Tại sao tôi yêu đất nước của tôi câu hỏi ấy

Bởi Barack Obama

Giới thiệu về cuốn sách này

Page 2

Bởi Barack Obama

Giới thiệu về cuốn sách này

Lần đầu đăng trên báo Văn nghệ những năm 1970, bài thơ của Trần Vàng Sao đính kèm ghi chú “Từ miền Nam gửi ra”.

Tối 12/11, Bài thơ của một người yêu nước mình - tuyển tập thơ của Trần Vàng Sao - đoạt giải B Sách Quốc gia với 100% số phiếu thuận từ hội đồng chuyên môn. Theo nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, giải thưởng không đơn thuần tri ân tác giả mà có ý nghĩa tôn vinh thơ ca chân thực, như một cách “trả lại sự thật cho lịch sử”.

Ông Nguyên nhớ Bài thơ về một người yêu nước mình - tác phẩm được lấy làm tên đề tập sách - ra đời trong thời kháng chiến chống Mỹ, cuối những năm 1960. Lúc đó, thơ được in trên báo Văn nghệ, kèm ghi chú “Từ miền Nam gửi ra”. “’Trong khi thi ca yêu nước lúc bấy giờ là tiếng nói của tập thể, nhân dân, Trần Vàng Sao lại khẳng định đó là bài thơ của ‘một người yêu nước mình’. Giọng thơ trực diện, ám ảnh, xúc động về nỗi đau của một gia đình tác động mạnh mẽ đến người đọc. Việc nhà thơ Nguyễn Đính sử dụng bút danh Vàng Sao - hình ảnh biểu tượng trên lá cờ Tổ quốc, như một chất xúc tác, khiến tác phẩm cộng hưởng cảm xúc, trở thành hiện tượng trong giới văn chương thời ấy”, ông Nguyên nói.

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều cho rằng trong nhiều năm, bài thơ đã chia dư luận thành hai luồng ý kiến, đa số đón nhận, khen tác phẩm sâu sắc, xúc động, nhưng một số người nhận định rằng cách viết của tác giả quá nặng nề, u ám. “Trần Vàng Sao dám nhìn thẳng vào những năm tháng chiến tranh gian khổ, dùng thơ ca để lột tả một cách trần trụi cái đói, cái nghèo, cái khổ của người dân”, ông Thiều nói.

Tiến sĩ ngôn ngữ học Đỗ Anh Vũ kể khi anh học cấp ba, thầy giáo, nhà thơ Đặng Việt đọc, giới thiệu cho các học trò một số trích đoạn. Anh và các bạn khi ấy thổn thức với hình ảnh người người mẹ goá nuôi con côi giữa nhiều khổ đau, tủi nhục. Họ rủ nhau đến thư viện, tìm đọc bài thơ trong Tuyển tập thơ Việt Nam 1945-1975 [Nhà xuất bản Văn học, 1987], chép và truyền tay tác phẩm.

Tình yêu đất nước trong thơ Trần Vàng Sao gắn liền với tình thân gia đình, những rung động với từng cảnh vật, con người trên quê hương, trở đi trở lại qua điệp từ “tôi yêu”.
Tôi yêu đất nước này khôn nguôiTôi yêu mẹ tôi áo ráchChẳng khi nào nhớ tuổi mình bao nhiêu.Tôi bước điMưa mỗi lúc mỗi to,Sao hôm nay lòng thấy chậtNhư buổi sáng mùa đông chưa thấy mặt trời mọcCon sông dài nằm nhớ những chặng rừng đi quaNỗi mệt mỏi, rưng rưng từng con nướcChim đậu trên cành chim không hótKhoảng vắng mùa thu ngủ trên cỏ mayTôi yêu đất nước này những buổi maiKhông ai cười không tiếng hát trẻ conĐất đá cỏ cây ơiLòng vẫn thương mẹ nhớ chaĂn quán nằm cầuHai hàng nước mắt chảy raMỗi đêm cầu trời khấn phật, tai qua nạn khỏiTôi yêu đất nước này áo ráchCăn nhà dột phên không ngăn nổi gióVẫn yêu nhau trong từng hơi thởLòng vẫn thương cây nhớ cội hoàiThắp đèn đêm ngồi đợi mặt trời maiTôi yêu đất nước này như thếNhư yêu cây cỏ ở trong vườnNhư yêu mẹ tôi chịu khó chịu thươngNuôi tôi thành người hôm nayYêu một giọng hát hayCó bài mái đẩy thơm hoa dạiCó sáu câu vọng cổ chứa chanCó ba ông táo thờ trong bếp

