Tài nguyên rừng nước ta hiện nay như thế nào

Tình hình rừng của nước ta hiện nay như thế nào?

Thực trạng nạn chặt phá rừng ở Việt Nam hiện nay đang là vấn đề hết sức nghiêm trọng. Thống kê của Tổng cục Lâm nghiệp [Bộ NN&PTNT], chỉ trong hơn 5 năm từ 2012 – 2017, diện tích rừng tự nhiên đã bị mất do chặt phá rừng trái pháp luật mất chiếm 11%, 89% còn lại là do chuyển mục đích sử dụng rừng tại những dự án được duyệt.

Tính đến tháng 09/2017, diện tích rừng bị chặt phá là 155,68 ha và 5364,85 ha diện tích rừng bị cháy.

Thực tế, diện tích rừng tự nhiên ở Việt Nam đang ngày càng suy giảm nhanh với tốc độ chóng mặt. Nhất là độ che phủ rừng ở khu vực miền Trung. Độ che phủ rừng ở nước ta hiện còn chưa đến 40%, diện tích rừng nguyên sinh còn khoảng 10%.

Khu vực Tây Bắc

Nạn chặt phá rừng ở Việt Nam tâm điểm ở khu vực Tây Bắc, đặc biệt là ở tỉnh Điện Biên. Từ năm 2016 – 09/2017, ở huyện Mường Nhé có 295 vụ phá rừng trái phép, gây thiệt hạ đến 288 ha rừng.

Khu vực Tây Nguyên

Theo thống kê, trong 5 năm tính đến năm 2013, ở Tây Nguyên diện tích rừng bị mất đến hơn 130.000 ha. Bao gồm 107.400 ha rừng tự nhiên và 22.200 ha rừng trồng. Tỉnh Tây Nguyên trong 5 năm này đã cấp phép đầu tư cho hơn 700 dự án với diện tích khoảng 216.000 ha. Nhưng hầu hết những dự án này, doanh nghiệp lợi dụng khai thác rừng, chiếm phá hoặc thiếu trách nhiệm, tài chính khiến rừng bị tàn phá, lấn chiếm trái phép.

Đến đầu năm 2017, số vụ khai thác rừng trái phép được phát hiện là 757 vụ, tăng 13%. Diện tích từng bị tàn phá khoảng 420 ha, tăng 145 ha so với cùng kỳ năm 2016. Riêng tại tỉnh Đắc Nông, diện tích từng bị tàn phá lên đến 225 ha, tăng gần 100 ha so với cùng kỳ năm 2016.

Tác hại của việc phá rừng?

Chặt phá rừng là nguyên nhân gây biến đổi khí hậu, hiệu ứng nhà kính làm trái đất nóng lên; môi trường môi sinh bị ô nhiễm, lũ lụt; voi rừng bỏ rừng về làng phá họa hoa màu, tài sản, giết người…  Nạn chặt phá ừng cũng là nguyên nhân gây mất cân bằng sinh thái, bão lũ quét, sạt lở đất, dịch bệnh phát sinh.

Lũ lụt, sạt lở

Các hiện tượng thiên tai lũ lụt, sạt lở đất ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn do tình trạng rừng bị tàn phá. Theo chuyên gia lâm nghiệp Việt Nam, GS Nguyễn Ngọc Lung cho biết, từng nhiệt đới có nhiều tầng, dưới có thẩm thực vật và những tầng cây khác. Nhờ vậy mà nếu lượng mưa nhỏ thì chỉ ở trên tầng lá cây có khi không rơi xuống mặt đất. Trường hợp lượng mưa lớn, nước mưa rơi xuống đất thì đã có lớp cành lá cây mục giữ nước, thường là 80 – 90%. Sau đó ngấm xuống đất hình thành nên các mạch nước ngầm. Còn mặt đất chỉ còn 10 – 20% nước rất ít khả năng gây lũ quét, lũ ống gây hại cho con người.

Mưa lũ

Mưa bão lũ xảy ra ở nước ta ngày càng tăng; trở thành mối đe dọa nguy hại đến cuộc sống con người và nền kinh tế nước nhà. Theo báo cáo của tổ chức FAO, Việt Nam là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất từ các hiện tượng thiên tai, bão lũ.

