Vietinbank [1,3%], MB [1,4%], BIDV [1,6%]… Khi tỷ lệ nợ khó đòi tăng cao trên diện rộng sẽ dẫn đến rủi ro hệ thống liên ngân hàng và nghiêm trọng hơn có thể gây nên một cuộc khủng hoảng tài chính. Riêng NCB vẫn là ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao nhất hệ thống.

Tỷ lệ bao phủ nợ xấu các ngân hàng tính đến ngày 30/6/2023.

Vietcombank là ngân hàng tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao nhất hệ thống, đạt 387% và tăng 70% so với cuối năm 2022, đứng sau là các ngân hàng: Vietinbank, MBBank, BIDV, Techcombank… Tỷ lệ bao phủ nợ xấu là “đệm đỡ” cho ngân hàng trước rủi ro nợ xấu.

Theo các chuyên gia, ngân hàng nào càng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao thì lợi nhuận sẽ ít bị ảnh hưởng bởi nợ xấu hơn và ngược lại. Vì khi không thể thu hồi được nợ, ngân hàng chỉ cần trích lập dự phòng ra để cấn trừ vào khoản nợ đó.

Đẩy một phần rủi ro sang cuối năm 2024

VPBankS cho rằng, những lý do chính dẫn đến chất lượng tài sản suy giảm là lãi suất tăng mạnh trong quý IV/2022, trong khi thị trường trái phiếu và bất động sản [BĐS] gần như đóng băng từ quý II/2022 làm các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc huy động vốn để đảo nợ, đồng thời hoạt động xử lý nợ xấu khó khăn do BĐS là tài sản bảo đảm chính cho phần lớn các khoản vay.

Bên cạnh đó, trước xu hướng kinh tế suy yếu rõ rệt trong đầu năm 2023 với nhiều chỉ báo từ quý IV/2022, nợ xấu nhóm 2 gia tăng mạnh trong quý trước cũng đã phản ánh lên tỷ lệ nợ xấu trong quý II và những tháng còn lại của năm 2023.

Một rủi ro nữa là việc một lượng lớn trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn trong năm 2023 và 2024. Nền kinh tế khó khăn khiến các tổ chức phát hành gặp khó trong việc hoàn trả các nghĩa vụ đã cam kết, dẫn đến rủi ro hệ thống cao hơn.

Tỷ lệ nợ cần chú ý [nợ nhóm 2] tăng mạnh một phần do nợ tái cơ cấu chuyển nhóm khi Thông tư số 14/2021/TT-NHNN hết hiệu lực, theo đó, làm dấy lên lo ngại về áp lực nợ xấu gia tăng trong năm 2023.

Tuy nhiên, sau khi Thông tư số 02/2023/TT-NHNN được ban hành, các ngân hàng sẽ có quyền lựa chọn cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong phạm vi tối đa là 12 tháng và giữ guyên nhóm nợ trong khi các khoản dự phòng có thể được trích dẫn trong 2 năm.

Nhờ vậy, áp lực lên cả bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh sẽ giảm bớt phần nào, do tỷ lệ nợ xấu gia tăng sẽ được chuyển sang đến nửa cuối năm 2024. Áp lực lợi nhuận cũng giảm bớt, ít nhất trong năm 2023 cho đến nửa cuối năm 2024.

Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, GDP quý 1/2023 ước tăng 3,32% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng thấp trong 13 năm qua, ngoại trừ quý 1/2020 tăng thấp do nền kinh tế bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Số liệu phản ánh các hoạt động kinh doanh, sản xuất đang gặp khó khăn do số lượng đơn hàng sụt giảm trong bối cảnh kinh tế Mỹ và châu Âu đình trệ, thậm chí suy thoái.

NỢ CẦN CHÚ Ý TĂNG MẠNH

Ở trong nước, để kiểm soát lạm phát và ứng phó với các cú sốc từ bên ngoài, từ năm 2022, chính sách tiền tệ từng bước được thắt chặt. Ngoài ra, khủng hoảng niềm tin chưa từng có xảy ra trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã tác động tiêu cực đến điều kiện sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là lĩnh vực bất động sản.