Và tuổi thơ buồn như giọt nước trong lá sen

Ý thơ hoà quyện giữa khung cảnh thanh bình và hiện thực tàn khốc. Làng quê đất nước hiện lên thơ mộng trong buổi sáng thơm hương lúa, bầy chim sẻ đậu hót trước sân. Thế nhưng, cuộc sống của những con người ở đó, cụ thể là mẹ con tác giả, lại đầy cơ cực, tủi hổ. Người mẹ một mình nuôi con, ngày nào cũng có người đến đòi nợ, đêm nào cũng thầm khóc nhưng vẫn không nguôi hy vọng con khôn lớn “cất mặt với đời”.
Tôi yêu đất nước này lầm thanMẹ đốt củi trên rừng cha làm cá ngoài biểnĂn rau rìu rau éo rau traiNuôi lớn người từ ngày mở đấtBốn ngàn năm nằm gai nếm mậtMột tấc lòng cũng trứng Âu Cơ

Một tiếng nói cũng đầy hồn Thánh Gióng

Trần Vàng Sao chủ yếu viết thơ tự do, thường rũ bỏ vần điệu trong tác phẩm. Thế nhưng ở Bài thơ về một người yêu nước mình, ông gieo nhiều vần chân, tạo nhạc tính, giúp người đọc dễ thuộc, dễ nhớ. Từ nỗi đau, câu chuyện riêng, nhà thơ nói về ước mơ thống nhất đất nước, khát vọng đoàn kết dân tộc. Ông Phạm Xuân Nguyên, Đỗ Anh Vũ tâm đắc ý cuối bài: “Đất nước này còn chua xót/ Nên trông ngày thống nhất/ Cho bên kia không gọi bên này là người miền Nam/ Cho bên này không gọi bên kia là người miền Bắc”. Ông Nguyên cho rằng câu thơ đúc kết tư tưởng nhân văn của tác giả, là tấm “căn cước công dân” của một thi sĩ yêu nước. Tác phẩm xuất sắc đến nỗi nhiều người cho rằng đây là áng thơ duy nhất của Trần Vàng Sao.

Vài năm trước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm mang tập bản thảo của người bạn quá cố Trần Vàng Sao, gồm cả những bài chưa từng được công bố và đã ra mắt, đến gặp ông Nguyễn Quang Thiều. Nhận lời gửi gắm của ông Nguyễn Khoa Điềm, năm ngoái, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Công ty Văn hoá và Truyền thông Nhã Nam ấn hành cuốn sách, lấy tên tuyển tập tác phẩm nổi bật nhất sự nghiệp ông - Bài thơ của một người yêu nước mình.

Trong lời đề tựa, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều viết: “Thơ của Trần Vàng Sao chính là cuộc đời ông. Thơ ông hiện ra như chính áo quần ông, tóc tai ông, hơi thở ông, ánh mắt ông, giọng nói ông, cảm giác ông, mồ hôi ông, đau đớn ông, giận dữ ông, giày vò ông, tuyệt vọng ông, khát vọng ông và nhịp đập trái tim ông là thứ kỳ diệu nhất gắn kết toàn bộ những gì thuộc về ông để vang lên thành thi ca. Bởi thế, thơ ông chân thực và mãnh liệt như máu chảy trong huyết quản ông”.