Ngoài do biến đổi khí hậu, đặc điểm địa lý thì tình trạng mưa lũ ở nước ta trở nên nghiêm trọng, khốc liệt hơn là do nạn chặt phá rừng. Con người chặt phá rừng đầu nguồn để phục vụ sản xuất nông nghiệp, khai thác gỗ, xây dựng thủy điện, giao thông hạ tầng… Chính điều này gây ra sự suy giảm thảm thực vật ở lưu vực; khả năng cản trở dòng chảy khi mưa lũ giảm. Khi đó, tốc độ di chuyển của mưa lũ nhanh hơn

Ngoài ra còn có nguyên nhân trực tiếp của con người. Đó là: Nạn phá rừng đầu nguồn để khai thác gỗ, phát triển nông nghiệp, thủy điện… Những nguyên nhân này khiến thảm thực vật trên lưu vực ngày càng giảm dẫn đến khả năng cản dòng chảy kém; làm cho lũ tập trung nhanh hơn, gây hậu quả nặng nề hơn.

Cập nhật ngày : 21/06/2010 10:57

Năm 1943, diện tích rừng Việt Nam ước tính có khoảng 14,3 triệu ha [Maurand, 1943], vớI tỷ lệ che phủ là 43,8%; trên mức an toàn sinh thái là 33%. Năm 1976 giảm xuống còn 11 triệu ha vớI tỷ lệ che phủ còn 34%. Năm 1985 còn 9,3 triệu ha và tỷ lệ che phủ là 30%. Năm 1995 còn 8 triệu ha và tỷ lệ che phủ là 28%. Năm 1999 cả nước có 10,88 triệu ha rừng và độ che phủ là 33% [Jyrki và cộng sự, 1999]. Diện tích rừng bình quân cho 1  người  là  0,13  ha  [1995],  thấp  hơn  mức  trung  bình  ở  Đông  Nam  Á [0,42%].

Trong thời kỳ  1945 – 1975 cả nước mất khoảng 3 triệu ha rừng, bình quân 100.000 ha năm. Quá trình mất rừng diễn ra nhanh hơn ở giai đoạn 1975 – 1990: Mất 2,8 triệu ha, bình quân 140.000 ha/ năm. Nguyên nhân chính làm mất rừng trong giai đoạn này là do dân số tăng nhanh,  nạn đốt  nương  làm  rẫy  tràn  lan,  quá  trình  khai  hoang  lấy  đất  trồng  các  cây công nghiệp như cà phê, chè, cao su và khai thác gỗ xuất khẩu. Tuy nhiên từ  những  năm  1990  –  1995,  do  công  tác  trồng  rừng  được  đẩy  mạnh  đã phần nào làm cho diện tích rừng tăng lên. 

Về chất lượng, trước năm 1945 rừng nước ta có trữ lượng gỗ vào khoảng 200 – 300m3/ha, trong đó các loài gỗ quí như đinh, lim, sến, táu, nghiến, trai, gụ là rất phổ biến. Những cây gỗ có đường kính 40 – 50cm chiếm tới 40 – 50% trữ lượng của rừng. Rừng tre nứa với những cây tre có đường kính 18 – 20cm, nứa 4 – 6cm và vầu 8 – 12cm rất phổ biến [Hoàng Hòe, 1998]. Hiện nay chất lượng rừng đã giảm sút đáng kể, chỉ còn chủ yếu là rừng nghèo có giá trị kinh tế không cao. Trữ lượng gỗ rừng năm 1993  ước  tính  khoảng  525  triệu  m3  [trung  bình  76  m3/ha].  Tốc  độ  tăng trưởng trung bình của rừng Việt Nam hiện nay là 1 – 3m3/ha/năm, đối với rừng trồng có thể đạt 5 – 10 m3/ha/năm [Castren, 1999].

Ngoài tài nguyên gỗ, rừng Việt Nam cũng rất giàu có về các loài tre  nứa  [khoảng  40  loài  có  ý  nghĩa  thương  mại  và  khoảng  4  tỷ  cây  tre nứa]; Song mây có khoảng 400 loài ; hàng năm khai thác khoảng 50.000 tấn..

