Tại sao nhiều nước trên thế giới hiện nay lại phát triển du lịch bền vững ?

Chưa được quan tâm đúng mức

Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp chỉ có thể phát triển trên cơ sở khai thác các giá trị tài nguyên du lịch. Từ góc độ này, kho tàng di sản đồ sộ ở cả loại hình vật thể, phi vật thể cùng hệ thống di tích thiên nhiên, lịch sử, văn hóa phong phú, dày đặc của Việt Nam chính là nguồn tài nguyên du lịch lớn, góp phần quan trọng tạo nên sự hấp dẫn, độc đáo cho sản phẩm du lịch giữa các vùng miền, địa phương trong nước và giữa Việt Nam với các quốc gia khác.

Ở chiều ngược lại, hoạt động du lịch cũng là cầu nối hữu hiệu giúp quảng bá, phát huy giá trị di sản, mang lại lợi ích thiết thực cho cộng đồng, từ đó giới thiệu hình ảnh, văn hóa Việt Nam tới công chúng cả nước, nhất là bạn bè quốc tế. Đơn cử, năm 2017, Vịnh Hạ Long [Quảng Ninh] đã đón hơn 3,6 triệu lượt khách, trong đó có 2,4 triệu lượt khách quốc tế, thu khoảng 1.100 tỷ đồng từ bán vé; quần thể di tích Cố đô Huế đón khoảng 3 triệu lượt khách, trong đó có hơn 1,8 triệu lượt khách quốc tế, thu hơn 320 tỷ đồng từ bán vé; Khu phố cổ Hội An [Quảng Nam] đón 1,96 triệu lượt khách, thu về 219 tỷ đồng từ bán vé… Như vậy, có thể thấy giữa hoạt động bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch có mối quan hệ tương hỗ mật thiết. Nếu biết quản lý, sử dụng đúng hướng, di sản sẽ là nguồn lực lớn mang đến lợi nhuận lâu dài, bền vững cho du lịch nói riêng và nền kinh tế - xã hội nói chung.

Tuy nhiên, từ thực tiễn hoạt động du lịch dựa trên khai thác di sản thời gian qua, dễ nhận thấy để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phần thua thiệt thường thuộc về di sản khi công tác bảo tồn “nguồn vốn tự nhiên” này chưa được coi trọng đúng mức. Bằng chứng là để đánh đổi cho những công trình hoành tráng như các khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, hệ thống cáp treo…; hàng trăm nghìn héc-ta rừng đã biến mất, nhiều bãi biển đẹp bị biến dạng, nhiều dãy núi bị tàn phá; và cùng với đó là sự biến đổi hệ sinh thái tự nhiên cũng như môi trường văn hóa của cộng đồng dân cư trong khu vực. Ở châu Á, UNESCO từng lên tiếng cảnh báo đối với In-đô-nê-xi-a khi văn hóa bản địa ở Ba-li gần như biến mất do phát triển du lịch “nóng”. Cố đô Ayutthaya, di sản văn hóa thế giới nổi tiếng của Thái-lan cũng từng làm chính phủ nước này đau đầu khi hoạt động du lịch có khả năng làm biến đổi các giá trị căn bản của di tích đã được Công ước Bảo tồn Di sản văn hóa thiên nhiên ghi nhận. Đáng chú ý, thung lũng Elbe ở Đức đã phải rút khỏi danh sách di sản thế giới do mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Còn ở Việt Nam, Vịnh Hạ Long không dưới một lần lọt vào tầm ngắm báo động của UNESCO bởi các hạng mục kinh tế, du lịch phát triển ồ ạt làm thay đổi cảnh quan, môi trường nơi đây. Báo giới từng tốn không ít giấy mực khi phải “kêu cứu” cho nhiều di sản của Việt Nam trước làn sóng du lịch. Ấy là khi các hang động ở Vịnh Hạ Long trở thành địa điểm tổ chức những dạ tiệc xa hoa cho du khách; bên trong động Thiên Đường [Quảng Bình] có nguy cơ trở thành nơi tổ chức Cuộc thi Hoa hậu Hòa Bình Thế giới 2017; những dự án đầu tư du lịch ở bán đảo Sơn Trà gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới cảnh quan, hệ sinh thái của nơi được ví là “lá phổi xanh” của Đà Nẵng; hay khi dự án xây dựng cáp treo và khai thác con đường thám hiểm xuyên động Sơn Đoòng [Quảng Bình] gây nhiều ý kiến trái chiều trong dư luận… Mới đây những chuyên gia di sản và công chúng lại tiếp tục ngỡ ngàng, đau xót khi một “công trình du lịch đồ sộ” bỗng mọc lên ngay giữa vùng lõi Khu di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới Tràng An [Ninh Bình] mà không hề được cấp phép; tượng Bà Chúa Xứ thứ hai cũng được doanh nghiệp lén lút thi công trên núi Sam [An Giang]. Dù các công trình này đã buộc phải tháo dỡ, nhưng những tổn thương mà chúng gây ra đối với cảnh quan, hệ sinh thái di sản khó có thể khắc phục. Rõ ràng, nếu mối quan hệ biện chứng giữa phát triển du lịch và bảo tồn, phát huy giá trị di sản không được nhìn nhận một cách khách quan, đầy đủ, có định hướng thì sự phát triển du lịch theo kiểu đặt mục tiêu kinh tế lên hàng đầu sẽ chỉ mang đến những lợi ích ngắn hạn trước mắt và để lại hậu quả dài lâu.

