Tại sao dầu mỏ là vàng đen của thế giới

Xem ngay: Các Sàn giao dịch vàng Thế Giới uy tín hợp tại Việt Nam 2022

Dầu mỏ là một loại chất lỏng có màu đen. Bởi vì đây là một loại nhiên liệu quý hiếm không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi người nên người ta thường gọi với cái tên là vàng đen. Để tìm hiểu rõ hơn vàng đen là gì và tại sao mỏ dầu lại gọi là vàng đen của thế giới, hãy cùng tham khảo bài viết dưới đây của giavangol.vn.

Vàng đen là gì?

Vàng đen hay còn gọi là dầu mỏ, là một loại chất lỏng sánh đặc có màu đen, màu nâu hoặc đen ngã sang màu lục. Thành phần chính của vàng đen là các Hydrocacbon ở dạng khí, lỏng và rắn. Từ dầu thô, người ta có thể chưng cất theo từng phân đoạn, từng áp suất riêng. Từ đó tạo ra các loại thành phẩm khác nhau.

Các thành phẩm từ vàng đen

Từ vàng đen, người ta có thể tạo ra rất nhiều loại nhiên liệu phục vụ cho đời sống sinh hoạt hằng ngày như:

  • Xăng dùng làm nhiên liệu cho máy bay: 60°C – 100°C
  • Xăng Ete: 40°C – 70°C
  • Xăng dùng làm nhiên liệu cho ô tô: 100°C – 150°C
  • Dầu hỏa để làm nhiên liệu và dung môi sử dụng trong gia đình: 120°C-150°C
  • Dầu hỏa dùng làm nhiên liệu thông dụng: 150°C-300°C
  • Dầu Diezen: 250°C – 350°C
  • Dầu bôi trơn động cơ: Từ 300°C trở lên
  • Dầu hắc,…

Tại sao mỏ dầu được gọi là vàng đen của thế giới

Đầu tiên chung ta có thể thấy dầu mỏ là một loại nhiên liệu quý hiếm phục vụ đời sống sinh hoạt của người dân trên toàn thế giới.

Một ví dụ đơn giản về sự cần thiết của dầu mỏ hiện nay: Một chiếc xe máy cần phải có xăng để khởi động. Mà xăng được làm ra từ dầu mỏ hay nói đơn giản hơn là không có dầu mỏ sẽ không có xăng. Hoặc có thể thấy nếu không có dầu mỏ sẽ không có những tuyến đường quốc lộ để đi như hiện nay. Không có dầu mỏ sẽ không thể khởi động được các máy móc, từ đó hoạt động sản xuất bị trì trệ, nền kinh tế đi xuống. Nói đến đây ắt hẳn mọi người có thể hình dung được dầu mỏ quan trọng như thế nào trong cuộc sống rồi đúng không.

Vàng là một trong những kim loại rất quý hiếm và có giá trị cao. Người ta ví các mỏ dầu là vàng đen của thế giới bởi vì có mỏ dầu thì mới có dầu mỏ, dầu mỏ thực sự quan trọng và quý hiếm. Đây được xem là một loại nhiên liệu thiết yếu trong tự nhiên, là sự khởi đầu của các loại động cơ và thiết bị, máy móc. Mỏ dầu là nguồn cung cấp nhiên liệu vô tận cho tất cả các quốc gia trên thế giới.

Tại sao mỏ dầu được gọi là vàng đen của thế giới?

Mặc dù là nguồn cung cấp nhiên liệu vô tận nhưng nếu khai thác quá mức thì các mỏ dầu cũng sẽ đến lúc phải cạn kiệt và khan hiếm. Bạn có thể dễ dàng hình dung nếu lượng dầu tại các mỏ ngày càng khan hiếm thì điều gì sẽ xảy ra. Lượng cung yếu đi mà cầu không thay đổi thì chắc chắn giá nhiên liệu sẽ tăng vọt, khối lượng các sản phẩm từ dầu thô trên thị trường ngày càng ít. Chính vì vậy mọi người có thể thấy loại dầu này là một thứ nhiên liệu rất đắt và có giá trị được ví như vàng.