Ông Thiều nói: “Trong thời gian dài, Bài thơ của một người yêu nước mình chưa được đánh giá đúng, hạn chế in trên sách, báo nhưng vẫn len lỏi trong đời sống văn học nghệ thuật. Việc tập thơ cùng tên đoạt giải Sách Quốc gia cho thấy cách nhìn mới mẻ, rộng mở, công bằng hơn với nghệ thuật, chứng minh giá trị lâu bền của tác phẩm qua thời gian”.

tửu tận tình do tại

@Meo_

Câu 1:

– Văn bản trên sử dụng thể thơ: tự do

Câu 2:

– Hình ảnh đất nước hiện lên qua những từ ngữ trong 5 câu đầu của đoạn thơ là: áo rách, dột phên

Câu 3:

– BPTT trong đoạn thơ là: Điệp ngữ [ hoặc so sánh ]

* Điệp ngữ: ” Tôi yêu đất nước này ” – ” như yêu ” – ” có ”

→ Tác dụng: Ở mỗi câu trong đoạn thơ trên, tác giả đã sử dụng nhiều phép điệp ngữ để làm nhấn mạnh về tình yêu của mình dành cho đất nước như ” Tôi yêu đất nước này ” . Ngoài ra, còn dùng để ví von tình yêu của mình với nhiều sự vật gần gũi, thiêng liêng bằng ” như yêu ”. Tác giả đã nhấn mạnh phép liệt kê về những bài ca, giọng hát nơi quê hương, đất nước mình như từ ” có ”. Nói tóm lại, ở mỗi phép điệp, tác giả đã sử dụng một cách hợp lí và phong phú.

* So sánh: ” như yêu cây cỏ trong vườn ” – ” như yêu mẹ tôi chịu khó chịu thương ”

→ Tác dụng: Khi đọc những câu thơ giữa đoạn, ta lại bắt gặp được một biện pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng đó là phép ” nhân hóa ”. Trong hai câu thơ 7 và 8, tác giả đã ví tình yêu của mình dành cho đất nước với tình yêu cây cỏ, những thứ mà tác giả săn sóc hằng ngày. Hay so sánh với tình yêu quê hương với tình yêu dành cho mẹ làm cho thứ tình ấy thêm thiêng liêng. Nói tóm lại, phép nhân hóa được tác giả sử dụng đã làm tăng lên mức độ tình cảm mà tác giả dành cho đất nước mình.

Câu 4:

→ Qua đoạn trích trên, chúng ta lại nhận được thông điệp vô cùng ý nghĩa. Nó truyền đạt đến chúng ta về trách nhiệm của mình đối với đất nước. Mỗi công dân là một cá nhân để hình thành nên một đất nước hùng mạnh. Hãy ý thức, luôn có trách nhiệm bảo vệ, sẵn sàng hy sinh, cố gắng phát triển và giữ gìn cái đẹp của Tổ quốc. Luôn tồn tại lòng yêu nước, mỗi công dân phải biết đoàn kết và yêu thương lẫn nhau để đất nước thêm giàu đẹp.

Vì sao tôi yêu nước?

Vì sao tôi phải yêu nước?

Tôi có nhất thiết phải yêu nước?

Tôi cũng mang câu hỏi tương tự ra hỏi một ông cụ già, người đã rời khỏi Việt Nam từ những năm 20 của thế kỷ trước để đi lính thợ cho Pháp, rồi sau lại trở thành một trong những thành viên cốt cán của phong trào yêu nước tại Pháp “Vì sao bác yêu nước, có cần phải hoạt động trong phong trào yêu nước không khi bác đã ra đi và đang sống yên ổn?”.

Tôi biết nhiều người như ông - tôi gọi là bác dù khi ấy ông đã gần 100 tuổi - đến Pháp khi còn rất trẻ, người đi lính, người đi phu, người đi học, đã chọn yêu nước khi tình yêu ấy là cả một sự khó khăn, nhưng vẫn chọn.