Bảo tồn tích cực để phát triển bền vững

Khi du lịch được xác định trở thành một trong những ngành kinh tế chủ lực của đất nước thì yêu cầu phát triển du lịch bền vững gắn liền với bảo tồn giá trị di sản càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn đã nhấn mạnh quan điểm: “Phát triển du lịch bền vững; bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa và các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc; bảo vệ môi trường và thiên nhiên…”. Muốn thế, mối quan hệ giữa phát triển du lịch và bảo tồn di sản phải được xử lý hài hòa, hợp lý trên cơ sở ứng xử có trách nhiệm của những bên liên quan mà đi đầu là những cơ quan quản lý du lịch và di sản. Theo Chủ tịch Liên hiệp các Hội UNESCO Việt Nam Nguyễn Xuân Thắng, về mặt vĩ mô, mô hình phát triển du lịch quốc gia cần được hoạch định dài hơi, trong đó không chỉ lấy yếu tố lợi nhuận làm mục tiêu mà còn cần tính đến những lợi ích cho tương lai thông qua sử dụng một cách hợp lý, hiệu quả và nhân văn nguồn tài nguyên thiên nhiên, văn hóa mà cha ông để lại. Bên cạnh tính khả thi của các đề án kinh tế, cần phê duyệt cả những mục tiêu văn hóa bảo đảm tính bền vững cho những nguồn tài nguyên không có khả năng tái tạo. Ngoài ra, nên học tập các nước về thể chế hóa các tiêu chí kinh tế-văn hóa dành cho các hoạt động đầu tư, phát triển kinh tế để có thể đưa ra các giới hạn trong quản lý, theo dõi các dự án, bảo đảm cân bằng lợi ích kinh tế trước mắt và mục tiêu văn hóa lâu dài.