Ngoài ra, trước đây dầu mỏ còn được sử dụng để làm nguyên liệu chiếu sáng khi chưa có điện hoặc sử dụng vào những ngày mất điện. Dầu mỏ còn được sử dụng làm thuốc chưa bệnh ngoài da. Có thể thấy từ dầu mỏ có thể chế biến và chưng cất để tạo ra rất nhiều loại nhiên liệu khác phục vụ cho nhu cầu đời sống của người dân.

Với những lí do trên nên các mỏ dầu được ví là vàng đen của thế giới.

Thực trạng khai thác vàng đen tại Việt Nam

Các mỏ dầu ở nước ta được đưa vào khai thác khá sớm, từ năm 1986. Trải qua thời gian khai thác lâu dài, phần lớn các mỏ đang ở giai đoạn khai thác cuối đời mỏ, độ ngập nước cao và có xu hướng cạn kiệt dầu.

Trong những năm gần đây, hoạt động tìm kiếm, thăm dò, gia tăng trữ lượng giảm đi rất nhiều so với những giai đoạn trước. Nguồn bổ sung vào khai thác hằng năm cũng hạn chế. Do vậy nên sản lượng dầu mỏ khai thác hằng năm cũng suy giảm.

Sản lượng khai thác liên tục giảm qua các năm, cụ thể:

NămSản lượng dầu
201516,9 triệu tấn
201615,2 triệu tấn
201713,4 triệu tấn
201812 triệu tấn
201911 triệu tấn
20209,7 triệu tấn
2021Ước tính 8,48 triệu tấn
Sản lượng dầu khai thác tại Việt Nam qua các năm

Trước tình hình sản lượng dầu ngày càng suy giảm, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và các nhà thầu dầu khí hằng năm tìm giải pháp khoan bổ sung các giếng khoan đan dày. Nhưng số lượng giếng khoan đan dày rất hạn chế và sản lượng tại các giếng không cao, chỉ đóng góp khoảng 10% sản lượng chung của các mỏ.

Bên cạnh đó, việc sửa chữa, can thiệp giếng, nâng cao và tối ưu hệ số sử dụng thiết bị được đẩy mạnh với hi vọng có thể khai thác thêm một lượng dầu từ các giếng đang khai thác, tuy nhiên cũng chỉ đóng góp được khoảng 2% sản lượng của toàn mỏ.

Ngoài ra, các mỏ dầu nằm ngoài biển khai thác rất khó khăn và bao gồm rất nhiều rủi ro như rủi ro về địa chất, rủi ro về điều kiện thời tiết, rủi ro về thiết bị máy móc khi hoạt động trong nước,… dẫn đến sản lượng khai thác thực tế giảm dần đi và ít hơn so với kế hoạch đã đề ra.

Vàng đen được khai thác như thế nào?

Như chúng tôi đã nhắc đến ở trên, vàng đen nằm trong các giếng dầu. Do vậy nếu muốn khai thác được vàng đen, đầu tiên người ta cần phải thăm dò, tìm kiếm và khoan các lỗ sâu dưới lòng đất để tìm các giếng dầu.

Khai thác vàng đen như thế nào?

Để tìm được các giếng dầu ở sâu trong lòng đất, người ta phải đầu tư các thiết bị máy móc hiện đại và bỏ ra rất nhiều chi phí. Người ta thường khoan mãi cho đến khi tiếp cận được lớp chất lỏng, vì khi tiếp cận được thì áp suất cao và lượng dầu nằm bên dưới lớp chất lỏng sẽ tự động phun lên.

Một khi lượng dầu giảm thì áp suất dưới lòng đất cũng sẽ giảm, lúc này người ta chỉ cần đặ một máy bơm và hút dầu lên. Sau khi hút lên, dầu thô được đưa về để sàng lọc, chưng cất theo các điều kiện nhiệt độ khác nhau để tạo ra các loại thành phẩm phục vụ cho đời sống sinh hoạt.

Tại các quốc gia lớn như Mỹ, Nga hay khu vực Trung Đông, thông thường các giếng dầu không nằm sâu trong lòng đất như nước ta. Tại các nước này, các giếng dầu trường nằm trên đất liền và không nằm sâu trong lòng đất. Do vậy hệ thống máy móc cũng không cần quá nhiều và chi phí nhân công bỏ ra cũng thấp hơn so với các nước có giếng dầu nằm sâu.