Tôi thấy mình may mắn khi đã biết được những con người này, có cơ hội được gặp gỡ và chuyện trò với họ, trước khi họ đã già và biến mất khỏi cuộc đời, mang theo tất cả những câu chuyện đẹp đẽ mà họ đã từng sống suốt những năm tuổi trẻ với tất cả những hy vọng, tình yêu về một nơi mà họ gọi là Tổ quốc.

Ông là người mà tôi gặp đầu tiên, tôi luôn nhớ cảm giác ấm áp mà ông bà mang đến cho tôi trong buổi chiều mùa đông rất lạnh ấy, ông đã già nhưng rất minh mẫn. Gặp tôi, ông mừng mừng tủi tủi vì có người lắng nghe ông kể về những câu chuyện cuộc đời. Ông lôi những tài liệu từ những năm 20 của thế kỷ trước ra cho tôi xem, khi ông xung phong đi phu sang Pháp vì nhà quá nghèo. Một cậu thanh niên Việt Nam đầu trọc, mặt mày hốc hác, chỉ có đôi mắt là sáng. Ông kể với tôi những năm tháng đầu tiên của đời phu phen, nhớ quê mà không biết khi nào được về. Ông bảo, cuộc đời ông đổi khác khi ông được gặp “ông Hồ”, vào năm 1946, người đã cầm tay ông và bảo “anh cố học đi, học lấy ít chữ. Muốn không bị khinh rẻ thì phải học, chỉ có tri thức mới giúp người ta thoát khỏi thân phận nô lệ”. Ông chỉ cho tôi xem những tấm hình mà ông chụp trong nhà máy ô-tô nơi ông làm việc những ngày cuối cùng, ở vai trò của đốc công. Ông bảo, cuối cùng thì tôi cũng bước lên một thân phận khác, để làm người.

Yêu nước đối với ông là cố gắng làm người để không bị coi thường, để có thể ngẩng cao đầu khi nói ông đã từng là lính thợ.

Cũng như ông, ông Lâm Bá Châu cũng là một Việt kiều mà tôi có dịp gặp, khác với người bạn cùng hoạt động trong phong trào yêu nước, ông Lâm Bá Châu là người miền nam và sang Pháp để du học từ đầu những năm 50. Người đàn ông điềm đạm, lịch sự và nhiều hiểu biết ấy có một cách lý giải khác với tôi về lòng yêu nước khi tôi hỏi ông sao không làm việc và hành nghề một cách bình thường, hòa nhập vào xã hội Pháp và sống yên ổn? Ông hoàn toàn có thể sống như thế và có một thân phận tốt. Vợ ông là người Pháp, ông là trí thức được đào tạo bài bản ở Pháp, nước Pháp đã giúp ông có một vị trí xã hội cao, vậy hà cớ gì phải hoạt động trong phong trào ủng hộ cách mạng trong nước, để bị cảnh sát theo dõi, bị bắt và hơn 25 năm không được về Sài Gòn thăm cha mẹ?

Tôi rất nhớ ánh mắt của ông nhìn tôi, như muốn hiểu xem tôi hỏi đùa hay moi móc để ông kể tận ruột gan, tôi cũng nhớ giọng nói tiếng Pháp điềm đạm, thủ thỉ, ông bảo «Vậy tôi là trí thức để làm gì? Sao có thể thấy bình an khi nơi mình gọi là quê hương bị chiến tranh, bị xâm chiếm? Tôi nghĩ nước Pháp đã dạy tôi về tự do và bình đẳng, vậy tôi phải sống giống một trí thức chứ”.