Trong rừng Việt Nam cũng phong phú về các loài dược liệu, hiện đã biết được 3800 loài [Viện Dược liệu, 2002], trong đó có nhiều loài đã được biết và khai thác phục vụ cho việc chế biến thuốc. Nhiều loài cây cho chất thơm, tanin, tinh dầu và dầu béo. Ngoài ra, rừng còn cung cấp nhiều loại sản phẩm quý khác như cánh kiến, nấm, mật ong, hoa lan, thịt thú rừng.

Hiện nay, có rất nhiều loài thực vật quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng cần được bảo vệ như: cẩm lai [Dalbergia bariaensis], trầm hương [Aquilaria   crassna]   sam   bông   [Amentotaya   argotenia],   thông   tre [Podocarpus   neriifolius],   gõ   đỏ   [Afzelia   xylocarpa],   trắc   [Dalbergia cochinchinensis],  giao  xẻ  tua  [Sterospermum  ferebriatum],  gạo  bông  len [Bombax insigne].

Các loài động vật quý hiếm như: báo gấm [Neophelis nebulosa], voọc quần đùi trắng [Trachipythecus francoisi delaconri], gà lôi hồng tía [Lophura  diardi],  trĩ  sao  [Rheinartia  ocellata],  chồn  bạc  má  [Megogale personata  geeoffrory],  cu  li  lớn  [Nycticebus  coucang  boddaert],  bò  tót [Bos gaurus], cà tong [Cervus eldi], hổ  [Panthera tigris].

Những nguyên nhân chính làm suy thoái rừng ở Việt Nam

Có thể nêu ra các nguyên nhân chính gây nên sự mất rừng và làm suy thoái rừng ở nước ta là:

- Đốt nương làm rẫy : sống du canh du cư; trong tổng số diện tích rừng bị mất hàng năm thì khoảng 40 – 50% là do đốt nương làm rẫy. Ở Đắc Lắc trong thời gian từ 1991 – 1996 mất trung bình 3.000 – 3.500 ha rừng/ năm, trong đó trên 1/2 diện tích rừng bị mất do làm nương rẫy. 

- Chuyển đất có rừng sang đất sản xuất các cây kinh doanh, đặc biệt là phá rừng để trồng các cây công nghiệp như cà phê ở Tây Nguyên chiếm 40 – 50% diện tích rừng bị mất trong khu vực.

- Khai thác quá mức vượt khả năng phục hồi tự nhiên của rừng.

- Do ảnh hưởng của bom đạn và các chất độc hóa học trong chiến tranh, riêng ở miền Nam đã phá hủy khoảng 2 triệu ha rừng tự nhiên.

- Do khai thác không có kế hoạch, kỹ thuật khai thác lạc hậu làm lãng phí tài nguyên rừng.

- Do cháy rừng, nhất là các rừng tràm, rừng thông, rừng khộp rụng lá.

Hương Thảo

Hay nhất

Rừng nước ta ngày càng suy giảm về diện tích và chất lượng,tỉ lệ che phủ thục vật dưới ngưỡng cho phép về mặt sinh thái, ¾ diện tích đất đai của nước ta[so với diện tích dất tự nhiên] là đồi núi, khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa nên rừng rất quan trọng trong việc cân bằng sinh thái.Đất có rừng phải được duy trì tối thiểu 50-60%, vùng đồi núi phải là 80-90%, vùng đầu nguồn sông suối phải là 100%.

Bạn có thể tham khảo thêmtại đây. Chúc bạn thành công

Trân trọng @khongtuanminh443166

Chính phủ Việt Nam coi rừng là một nguồn tài nguyên sinh thái quan trọng, có giá trị cho sự phát triển kinh tế xã hội và hạnh phúc của cộng đồng trên đất nước. Rừng đóng vai trò quan trọng trong việc thích nghi với biến đổi khí hậu thông qua những chức năng môi trường như chống xói mòn, và đảm bảo tuần hoàn nước.1 Lâm sản và lâm sản ngoài gỗ cũng là nguồn dinh dưỡng quan trọng.2 Rừng cũng có một vai trò xã hội, góp phần tạo công ăn việc làm và thu nhập.3 4Hiện nay có khoảng 25 triệu người Việt Nam có 20%-40% thu nhập hàng năm đến từ rừng.5 Vai trò của rừng cũng được thể hiện ở vùng sâu vùng xa, vùng cao nơi 10% dân cư sống bên trong hoặc gần các khu rừng [diện tích xấp xỉ 12 triệu hecta] là người nghèo hoặc người dân tộc thiểu số.6