Ngoài ra, tại một số quốc gia, một số mỏ dầu quý hiếm lại nằm ở biển, đại dương. Muốn khai thác dầu ở đây, người ta phải đặt giàn khoan để tìm kiếm và thăm dò. Hoạt động này gây ra rất nhiều chi phí và địa hình khai thác vô cùng khó khăn. Tuy nhiên lượng dầu khia thác từ những mỏ nằm sâu dưới đại dương là rất lớn.

Trên đây là tất cả thông tin giải thích cho câu hỏi vàng đen là gì? Tại sao mỏ dầu được gọi là vàng đen của thế giới? Hi vọng với những thông tin chúng tôi đã phân tích ở trên, bạn sẽ hiểu rõ hơn về vàng đen cũng như quy trình khai thác các mỏ dầu.  

Trang Chủ Diễn Đàn > D - THƯ GIÃN & GIẢI TRÍ > Kiến Thức Hay > Cuộc Sống >

Nhà máy lọc dầu ở Feyzin [Pháp] trong nhóm 20 nhà máy phát CO2 nhiều nhất nước Pháp - Ảnh: actu.fr

Từ năm 1979 - 1981 trong chiến tranh Iran - Iraq, giá dầu thô nhập khẩu vào Mỹ tăng gấp đôi. Lúc bấy giờ, Mỹ đã áp dụng một số biện pháp điều chỉnh đơn giản như bán xăng dầu theo tiêu chuẩn tiết kiệm, yêu cầu giảm tốc độ xe, sử dụng nhiều than đá hơn trong các nhà máy điện, tăng ngân sách chi nghiên cứu các nguồn năng lượng tái tạo. Trong 5 năm sau năm 1979, mức tiêu thụ dầu thô ở Mỹ đã giảm gần 20%.

Trữ lượng dầu mỏ thực sự là bao nhiêu vẫn còn là con số hết sức mơ hồ bởi lẽ không có cơ quan quốc tế độc lập nào kiểm tra.

Trang web VIE-PUBLIQUE

Năm 2030 sẽ hết dầu mỏ?

GS kinh tế ứng dụng Christopher Knittel - giám đốc Trung tâm Nghiên cứu chính sách năng lượng và môi trường tại Viện Công nghệ Massachusetts [Mỹ] - nhận xét ví dụ nêu trên cho thấy hệ thống năng lượng có thể thay đổi nhanh chóng theo yêu cầu an ninh quốc gia. Từ đầu thế kỷ 20, nhu cầu dầu thô đã tăng gấp bội. Đến nay nguy cơ thiếu dầu mỏ chắc chắn sẽ xảy ra.

Nhiên liệu hóa thạch gồm than đá, dầu mỏ và khí tự nhiên được tạo thành từ thực vật và sinh vật chôn vùi trong lòng đất nhiều triệu năm, đồng nghĩa nguồn nhiên liệu này là hữu hạn và không thể tái tạo. 

Các chuyên gia Tập đoàn dầu khí British Petroleum [Anh] ước tính trữ lượng dầu đã chứng minh [trữ lượng có xác suất thu hồi cao từ 90%] trên thế giới đạt hơn 200 tỉ tấn dầu quy đổi [TOE] vào năm 2018 và trữ lượng này có thể đáp ứng 50,2 năm tiêu thụ dầu với mức tiêu thụ bằng năm 2017. 

Cơ quan Năng lượng quốc tế [IEA] xác nhận số liệu này chưa tính đến trữ lượng dầu cát [dầu lẫn trong cát] của Canada, trữ lượng Venezuela và trữ lượng các mỏ khó tính toán. Như vậy trữ lượng dầu mỏ thực tế có thể sẽ lớn hơn.

Tuy nhiên, trữ lượng dầu mỏ thực sự là bao nhiêu vẫn còn là con số hết sức mơ hồ bởi lẽ không có cơ quan quốc tế độc lập nào kiểm tra số liệu. Mỗi nhà sản xuất dầu thô đều tự do công bố trữ lượng ước tính, vì vậy có khi "mẹ hát con khen hay". Ví dụ trữ lượng dầu của các nước Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ [OPEC] do chính các nước thành viên đánh giá chứ thực tế bao nhiêu không ai biết.