Di sản là tài nguyên du lịch không thể thay thế, cho nên giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa bảo tồn di sản và phát triển du lịch theo hướng bền vững đòi hỏi phải tuân thủ nguyên tắc cái mới, cái xây dựng sau nhất thiết phải tôn trọng di sản gốc. Thời gian qua, do không tuân thủ nguyên tắc này cho nên nhiều di sản đã bị phục chế, làm mới dẫn đến biến dạng, méo mó các giá trị ban đầu. Hiện nay, các nhà khoa học đã đưa ra khái niệm “bảo tồn tích cực”, tức đưa các giá trị vốn có của di sản vào phục vụ cuộc sống, từ đó bảo tồn và phát huy những giá trị đó. Nhưng muốn thế, cần có sự bắt tay chặt chẽ giữa những người làm du lịch và những người làm di sản. Những dự án phát triển du lịch gắn với khai thác di sản muốn triển khai, nhất định phải có sự tính toán, tham vấn kỹ lưỡng từ những chuyên gia di sản thông qua các hoạt động chuyên môn nhằm đánh giá chi tiết những tác động đến di sản, từ đó bảo đảm khống chế các tác động ở mức độ cho phép. Trong quy hoạch tổ chức không gian du lịch, cần quản lý được sức chứa phù hợp khả năng chịu tải của tài nguyên, môi trường du lịch tại di sản.

Theo Tiến sĩ Mai Hà Phương, Trưởng Khoa Du lịch, Trường đại học Văn hóa TP Hồ Chí Minh, ngoài vấn đề quan trọng là đào tạo đội ngũ cán bộ từ quản lý di sản đến những người làm du lịch am hiểu về văn hóa và kinh doanh du lịch, cần lưu ý quan điểm gắn di sản với phát triển du lịch không có nghĩa là tất cả các di sản đều được phép khai thác du lịch. Có những di sản chưa, hoặc không được khai thác du lịch mà phải bảo tồn. Trong phát triển du lịch tại các khu di sản, cần giải quyết hài hòa mối quan hệ và quyền lợi của các bên tham gia, nhất là cộng đồng địa phương với tư cách là chủ nhân của di sản trong các hoạt động bảo vệ, quản lý và khai thác di sản, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa để tạo thêm nguồn kinh phí cho trùng tu, bảo tồn di sản.

Bạn đã nghe đến thuật ngữ du lịch bền vững chưa? Có lẽ là bởi vì thuật ngữ ‘bền vững’ đã trở thành một trong những ‘từ thông dụng’ được sử dụng phổ biến nhất trong xã hội hiện đại. Bài viết này sẽ cung cấp một cái nhìn tổng quan về xu hướng du lịch bền vững.

Xu hướng du lịch bền vững

Du lịch là một trong những ngành phát triển nhanh nhất trên thế giới. Nó đóng vai trò vô cùng quan trọng như một nguồn thu nhập chính của nhiều quốc gia. Tuy nhiên, giống như các hình thức phát triển khác, du lịch cũng gây ra nhiều vấn đề, chẳng hạn như các vấn đề xã hội, mất di sản văn hóa, phụ thuộc kinh tế và suy thoái hệ sinh thái.

Hiểu hơn về các tác động của du lịch đã khiến nhiều người tìm kiếm những chuyến đi “có trách nhiệm” hơn. Chúng bao gồm các hình thức du lịch thay thế hoặc bền vững như: “du lịch trải nghiệm thiên nhiên”, “du lịch sinh thái” và “du lịch văn hóa”.

Du lịch bền vững đang trở nên phổ biến đến mức một số người nói rằng cái mà chúng ta hiện gọi là ‘thay thế’ sẽ là ‘xu hướng chủ đạo’ trong một thập kỷ tới.

Du lịch bền vững, tương tự như du lịch có trách nhiệm, dựa trên tiền đề là quan tâm đến môi trường, xã hội và kinh tế. Các nguyên tắc du lịch bền vững nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực song song với việc tối đa hóa các mặt tích cực khác của du lịch

Để quản lý và giảm thiểu những tác động tiêu cực của du lịch, cần có quy hoạch, quản lý bền vững/có trách nhiệm trong toàn ngành du lịch. Các khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường của phát triển bền vững phải đảm bảo lợi ích của tất cả các bên liên quan bao gồm cộng đồng địa phương, khách du lịch, các tổ chức tư nhân và các cơ quan công quyền..