Sống giống một trí thức, yêu quê hương theo cách của một trí thức là điều mà nhiều Việt kiều ở thế hệ ông Lâm Bá Châu đã làm suốt những năm tuổi trẻ, khi sống xa nơi mà họ gọi là quê hương. Để hoạt động trong phong trào đấu tranh cho độc lập của Việt Nam, họ đã phải hoạt động gần như bí mật, hội họp kín, bị bắt, tra khảo và nhiều người suốt mấy chục năm trời không thể về Việt Nam ngay cả khi cha mẹ ở quê nhà qua đời. Về Sài Gòn thì bị bắt, về miền bắc thì chiến tranh và không có cơ hội quay lại với gia đình, tuy thế, tôi chưa nghe thấy ai gọi đó là hy sinh.

 

Nhiều kiều bào đã về nước, tham gia các chuyến đi thăm và làm việc tại huyện đảo Trường Sa...

Là chọn lựa.

Là chọn để yêu nơi mà mình sinh ra, thay vì chọn chăm chú vào đời sống cá nhân. Tôi cũng có dịp đến trong ngôi nhà ngổn ngang những đồ đạc của hội Việt kiều. Nào là bàn, nào là trống, nào cờ phướn. Thật lòng, tôi không hình dung đây là ngôi nhà của một người đã sống ở Pháp từ gần 70 năm, mọi ngóc ngách trong nhà đều đầy ắp những vật dụng mang màu sắc Việt Nam. Đồ đạc của hội người Việt tại Pháp để nhờ chứa đầy kho, đầy phòng, chủ nhà - bác sĩ Therese Phan chỉ cười “Ừ thì hội không có chỗ để, mình có chỗ thì mình mang về thôi”.

Không chỉ hoạt động trong phong trào ủng hộ cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước, nhiều năm sau hòa bình bác sĩ Therese Ký vẫn tiếp tục những hoạt động thiện nguyện của mình. Quyên góp thuốc để gửi về Việt Nam khi ấy còn khó khăn, kết nối các bác sĩ Pháp về để hợp tác với trong nước. Nhiều khi tôi cứ lạ, điều gì đã khiến người phụ nữ nhỏ bé ấy bền bỉ suốt nhiều năm để yêu một tình yêu không phải không có lúc dễ bị sứt mẻ.

Rất nhiều lần tôi băn khoăn tự hỏi xem điều gì đã khiến những con người này nuôi được tình yêu với nơi mà họ gọi là quê dù nhiều năm không hề sinh sống, dù không phải lúc nào cũng có chung suy nghĩ. Người thì phấn đấu để thoát kiếp phu phen nô lệ, người thì chấp nhận gian nan xa cách, người thì bền bỉ bất chấp thời gian. Tôi cứ cố lục lọi, hỏi han để hiểu xem điều gì đã là động lực, là lý tưởng, liệu có một lý tưởng theo cách hiểu của những người thế hệ sau, được giáo dục về điều này trước khi thực sự hiểu có cần một lý tưởng. Thường thì câu trả lời mà tôi nhận được rất giản dị “nếu được sống ở một nơi văn minh, tự do thì lại càng nên hiểu rằng khi đất nước khó khăn nhất, buồn nhất là lúc cần chúng ta có mặt”. Bác sĩ Therese Phan bảo tôi rằng, thời chiến tranh, những vất vả trong nước gánh chịu nhiều hơn ở bên này, thời hòa bình cũng vậy, vậy thì những điều mà chúng tôi làm là rất tự nhiên, hợp lẽ.

Quả thật yêu nơi mình sinh ra luôn là một tình cảm tự nhiên, nhưng để nuôi tình yêu ấy qua nhiều thời gian, nhiều biến cố và thử thách phải là một sự chọn lựa.

Chọn đứng cùng khi buồn vui, khi gian nan, khi sướng khổ, khi bất toại ý... tôi nghĩ họ đã chọn theo cách ấy.

Họ đã chọn trả lời cho câu hỏi của tôi bằng chính cuộc đời mà họ sống.

Video liên quan

Chủ Đề