Trang web Vie-publique của Cục Thông tin pháp lý và hành chính Pháp [DILA] nhận định trữ lượng dầu hiện thời còn ít. Thị phần dầu mỏ với giá khai thác không đắt [như ở Trung Đông] ngày càng giảm dần. Từ năm 2010, IEA đã khẳng định các loại dầu thông thường đã đạt đến mức đỉnh khai thác. Bộ Năng lượng Mỹ dự báo đến năm 2030 sẽ đạt đỉnh sản lượng [đỉnh đánh dấu thời điểm sản lượng dầu mỏ bắt đầu giảm].

Báo cáo Triển vọng năng lượng thế giới [WEO] năm 2019 của IEA ghi nhận các vụ phát hiện mỏ dầu thông thường ngày càng hiếm. Báo cáo có đoạn: "Trong ba năm qua, số lượng trung bình các dự án mới sản xuất dầu thông thường được phê duyệt chỉ chiếm 50% khối lượng cần thiết để cân bằng thị trường tính đến năm 2025... 

Chúng tôi đã dự báo nguồn cung dầu đá phiến của Mỹ phải tăng gấp đôi vào năm 2025 nhưng thật ra phải tăng gấp ba lần mói đủ bù đắp cho việc tiếp tục thiếu hụt các dự án mới khai thác dầu thông thường".

Hiện nay, trữ lượng khai thác dầu thông thường sụt giảm được bù đắp bằng cách khai thác các loại dầu phi truyền thống như dầu cát ở Canada và dầu đá phiến ở Mỹ. Mỹ đã trở thành quốc gia sản xuất dầu lớn nhất thế giới với sản lượng gần 11 triệu thùng/ngày, vượt trên Saudi Arabia và Nga. 

Về dầu đá phiến ở Mỹ, quá trình khai thác sẽ còn kéo dài vì tiềm năng có vẻ lớn. IEA dự báo sản lượng dầu đá phiến Mỹ sẽ đạt 17 triệu thùng/ngày vào năm 2025. Song điều đáng lo ngại là phần lớn các công ty khai thác dầu đá phiến làm ăn thua lỗ do chi phí khai thác dầu cao hơn nhiều so với khai thác dầu thông thường. Bởi vậy dầu đá phiến chỉ có thể được bơm vào thị trường trong giai đoạn ngắn hạn để chữa cháy.

Điện gió nổi ngoài khơi Viana do Castelo [Bồ Đào Nha] - Ảnh: EDP

Tương lai năng lượng tái tạo rất phập phù

Dầu mỏ cần cho hoạt động kinh tế nhưng cũng là nguồn phát khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Muốn giảm phát thải khí nhà kính xuống 45% vào năm 2030, quá trình sử dụng dầu mỏ [hiện chiếm 32% các nguồn năng lượng] phải giảm dần theo hướng chuyển đổi sang các nguồn năng lượng phát CO2 thấp. 

Nhiên liệu hóa thạch phi truyền thống như dầu cát hay dầu đá phiến cũng tác động xấu đến khí hậu không khác gì nhiên liệu hóa thạch thông thường. Do đó về lâu dài, giải pháp lý tưởng nhất là sử dụng năng lượng tái tạo.

Có năm nguồn năng lượng tái tạo chính gồm thủy lực, gió, mặt trời, sinh khối và địa nhiệt. Các nguồn này được phân bổ như sau: sinh khối truyền thống [6,9%]; các loại năng lượng tái tạo nhiệt từ mặt trời, sinh khối, địa nhiệt [4,2%]; thủy điện [3,6%]; các loại năng lượng tái tạo điện từ mặt trời, gió, địa nhiệt, sinh khối, khí sinh học [2,1%]; nhiên liệu sinh học [1%]. Tổng cộng các loại năng lượng tái tạo này chỉ đạt 17,8% tổng sản lượng năng lượng trong khi phải đạt 50% mới đúng mức.