Rừng được theo dõi qua nhiều chỉ số bao gồm độ tàn che, đất rừng, diện tích che phủ cây. Không phải tất cả các tổ chức theo dõi đều sử dụng toàn bộ các chỉ số, mỗi tổ chức có thể định nghĩa chỉ số theo cách khác nhau. Ngân hàng thế giới, thu thập dữ liệu từ Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp thế giới [FAO], sử dụng chỉ số “đất rừng” và định nghĩa như sau “Đất rừng là đất nằm dưới các cây tự nhiên hoặc cây được trồng tại chỗ có chiều cao 5m, dù có được sản xuất hay không, ngoại trừ các cây nằm trong nhóm sản xuất nông nghiệp [ví dụ cây ăn quả và hệ thống nông lâm kết hợp] và cây trong công viên đô thị hoặc trong vườn”.7 Tổ chức Global Forest Watch sử dụng chỉ số “tỷ lệ che phủ cây” và định nghĩa nó là “sự hiện diện sinh lý của cây và có thể ở dạng rừng tự nhiên hoặc rừng trồng tồn tại trên một loạt mật độ tán”.8 Chính phủ Việt Nam, thay vào đó, sử dụng khái niệm tỷ lệ che phủ rừng, được định nghĩa là phần trăm đất rừng hiện tại so với đất tự nhiên trên toàn quốc, trên một lãnh thổ hoặc một địa phương tại một thời điểm nhất định.9 Sự khác biệt về định nghĩa ảnh hưởng quan trọng tới cách giải thích dữ liệu, cũng như phân tích đóng góp của rừng trong việc giảm thiểu tác động của  biến đổi khí hậu vì các dịch vụ hệ sinh thái cho rừng tự nhiên khác với dịch vụ hệ sinh thái cho rừng trồng lại.

Theo FAO, Việt Nam từng là nước có tỷ lệ đất rừng và trữ lượng gỗ bình quân đầu người thấp nhất trên toàn cầu.10 Trong giai đoạn 1943-1995, Việt Nam ghi nhận tỷ lệ che phủ rừng giảm từ 43% xuống còn chỉ 27,2%11 Từ năm 2001 đến 2017, Global Forest Watch [GFW] thống kê  10 vùng trên cả nước chịu trách nhiệm cho 29% diện tích rừng đã mất, bao gồm rừng tự nhiên và rừng trồng lại, trong đó tỉnh Bình Dương là tỉnh có tỷ lệ che phủ cây tương đối giảm nhiều nhất, ở mức 59% so với tỷ lệ bình quân cả nước là 13%.12 GFW cũng ghi nhận trong thời gian từ 2001 đến 2012, Việt Nam cũng đã tăng diện tích che phủ cây lên 564.000 ha tương đương 0,7% trên toàn cầu.13 Nếu áp dụng định nghĩa từ Ngân hàng thế giới, diện tích rừng năm 2016 chiếm 47,6% tổng diện tích đất toàn Việt Nam,14 trong đó bao gồm 10 triệu ha rừng tự nhiên từ năm 2006, chiếm 70% tổng diện tích rừng trên cả nước [Bảng 1].

Biểu đồ 1. Chỉ số phát triển rừng tại Việt Nam 2005-2017 [đơn vị %]

Nguồn: Trung tâm Tư liệu và Dịch vụ Thống kê, Tổng cục Thống kê 

Trong thập kỷ qua, Việt Nam đã ghi nhậnnhững nỗ lực đáng kể trong việc quản lý và bảo vệ rừng. Theo định nghĩa chính thức của Việt Nam, tổng diện tích rừng là 14.377,7 ngàn ha,15 trong đó diện tích rừng tự nhiên là 10.242,1 ngàn ha và diện tích rừng trồng lại là 4,135 ngàn ha. Diện tích rừng bị tàn phá giảm 70% trong giai đoạn 2011-2015 so với giai đoạn 2005-2010.16 Nhờ đó tỷ lệ che phủ rừng đã đạt mức 41,2% vào năm 201617 và gần bằng tỷ lệ của năm 1943. Việt Nam hiện là nước duy nhất trong khu vực sông Mekong đã và đang báo cáo tăng trưởng liên tục trong độ tàn che trong ba thập kỷ vừa qua18 Chính phủ Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 ổn định đất rừng tự nhiên ở mức tương đương với diện tích đạt được ở năm 2020 và tăng tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc lên 45%.19

