Theo Hồ Chí Minh cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành được thắng lợi phải đi theo con đường nào

Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản

Quảng cáo

Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản

Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp, ông cha ta đã sử dụng nhiều con đường gắn với những khuynh hướng chính trị khác nhau, sử dụng những vũ khí tư tưởng khác nhau.

Tất cả các phong trào yêu nước vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, mặc dù đã diễn ra vô cùng anh dũng, với tinh thần "người trước ngã, người sau đứng dậy", nhưng rốt cuộc đều bị thực dân Pháp dìm trong hiển máu. Đất nước lâm vào "tình hình đen tối tưởng như không có đường ra". Đó là tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Nó đặt ra yêu cầu bức thiết phải tìm một con đường cứu nước mới.

Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước đã bị biến thành thuộc địa, nhân dân phải chịu cảnh lầm than. Hồ Chí Minh được chứng kiến các phong trào cứu nước của ông cha. Người nhận thấy con đường của Phan Bội Châu chẳng khác gì "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau" : con đường của Phan Châu Trinh cững chẳng khác gì "xin giặc rủ lòng thương" ; con đường cùa Hoàn Hoa Thám tuy có phần thực tế hơn nhưng vẫn mang nặng cốt cách phong kiến.

Chính vì thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Hồ Chí Minh không tán thành các con đường của họ mà quyết tâm ra đi tìm một con đường mới

Trong khoảng 10 năm vượt qua các đại dưong, đến với nhân loại cần lao đang tranh đấu ở nhiều châu lục và quốc gia trên thế giới. Nguyễn Ái Quốc đã kết hợp tìm hiểu lý luận và khảo sát thực tiễn, nhất là ở ba nước tư bản phát triển : Anh. Pháp, Mỹ.

Người đọc Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, tìm hiểu thực tiễn cuộc cách mạng tư sản Mỹ ; đọc Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của cách mạng Pháp, tìm hiểu cách mạng tư sản Pháp. Người nhận thấy : "Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa" Bởi lẽ đó, Người không đi theo con đường cách mạng tư sản.

Hồ Chí Minh thấy được Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là một cuộc cách mạng vô sản, mà còn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó nêu tấm gương sáng về sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa và "mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc"[1].

Người "hoàn toàn tin theo Lênin và Quốc tế thứ ba" bởi vì V.I.Lênin và Quốc tế thứ ba đã "bênh vực cho các dân tộc bị áp bức". Người thấy trong lý luận của V.I.Lênin một phương hướng mới để giải phóng dân tộc : con đường cách mạng vô sản.

Trong bài Cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh viết : "Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới"[2].

Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin và lựa chọn khuynh hướng chính trị vô sản. Người khẳng định: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản"... chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ"[3].

Bài tiếp theo

  • Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo
  • Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
  • Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
  • Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực
  • Kết Luận
Quảng cáo
Báo lỗi - Góp ý

Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc và giá trị thời đại

Ngày đăng: 27/08/2020 03:07
Mặc định Cỡ chữ
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới đã cống hiến trọn cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam. Sự nghiệp cách mạng phong phú, sôi động của Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta nhiều “Di sản” quý báu, trong đó, những sáng tạo lý luận của Người về cách mạng giải phóng dân tộc là một dấu ấn nổi bật, góp phần tạo nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam, đồng thời có giá trị thời đại sâu sắc.

1. Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc

Thứ nhất, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản

Yêu nước và kiên quyết chống giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền và nền độc lập là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Phát huy truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc, tận mắt chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, nhân dân đói khổ lầm than, ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc. Mang trong mình khát vọng giải phóng dân tộc, qua nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm ra con đường cách mạng đúng đắn - con đường cách mạng vô sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[1]. Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga [1917], bởi theo Người: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”[2]. Con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản, là cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để. Cuộc cách mạng đó không chỉ giải phóng giai cấp, mà gắn liền với nó là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội.

Trong quá trình vận dụng lý luận cách mạng vô sản vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã kiên trì khắc phục những trở ngại của khuynh hướng giáo điều, nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp trong nửa sau những năm 20 và nửa đầu những năm 30 của thế kỷ XX, làm cho lý luận cách mạng giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vô sản có sức sống mạnh mẽ, thâm nhập trong đông đảo quần chúng nhân dân. Đi theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh sớm xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[3]. Sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng CNXH. Bên cạnh đó, Người dành nhiều tâm trí vào sự nghiệp cách mạng XHCN và xây dựng CNXH ở Việt Nam, hình thành nên những quan điểm hết sức cơ bản về CNXH và con đường đi lên CNXH từ một nước thuộc địa, với những tàn tích phong kiến nặng nề; xác định những đặc trưng bản chất của CNXH, mục tiêu và bước đi để đạt tới CNXH. Đó là một quá trình cải biến cách mạng lâu dài, gian khổ, phải trải qua nhiều chặng đường khác nhau, tất cả vì sự nghiệp giải phóng con người, làm cho con người phát triển toàn diện, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.

Cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, tức là độc lập dân tộc đi tới CNXH. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết, là tiền đề đi tới CNXH. Không giành được độc lập dân tộc sẽ không có gì hết. Độc lập dân tộc thể hiện ở chỗ giành và giữ chính quyền dân chủ nhân dân, chuẩn bị tiền đề đi lên CNXH. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. CNXH là hạnh phúc, tự do. Vì vậy, phải xây dựng CNXH như là sự phát triển tất yếu của độc lập dân tộc, để bảo vệ độc lập dân tộc và tạo ra bước phát triển mới với một trình độ cao hơn của toàn bộ tiến trình cách mạng. Đây chính là sự phát triển sáng tạo luận điểm của V.I.Lênin về cách mạng không ngừng - cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng XHCN, giữa hai giai đoạn đó không có một bức tường thành nào ngăn cách cả.

Thực tiễn đó cho thấy, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của cách mạng vô sản là một trong những sáng tạo nổi bật về mặt lý luận của Hồ Chí Minh. Chính theo con đường cách mạng vô sản, nhân dân Việt Nam đã làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 “long trời lở đất”, dẫn tới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa [2-9-1945]. Trong Tuyên ngôn độc lập đọc trước quốc dân đồng bào vào ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”[4]. Với Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đã tuyên bố với toàn thế giới về quyền độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, toàn vẹn lãnh thổ và quyền dân tộc tự quyết của dân tộc Việt Nam. Trong đó, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ vừa là tiền đề, vừa là điều kiện tiên quyết của chế độ dân chủ, cho việc xác lập và bảo vệ quyền con người.

Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do Đảng và Hồ Chí Minh lãnh đạo đã mở ra một thời đại mới cho dân tộc Việt Nam - thời đại độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Kiên trì với con đường đã lựa chọn, trải qua 30 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “không có gì quý hơn độc lập, tự do”; trên cơ sở đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của thực dân, đế quốc, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Trong cuộc đấu tranh trường kỳ này, tất cả người dân Việt Nam đã kiên cường đấu tranh cho độc lập dân tộc và tự do cho nhân dân. Quyền vốn dĩ tự nhiên đó của con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam được cộng đồng quốc tế đón nhận như là một trong những tư tưởng lớn của thời đại.

Thứ hai, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo

Đây là một sáng tạo của Hồ Chí Minh về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng, “Cách mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công...”[5]. Đảng đó phải được xây dựng theo nguyên tắc đảng kiểu mới của V.I.Lênin, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng Cộng sản là: Xác định mục tiêu của cách mạng, xây dựng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc; thông qua cương lĩnh, tổ chức vận động, tập hợp các lực lượng cách mạng, xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất. Đối với cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: chống đế quốc và chống phong kiến, giành độc lập dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Cương lĩnh Chính trị đầu tiên được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã khẳng định: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp”[6]. Điều đáng chú ý là, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng không chỉ là của riêng giai cấp công nhân, mà của toàn dân tộc. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng [tháng 02/1951], Hồ Chí Minh phân tích: “Trong giai đoạn hiện nay, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”[7]. Năm 1961, khi nhân dân miền Bắc đang thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định: “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”[8].

Đó là một Đảng đạo đức và văn minh, được võ trang bằng lý luận Mác - Lênin; có bản lĩnh chính trị vững vàng; đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức trong sáng, năng lực trí tuệ dồi dào, biết giải quyết mọi vấn đề xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và theo kịp bước tiến của thời đại. Đảng đó phải xây dựng được một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, vững chắc, lâu dài, chân thành, đoàn kết; trong đó, lực lượng của Đảng là cả dân tộc, mọi con dân nước Việt, con Lạc cháu Hồng. Đảng đó còn biết tập hợp các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa thực dân, vì mục tiêu chung của nhân loại tiến bộ là: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Thực tiễn phong phú cách mạng Việt Nam chứng minh rằng, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, chính trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã được tôi luyện, thử thách và không ngừng trưởng thành, dày dạn kinh nghiệm để ngày càng xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân; qua đó, khẳng định một chân lý, “ở Việt Nam không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách cam go để đưa dân tộc đến bến bờ vinh quang, hạnh phúc”[9].

Thứ ba, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân trên cơ sở liên minh công nông

Sinh thời, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông làm nòng cốt”... Trong đó, “thực hiện cho được liên minh công nông vì đó là sự bảo đảm chắc chắn nhất những thắng lợi của cách mạng”[10].

Từ thực tiễn Việt Nam, với tuyệt đại đa số dân số là nông dân, Hồ Chí Minh cho rằng, nông dân là những người chịu nhiều tầng áp bức, bị bần cùng hóa nên họ luôn có ý thức phản kháng, sẵn sàng tham gia cách mạng. Do đó, cách mạng giải phóng dân tộc phải có sự tham gia của giai cấp nông dân và là sự nghiệp của toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Nông dân là một lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai cấp công nhân. Muốn kháng chiến kiến quốc thành công, muốn độc lập, thống nhất thật sự, ắt phải dựa vào lực lượng của nông dân. Đồng bào nông dân sẵn có lực lượng to lớn, sẵn có lòng nồng nàn yêu nước, sẵn có chí khí kiên quyết đấu tranh và hy sinh. Do vậy, vấn đề giải phóng dân tộc ở Việt Nam, thực chất là vấn đề nông dân. Nông dân vừa là động lực, vừa là lực lượng đông đảo, nòng cốt, và cũng là đối tượng vận động của cách mạng.