Theo các chuyên gia, những yếu tố hỗ trợ tăng trưởng bao gồm: [i] động lực từ đầu tư công; [ii] giải ngân FDI kỳ vọng tương đương năm 2022; [iii] tiêu dùng nội địa tích cực [hưởng lợi từ khách Trung Quốc]; và [iv] Ngân hàng Nhà nước nới lỏng chính sách tiền tệ, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

Trong 4 nhân tố trên, giải ngân vốn đầu tư công vẫn chưa đạt kỳ vọng, giải ngân vốn FDI là một biến số khó đoán định. Đó là chưa kể, rủi ro suy thoái kinh tế ở Mỹ và EU là yếu tố kìm hãm tăng trưởng GDP khi đơn hàng xuất khẩu suy giảm mạnh. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp đối diện với áp lực đáo hạn rất lớn trong suốt năm 2023 và chưa thể lấy lại niềm tin của nhà đầu tư, mặc dù cơ quan quản lý đã đưa ra nhiều nỗ lực.

Những khó khăn của nền kinh tế cũng đang dồn lên hệ thống ngân hàng. Mặc dù nhìn trên tổng thể, tỷ lệ nợ xấu nội bảng [NPL] toàn hệ thống đang được kiểm soát ở mức dưới 3%, nhưng nợ xấu ở một số ngân hàng đã ở mức báo động.

Ngoài ra, cập nhật báo cáo tài chính quý 1/2023 của 27 ngân hàng niêm yết cho thấy, nợ cần chú ý [nhóm 2] đã tăng 43% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ dư nợ vay nhóm 2-5/tổng dư nợ tăng mạnh từ 3,4% trong quý 4/2022 lên 4,4% trong quý 1/2023. Có 8 ngân hàng tăng trưởng nợ xấu nhiều nhất trong quý 1/2023; trong số đó chỉ có 2 đơn vị duy trì được tỷ lệ nợ xấu nội bảng dưới 3% [lần lượt là 1,76% và 2,02%].

Một ngân hàng niêm yết trên sàn chứng khoán, đã đạt “danh hiệu quán quân” nợ xấu quý 1 khi tính tới ngày 31/3/2023, nợ nhóm 1 của ngân hàng này giảm 10,3% so với hồi đầu năm, xuống mức 32.778 tỷ đồng. Nợ nhóm 2 [nợ cần chú ý] tăng 51% lên mức 3.953,6 tỷ đồng. Trong khi đó, nợ nhóm 3 [nợ dưới tiêu chuẩn] tăng tới 147,4% lên mức 2.542,5 tỷ đồng. Nợ nhóm 4 [nợ nghi ngờ] tăng 18,7% lên mức 5.043,5 tỷ đồng. Nợ nhóm 5 [nợ có khả năng mất vốn] tăng 3,1%, ở mức gần 3.383 tỷ đồng. Do đó, ngân hàng này có tổng nợ xấu gần 10.969 tỷ đồng [tăng 28,2% so với hồi đầu năm] và tỷ lệ nợ xấu nội bảng này là 23%.

Vị trí “á quân” nợ xấu thuộc về một ngân hàng khác đứng đầu quy mô khối tư nhân, với tỷ lệ nợ xấu nội bảng lên tới 6,24% khi kết thúc quý 1, tăng 0,51% so với quý 4/2022. Ngoài ra, tỷ lệ nợ xấu tại 4 ngân hàng khác lần lượt là: 4,01%; 4,3%; 2 đơn vị tiếp theo xấp xỉ 3,65%; 3 đơn vị có tỷ lệ nợ xấu nội bảng xấp xỉ 3%.

Tại nhiều ngân hàng khác, dù tỷ lệ nợ xấu nội bảng vẫn được kiểm soát dưới 3% nhưng tỷ lệ nợ cần chú ý [nợ nhóm 2] lại tăng mạnh.

Đơn cử như MSB, trong quý 1/2023, khoản vay nhóm 2 đã tăng 146% so với đầu năm, lên 4.337 tỷ đồng, tăng thêm khoảng 2.700 tỷ đồng; trong đó, chỉ riêng 2 khách hàng là Novaland và Tập đoàn xây dựng Hòa Bình đã đóng góp 1.150 tỷ đồng và 545 tỷ đồng; nợ nhóm 2 của nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa [SME] và khách hàng cá nhân lần lượt là 450 tỷ đồng và 555 tỷ đồng.