Bảng 1: Hiện trạng rừng [Đơn vị: Nghìn Ha]

NămTổng diện tích đất rừng Rừng tự nhiên Rừng trồng
2005
12.418,59.529,42.889,1
200612.663,910.177,72.486,2
2007 12.739,310.188,22.551,1
2008 13.118,710.348,6 2.770,1
2009
13.258,810.339,32.919,5
2010
13.388,1 10.304,8 3.083,3
2011
13.515,1 10.285,4 3.229,7
201213.86210.423,83.438,2
201313.954,4 10.398,1 3.556,3
201413.796,5 10.100,2 3.693,3
201514.061,9 10.175,5 3.886,3
201614.377,7 10.242,1 4.135,6

Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2005-201720

Những chuyển biến này cũng xảy ra đồng thời với thực tế sản xuất lâm nghiệp tăng gấp đôi từ 3,4% năm 2011 lên 7,5% năm 2015.21 Tuy nhiên, sự chuyển dịch theo vùng cho thấy một câu chuyện khác. Ở khu vực Tây Nguyên, nơi tập trung các cộng đồng người dân tộc thiểu số có sinh kế phụ thuộc vào rừng, diện tích rừng giảm 312.416 ha, độ tàn che giảm 5,8% và trữ lượng rừng giảm 25,5 triệu m3, tương đương gần 8% tổng dự trữ rừng quốc gia.22 

Nguyên nhân của sự sụt giảm diện tích rừng bao gồm:

  • khai thác quá mức [50%];
  • chuyển đổi rừng và đất rừng thành đất sản xuất nông nghiệp [20%];
  • du mục và đói nghèo [20%]; và
  • cháy rừng, thiên tai và hiểm họa [10%].

Rất nhiều hoạt động nói trên có liên hệ với sinh kế, vì vậy kêu gọi sự tham gia từ những người dân mà sinh kế của họ phụ thuộc vào rừng, ví dụ như người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, có thể giúp giảm áp lực lên rừng.23

Biểu đồ 2. Diện tích rừng bị cháy năm 2016  [đơn vị: nghìn ha]

Nguồn: Trung tâm Tư liệu và Dịch vụ Thống kê, Tổng cục Thống kê 

Việc xác định và phân loại rừng được quy định bởi Chính phủ và được thực hiện trong các hoạt động quản lý nguồn tài nguyên rừng như dự trữ, giám sát và lên kế hoạch trồng rừng. Theo Thông tư số 34/2009 / TT-BNNPTNT của bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn24 về tiêu chí xác định và phân loại rừng, có 6 tiêu chí sau:

Phân loại rừng / Thuật ngữĐịnh nghĩa
1. Theo mục đích sử dụng
Rừng phòng hộLà rừng được sử dụng chủ yếu để bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất, chống xói mòn, chống sa mạc hoá, hạn chế thiên tai, điều hoà khí hậu và bảo vệ môi trường.
Rừng đặc dụng [SUF]Là rừng được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái của quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng; nghiên cứu khoa học; bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh; phục vụ nghỉ ngơi, du lịch, kết hợp phòng hộ bảo vệ môi trường.
Rừng sản xuấtLà rừng được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh gỗ, các lâm sản ngoài gỗ và kết hợp phòng hộ, bảo vệ môi trường.
2. Phân loại rừng theo nguồn gốc hình thành
Rừng tự nhiênLà rừng có sẵn trong tự nhiên hoặc phục hồi bằng tái sinh tự nhiên.
a] Rừng nguyên sinh: là rừng chưa hoặc ít bị tác động bởi con người, thiên tai; Cấu trúc của rừng còn tương đối ổn định.
b] Rừng thứ sinh: là rừng đã bị tác động bởi con người hoặc thiên tai tới mức làm cấu trúc rừng bị thay đổi.
- Rừng phục hồi: là rừng được hình thành bằng tái sinh tự nhiên trên đất đã mất rừng do nương rẫy, cháy rừng hoặc khai thác kiệt;
- Rừng sau khai thác: là rừng đã qua khai thác gỗ hoặc các loại lâm sản khác.
Rừng trồngLà rừng được hình thành do con người trồng, bao gồm:
a] Rừng trồng mới trên đất chưa có rừng;
b] Rừng trồng lại sau khi khai thác rừng trồng đã có;
c] Rừng tái sinh tự nhiên từ rừng trồng đã khai thác.
Theo thời gian sinh trưởng, rừng trồng được phân theo cấp tuổi, tùy từng loại cây trồng, khoảng thời gian quy định cho mỗi cấp tuổi khác nhau.
3. Phân loại rừng theo điều kiện lập địa
Rừng núi đấtlà rừng phát triển trên các đồi, núi đất.
Rừng núi đálà rừng phát triển trên núi đá, hoặc trên những diện tích đá lộ đầu không có hoặc có rất ít đất trên bề mặt.
Rừng ngập nướclà rừng phát triển trên các diện tích thường xuyên ngập nước hoặc định kỳ ngập nước.
a] Rừng ngập mặn: là rừng phát triển ven bờ biển và các cửa sông lớn có nước triều mặn ngập thường xuyên hoặc định kỳ.
b] Rừng trên đất phèn: là rừng phát triển  trên đất phèn, đặc trưng là rừng Tràm ở Nam Bộ.
c] Rừng ngập nước ngọt: là rừng phát triển ở nơi có nước ngọt ngập thường xuyên hoặc định kỳ.
Rừng trên đất cátlà rừng trên các cồn cát, bãi cát.
4. Phân loại rừng theo loài cây
Rừng gỗlà rừng bao gồm chủ yếu các loài cây thân gỗ.
a] Rừng cây lá rộng: là rừng có cây lá rộng chiếm trên 75% số cây.
- Rừng lá rộng thường xanh: là rừng xanh quanh năm;
- Rừng lá rộng rụng lá: là rừng có các loài cây rụng lá toàn bộ theo mùa chiếm 75% số cây trở lên;
- Rừng lá rộng nửa rụng lá: là rừng có các loài cây thường xanh và cây rụng lá theo mùa với tỷ lệ hỗn giao theo số cây mỗi loại từ 25% đến 75%.
b] Rừng cây lá kim: là rừng có cây lá kim chiếm trên 75% số cây.
c] Rừng hỗn giao cây lá rộng và cây lá kim: là rừng có tỷ lệ hỗn giao theo số cây của mỗi loại từ 25% đến 75%.
Rừng tre nứalà rừng chủ yếu gồm các loài cây thuộc họ tre nứa như: tre, mai, diễn, nứa, luồng, vầu, lô ô, le, mạy san, hóp, lùng, bương, giang, v.v…
Rừng cau dừalà rừng có thành phần chính là các loại cau dừa.
Rừng hỗn giao gỗ và tre nứaa] Rừng hỗn giao gỗ - tre nứa: là rừng có cây gỗ chiếm > 50% độ tàn che;
b] Rừng hỗn giao tre nứa - gỗ: là rừng có cây tre nứa chiếm > 50% độ tàn che…
5. Phân loại rừng theo trữ lượng
Đối với rừng gỗa] Rừng rất giàu: trữ lượng cây đứng trên 300 m 3 /ha;
b] Rừng giàu: trữ lượng cây đứng từ 201- 300 m 3 /ha;
c] Rừng trung bình: trữ lượng cây đứng từ 101 - 200 m 3 /ha;
d] Rừng nghèo: trữ lượng cây đứng từ 10 đến 100 m 3 /ha;
đ] Rừng chưa có trữ lượng: rừng gỗ đường kính bình quân < 8 cm, trữ lượng cây đứng dưới 10 m 3 /ha.
Đối với rừng tre nứa:Rừng được phân theo loài cây, cấp đường kính và cấp mật độ
6. Đất chưa có rừng
Đất có rừng trồng chưa thành rừnglà đất đã trồng rừng nhưng cây trồng có chiều cao trung bình chưa đạt 1,5 m đối với các loài cây sinh trưởng chậm hay 3,0 m đối với các loài cây sinh trưởng nhanh và mật độ < 1.000 cây/ha.
Đất trống có cây gỗ tái sinhlà đất chưa có rừng quy hoạch cho mục đích lâm nghiệp, thực vật che phủ gồm cây bụi, trảng cỏ, lau lách và cây gỗ tái sinh có chiều cao 0,5 m trở lên đạt tối thiểu 500 cây/ha.
Đất trống không có cây gỗ tái sinhlà đất chưa có rừng quy hoạch cho mục đích lâm nghiệp gồm đất trống trọc, đất có cây bụi, trảng cỏ, lau lách, chuối rừng, chít, chè vè v.v…
Núi đá không câylà núi đá trọc hoặc núi đá có cây nhưng chưa đạt tiêu chuẩn thành rừng.