Tất cả các hoạt động du lịch với bất kỳ mục đích nào – du lịch nghỉ dưỡng, du lịch kinh doanh, hội nghị, du lịch mạo hiểm và du lịch sinh thái – đều cần phải bền vững. Du lịch bền vững nhằm cung cấp cho mọi người một kỳ nghỉ thú vị và mang tính giáo dục, đồng thời cũng mang lại lợi ích cho người dân nước sở tại mà không gây tổn hại đến môi trường hoặc xã hội địa phương.

Các định nghĩa du lịch bền vững

Du lịch bền vững là một hình thức du lịch đã nhận được sự quan tâm đáng kể trong những năm gần đây, cả giới truyền thông và giới học thuật. Nếu bạn sử dụng cụm từ “du lịch bền vững” trên Google, sẽ có hơn 270.000.000 kết quả sẽ được trả về – điều này là rất nhiều!

Nội dung tài liệu đề cập đến cách thực hiện du lịch bền vững đã mở rộng theo cấp số nhân. Chúng ta nhìn lại các định nghĩa ban đầu về phát triển bền vững, báo cáo của Brundtland đã định nghĩa phát triển bền vững là “sự phát triển đáp ứng các nhu cầu của hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng của các thế hệ tương lai khi đáp ứng nhu cầu của chính họ”.

Tổ chức Du lịch Thế giới của Liên hợp quốc đã phát triển và đưa ra định nghĩa chính thức về du lịch bền vững là “Du lịch có tính đến đầy đủ các tác động kinh tế, xã hội và môi trường ở hiện tại cũng như trong tương lai, giải quyết các nhu cầu của du khách, ngành công nghiệp, môi trường và cộng đồng tiếp nhận”.

Theo Tổ chức Du lịch Thế giới của Liên hợp quốc, du lịch bền vững cần:

  • Sử dụng tối ưu tài nguyên môi trường – yếu tố quan trọng trong phát triển du lịch; duy trì các quá trình của hệ sinh thái thiết yếu và giúp bảo tồn di sản thiên nhiên cũng như đa dạng sinh học.
  • Tôn trọng văn hóa – xã hội của các cộng đồng sở tại, bảo tồn các giá trị truyền thống và di sản văn hóa đã được xây dựng; đồng thời góp phần vào sự hiểu biết, gắn kết giữa các nền văn hóa.
  • Đảm bảo các hoạt động kinh tế lâu dài – mang lại lợi ích kinh tế xã hội cho tất cả các bên liên quan và được phân bổ công bằng. Chúng bao gồm các cơ hội việc làm, thu nhập ổn định và các dịch vụ xã hội cho các cộng đồng sở tại, từ đó góp phần xóa đói giảm nghèo.

Tại sao xu hướng du lịch bền vững lại quan trọng?

Du lịch bền vững đêm lại các tác động tích cực, hạn chế tối thiểu ảnh hưởng tiêu cực đến mọi khía cạnh. Như bạn đã thấy ở biểu đồ bên dưới, ngành du lịch đã phát triển với tốc độ nhanh chóng. Điều này có nghĩa là bất kỳ tác động tiêu cực nào do hoạt động du lịch gây ra cũng sẽ tăng lên, do đó cho thấy nhu cầu cấp thiết phải được quản lý cẩn thận thông qua các hoạt động du lịch bền vững.

Từ sâu trong rừng rậm Amazon đến vùng hẻo lánh của Úc, có rất ít nơi trên thế giới thoát khỏi sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của ngành du lịch và lữ hành. Thật không may, trong nhiều trường hợp, điều này phải trả giá bằng tài nguyên thiên nhiên, nền kinh tế địa phương và đời sống của người dân bản địa.

Các khu vực hoang sơ ngày càng khó tìm. Nhưng đáng lo ngại hơn, những khu vực không bị ô nhiễm hoặc không bị hủy hoại do du lịch cũng trở nên ít phổ biến hơn. Nếu bạn muốn bảo tồn những thứ mà bạn muốn chiêm ngưỡng [bãi biển, núi, động vật hoang dã, v.v.], thì bạn cần phải hành xử có trách nhiệm và bền vững.

Video liên quan

Chủ Đề