Trang web LeLynx [Pháp] ghi nhận từ năm 2019, hầu hết các quốc gia đều đặt ra mục tiêu phát triển năng lượng tái tạo, trong đó 166 quốc gia muốn phát triển năng lượng tái tạo điện và 46 quốc gia muốn sử dụng năng lượng tái tạo cho các phương tiện giao thông. 

Mỗi năm có 280 tỉ USD được đầu tư vào điện tái tạo và năng lượng sinh học. Con số này đã giảm từ đại dịch COVID-19. Năm 2020, tỉ lệ lắp đặt mới cho năng lượng mặt trời giảm 18% và cho năng lượng gió giảm 12% so với năm trước. Nhiều dự án về năng lượng tái tạo bị đình chỉ hoặc chậm trễ thi công như ở Trung Quốc. Báo cáo về năng lượng New Energy Outlook của Bloomberg dự báo năng lượng tái tạo sẽ đạt mức 64% vào năm 2050 trong khi đúng ra phải đạt được 95% thị phần.

Tạp chí Scientific American [Mỹ] nhận định ngày càng nhiều quốc gia và doanh nghiệp cam kết loại bỏ dần nhiên liệu hóa thạch, thế nhưng nhu cầu than đá và dầu mỏ cứ tăng. Chính vì các xu hướng mâu thuẫn như vậy nên rất khó dự báo các nguồn năng lượng trong tương lai. Chiến sự Nga - Ukraine càng làm cho dự báo thêm phần phức tạp.

GS Nikos Tsafos tại Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế [CSIS] nhận xét chiến sự Nga - Ukraine có thể đẩy nhanh quá trình châu Âu thoát khỏi "vòng kim cô" nhiên liệu hóa thạch [châu Âu nhập khẩu 27% dầu và 41% khí đốt từ Nga]. Thủ tướng Đức Olaf Scholz tuyên bố Đức sẽ đẩy nhanh lộ trình đến năm 2035 sản xuất hầu hết điện năng từ năng lượng tái tạo. Song nhiều chuyên gia lưu ý có rất ít bằng chứng cho thấy thế giới sẽ tận dụng chiến sự Nga - Ukraine để từ bỏ nhiên liệu hóa thạch.

GS Amy Myers Jaffe - giám đốc phòng thí nghiệm chính sách khí hậu tại Đại học Tufts [Mỹ] - nhận xét muốn cải tổ các nguồn năng lượng, châu Âu sẽ mất nhiều thời gian chứ đâu phải nay mai là có được. Xem ra niềm hy vọng vào năng lượng tái tạo còn rất lâu mới có thể trở thành hiện thực!

10 giải pháp đơn giản trước mắt

Ngày 18-3, IEA đã công bố 10 biện pháp nhằm giảm nhanh 2,7 triệu thùng dầu thô/ngày trong bốn tháng.

1. Giảm tốc độ tối đa trên cao tốc ít nhất 10km/h tiết kiệm 290.000 thùng/ngày đối với ôtô và 140.000 thùng/ngày đối với xe tải.

2. Phục hồi làm việc từ xa ba ngày mỗi tuần giảm 500.000 thùng/ngày.

3. Cấm ôtô chạy trong thành phố vào chủ nhật giảm 380.000 thùng/ngày.

4. Sử dụng phương tiện giao thông công cộng, khuyến khích đi bộ, đi xe đạp giảm 330.000 thùng/ngày.

5. Cho xe chạy luân phiên trong thành phố giảm 210.000 thùng/ngày.

6. Đi chung xe và lái xe theo cách tiết kiệm nhiên liệu giảm 470.000 thùng/ngày.

7. Xe tải chở hàng và vận chuyển hàng hóa lái êm ái [không nhồi ga] giảm 320.000 thùng/ngày.

8. Sử dụng tàu hỏa cao tốc và đi tàu đêm thay vì đi máy bay giảm 40.000 thùng/ngày.

9. Tránh đi công tác bằng máy bay khi có giải pháp khác như họp trực tuyến giảm 260.000 thùng/ngày.

10. Sử dụng xe điện và xe ít hao nhiên liệu giảm 100.000 thùng/ngày.

HOÀNG DUY LONG

Video liên quan

Chủ Đề