Nguồn: Thông tư 34/2009 / TT-BNNPTNT 

Biểu đồ 3.  Diện tích rừng trồng mới tại Việt Nam 2005 – 2017 [đơn vị: nghìn ha]

Nguồn: Trung tâm Tư liệu và Dịch vụ Thống kê, Tổng cục Thống kê 

Có hai văn bản luật quan trọng trong ngành lâm nghiệp:

– Luật Bảo vệ và Phát triển rừng ban hành lần đầu năm 1991 và được sửa đổi năm 2004 và 2016; và

– Luật Lâm nghiệp 2017 sẽ có hiệu lực từ 1/1/2019

Sự phân quyền

Vào cuối những năm 1980, khi Chính phủ Việt Nam quyết định chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế theo định hướng thị trường, một số cải cách lớn đã diễn ra. Một trong số đó là Luật Bảo vệ và Phát triển rừng được thông qua năm 1991 sau 2 năm rà soát từ 1989-1991, thay đổi việc coi ngành lâm nghiệp từ một ngành yếu, từ một ngành do nhà nước kiểm soát thành ngành do cộng đồng quản lý.25 Luật này được sửa đổi năm 2004 và 2016, đưa vào một số yếu tố phát triển rừng bền vững đã được quyết định trong quá trình rà soát luật.26

Kể từ đó, ngành lâm nghiệp đã và đang khuyến khích sự tham gia từ các cá nhân, theo đó rừng được bàn giao cho người dùng [bao gồm tổ chức và cá nhân], và khuyến khích sự tham gia của khối tư nhân trong việc bảo vệ rừng và sản xuất lâm nghiệp. Chính sách về phân quyền quản lý đến cấp cơ sở cũng đã và đang được triển khai.27 Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, diện tích rừng thuộc quản lý nhà nước giảm từ 80,1% năm 2001 xuống 45,2% năm 2015, trong khi đó nhóm tư nhân có sự tăng tương ứng từ 19.9% lên 54.8%. Các hộ gia đình và cá nhân đã được bàn giao 3.146 triệu ha.28 Tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề. Việc thay đổi và tái cấu trúc tổ chức còn chậm, các công ty lâm nghiệp còn chưa tự lực, nguồn lực tài chính không ổn định và người sở hữu rừng chưa có động lực để bảo vệ rừng.29 

Từ năm 1990 đến nay, Việt Nam đã và đang hỗ trợ các tổ chức quốc tế đầu tư vào các chương trình và dự án, trong đó:

  • Chương trình 327 [1993-1998] và Chương trình trồng mới 5 triệu héc-ta rừng [1998-2010] 30 
  • Dự án phát triển rừng của Ngân hàng thế giới [2004-2011]31  ; và
  • Dự án Hiện đại hóa ngành Lâm nghiệp và Tăng cường khả năng chống chịu cho vùng ven biển [đang được thực hiện kể từ năm 2017] 32

Việt Nam cũng đã có những dự án cải thiện độ tàn che và chất lượng cũng như tăng giá trị kinh tế của các sản phẩm gỗ và góp phần đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu ra thị trường quốc tế, được tài trợ bởi đối tác phát triển Nhật Bản, Hà Lan, Phần Lan và Đức.33