Không chỉ các ngân hàng có tỷ lệ cho vay bất động sản, xây dựng cao mới phải chịu áp lực nợ xấu cao. ACB, một trong những ngân hàng được đánh giá là có chất lượng tài sản lành mạnh nhất hệ thống với tỷ lệ nợ xấu được kiểm soát dưới 1% trong quý 1/2023 nhưng nợ nhóm 3 và 4 tăng mạnh. ACB là ngân hàng nói không với trái phiếu doanh nghiệp; cho vay bất động sản, xây dựng chiếm tỷ trọng thấp trong cơ cấu tín dụng.

Quý 1/2023, ACB ghi nhận sự tăng mạnh ở nợ nhóm 3 tăng 94% QoQ [so sánh quý], tăng 214% so với cùng kỳ năm trước [YoY] và nợ nhóm 4 [+149% QoQ, +20% YoY]; tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng quý 1/2023 đã tăng lên mức 0,94% [tăng 20 điểm cơ bản so với đầu năm]; tỷ lệ bao phủ nợ xấu đạt 116%.

Theo giới phân tích, nguyên nhân khiến nợ nhóm 3 và 4 của ACB tăng mạnh do diễn biến ảm đạm của hoạt động xuất khẩu, khan hiếm đơn hàng gây ảnh hưởng đến dòng tiền của nhiều doanh nghiệp, dẫn đến khó khăn trong việc thanh toán các khoản vay với ngân hàng.

Sớm dự đoán về tác động tiêu cực của bối cảnh vĩ mô trong nước và thế giới tới chất lượng tài sản của các ngân hàng, nhiều đơn vị đã đẩy mạnh trích lập dự phòng rủi ro từ quý 3/2022.

Trong năm 2022, chi phí trích lập dự phòng của ViettinBank được đẩy mạnh trong quý 3 và duy trì ở mức trung bình trong quý 4, tỷ lệ bao phủ nợ xấu đạt mức 188%, tỷ lệ xóa nợ xấu đạt 1,7% và là mức cao nhất trong lịch sử hoạt động của ngân hàng nhờ trích lập dự phòng lớn. Hoạt động trích lập dự phòng rủi ro tiếp tục được đẩy mạnh trong quý 1/2023 khi chi phí trích lập quý này ở mức 6.723 tỷ đồng, tăng 21,5% so với quý trước và tăng 52% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, đi kèm với việc tăng trích lập dự phòng, tỷ lệ nợ xấu của ViettinBank cũng tăng từ 1,24% tại thời điểm quý 4/2022 lên 1,28% trong quý 1/2023 khiến tỷ lệ bao phủ nợ xấu theo đó giảm xuống mức 173%.

Trong bối cảnh đầy biến động hiện nay, một số ngân hàng lựa chọn chiến lược thận trọng, chấp nhận tăng trưởng thấp để quản lý rủi ro, như VietcomBank. Trong quý 1/2023, tăng trưởng tín dụng của Vietcombank thấp nhất trong nhiều năm gần đây khi mà tổng tín dụng trong quý 1/2023 của Vietcombank tăng 2,5% kể từ đầu năm lên 1.185 tỷ đồng, mức tăng trưởng thấp nhất trong 5 năm qua; tổng dư nợ cho vay khách hàng tăng lên nhờ cho vay khách hàng doanh nghiệp [tăng 5,4% kể từ đầu năm], trong khi đó, dư nợ bán lẻ giữ nguyên, dẫn đến tỷ trọng bán lẻ từ 47,2% năm 2022 giảm xuống 46,1%.

Tại cuộc họp với các chuyên viên phân tích của các công ty chứng khoán vào ngày 19/5/2023, đại diện Vietcombank cho biết ngân hàng đã đánh đổi tăng trưởng cho vay bán lẻ để tập trung cho quản lý rủi ro, đặc biệt là các khoản vay mua nhà trong điều kiện thị trường không thuận lợi. Trong quý 1, tiền gửi của Vietcombank tăng 3,1% so với đầu năm, cao hơn mức 0,8% của ngành và tăng trưởng tín dụng của ngân hàng. Theo đó, tỷ lệ LDR thuần [cho vay/huy động] giảm từ 92,1% năm 2022 xuống 91,6% trong quý 1/2023...

Nội dung bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 23-2023 phát hành ngày 05-06-2023. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:

Chủ Đề