Lâm nghiệp là một trong những lĩnh vực đầu tiên về tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam được ban hành chính sách bảo vệ và phát triển.34 Một số cơ chế và chính sách đáng chú ý gần đây bao gồm:

– Nghị định 05/2008/NĐ-CP về việc thành lập Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng;35 

– Nghị định 99/2010/NĐ-CP về chi trả dịch vụ môi trường rừng;36

– Nghị định 75/2015 / ND-CP về cơ chế, chính sách bảo vệ và phát triển rừng; và

– Chính sách giảm nghèo nhanh và bền vững và hỗ trợ dân tộc thiểu số giai đoạn 2015-2020.37

Ngoài ra, chính phủ cũng đã phê duyệt Đề án Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng 2016-202038  để đáp ứng các yêu cầu của thị trường trong nước và quốc tế đối với sản phẩm từ gỗ có nguồn gốc hợp pháp và gia tăng giá trị kinh tế của các sản phẩm gỗ.39

Nhìn chung, việc cải thiện chính sách đã giúp cải thiện pháp luật về rừng. Các chính sách ngày nay đã toàn diện hơn, quản lý nhà nước bằng luật pháp đã có tiến triển và nhận thức xã hội về rừng được cải thiện.40 Rừng đã được cải thiện cả về chất và lượng trong những năm qua, doanh thu ngành lâm nghiệp đã đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế. Cộng đồng đã và đang được hưởng lợi từ sự tăng trưởng này thông qua việc cải thiện hỗ trợ tài chính và tạo thêm công ăn việc làm.41

Tuy nhiên không phải tất cả mục tiêu phát triển, bảo vệ và quản lý rừng bền vững đều đạt được thành tựu như kế hoạch. Một số chương trình và dự án quốc gia đã và đang được triển khai kém và chậm. Ví dụ, Việt Nam vẫn chưa ban hành các nguyên tắc, tiêu chí và thủ tục quản lý rừng bền vững. Các cơ quan triển khai thiếu hụt về nhân lực cũng như kiến thức chuyên môn để triển khai các chính sách. Các chính sách sở hữu và sử dụng đất lâm nghiệp chưa đầy đủ.42 

Việc triển khai cũng bị hạn chế do việc thực thi luật trong ngành được cho là còn yếu; các văn bản luật và quy định không được tuân thủ nghiêm ngặt; các chế tài chưa đủ sức răn đe. Việc giám sát của nhà nước còn mang tính chiếu lệ và thủ tục, tạo cơ hội cho tham nhũng.43 Ngoài ra, vai trò của các bên liên quan tại địa phương thường bị coi nhẹ.44

Trong năm 2016, với sự giúp đỡ của chính phủ Phần Lan, hệ thống chia sẻ dữ liệu lâm nghiệp trực tuyến Việt Nam đã được khởi động để công bố dữ liệu ngành. Người dùng có thể tiếp cận các thông tin mới nhất về nguồn tài nguyên rừng. Dữ liệu về phát triển rừng và dữ liệu dự trữ rừng quốc gia [không gian và thuộc tính] từ năm 1990 đến 2016 đã có sẵn và chi tiết tới đơn vị rừng. Hệ thống này được định hướng sẽ giúp Việt Nam thực thi Luật Lâm nghiệp 2017 cũng như lên kế hoạch cho việc quản lý bền vững rừng và phấn đấu đạt mục tiêu xuất khẩu sản phẩm gỗ trong những năm tới. Tuy nhiên sau hai năm triển khai, hệ thống này mới có khá ít dữ liệu.

Trong thời gian tới Việt Nam cần kiểm soát việc chuyển đổi đất lâm nghiệp sang mục đích sử dụng khác, nâng cao nhận thức xã hội về đầu tư lâm nghiệp, và phân bổ rừng cho thuê tới các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân.45 Các cơ chế, chính sách và luật phát cần được hoàn thiện chẳng hạn như sửa đổi và bổ sung Luật Lâm nghiệp song song với các luật khác như Hiến pháp và Luật Đất đai.46 Hệ thống quản lý từ trung ương đến địa phương cần được đổi mới, tập trung và việc tăng cường vai trò, trách nhiệm và điều kiện làm việc cho đội ngũ kiểm lâm xã.47

Video liên quan

Chủ Đề