Đánh giá cao vai trò, sứ mệnh của giai cấp nông dân, nhưng Hồ Chí Minh luôn khẳng định, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng và Đảng phải lãnh đạo xây dựng khối liên minh công - nông làm nòng cốt cho Mặt trận Dân tộc thống nhất. Hồ Chí Minh chủ trương vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam, những người dân mất nước, đang phải chịu thân phận nô lệ, tham gia vào Mặt trận Dân tộc thống nhất, nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Đây là luận điểm rất mới, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với cách mạng thế giới, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc. Đó là sự bổ sung kịp thời vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Có thể nói, đối với cách mạng Việt Nam, luận điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công - nông đã được vận dụng một cách chủ động, sáng tạo trong tiến trình tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc.

Thứ tư, cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang; thực hiện khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn

Vượt lên tư tưởng của các nhà lãnh đạo cách mạng tiền bối, Hồ Chí Minh xác định phương pháp đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang; thực hiện khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn.

Trên cơ sở nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc bản chất của chế độ thực dân: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”[11],“lũ giặc cướp nước, chết thì chết, nết không chừa. Càng gần thất bại thì chúng càng hung ác”[12]. Người khẳng định: “Độc lập tự do không thể cầu xin mà có được”. Vì vậy, để thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cũng như cuộc đấu tranh để bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ CNXH, tất yếu phải “Dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”[13].

Quan điểm bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh không hề đối lập với tinh thần yêu chuộng hòa bình và chủ nghĩa nhân đạo của dân tộc Việt Nam mà là sự tiếp nối truyền thống nhân nghĩa của cha ông ta. Đối với Hồ Chí Minh, trong cuộc đấu tranh chính nghĩa để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, việc sử dụng bạo lực cũng nhằm mục đích hòa bình: “Dụng việc binh là việc nhân nghĩa, muốn cứu dân, cứu nước”[14]. Theo Người, hòa bình phải là nền hòa bình thật sự, gắn liền với độc lập, chủ quyền của Tổ quốc và tự do, dân chủ của nhân dân. Nếu mục tiêu đó không được đáp ứng, phương thức tiến hành chiến tranh tất yếu là bạo lực cách mạng. Đó chính là nghệ thuật khéo léo dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng của Người.

Tuy đề cao vai trò của bạo lực cách mạng nhưng Hồ Chí Minh không tuyệt đối hóa vai trò của bạo lực, của đấu tranh vũ trang trong chiến tranh cách mạng. Với Người, đấu tranh vũ trang chỉ là một trong những phương pháp để thực hiện mục tiêu chính trị của cách mạng. Với tinh thần ấy, sau khi về nước chuẩn bị giành chính quyền, tháng 12-1944, trên cơ sở nghiên cứu kỹ tình hình cách mạng trong nước và trên thế giới, Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành lập đội “Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân”. Người căn dặn: “Chính trị trọng hơn quân sự”[15], “tuyên truyền trọng hơn tác chiến”, “người trước, súng sau”. Chỉ thị nêu rõ nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, phương châm xây dựng ba thứ quân, phương thức hoạt động là kết hợp quân sự với chính trị.

Trong quá trình lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền, Hồ Chí Minh và Đảng đã chỉ đạo tích cực xây dựng và phát triển lực lượng, để khi có thời cơ sẽ phát động khởi nghĩa vũ trang. Trước hết là xây dựng các căn cứ địa, đồng thời mở các lớp đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng các tổ chức chính trị của quần chúng... Với sự chủ động, tích cực chuẩn bị đón chờ thời cơ khởi nghĩa, tháng Tám năm 1945, khi thời cơ đến, lệnh “Tổng khởi nghĩa” được ban ra, chỉ trong chưa đầy nửa tháng, cả nước đã đứng lên giành chính quyền về tay nhân dân.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, kế thừa và phát huy nghệ thuật lãnh đạo Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam đã tập trung lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh, với ba thứ quân và không ngừng nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật của quân đội để đánh bại các chiến lược quân sự của kẻ thù; đồng thời, kết hợp với xây dựng lực lượng chính trị mạnh mẽ của quần chúng để khi thời cơ đến tiến hành tổng tiến công, giành thắng lợi quyết định trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.

2. Giá trị thời đại

Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc phản ánh nguyện vọng được sống trong độc lập, tự do và công bằng, bình đẳng của không chỉ dân tộc Việt Nam mà còn là ý chí, nguyện vọng của mọi dân tộc bị áp bức, bóc lột trên thế giới, như Hồ Chí Minh đã khẳng định: “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”[16]. Có thể nói, giải phóng dân tộc là nguyện vọng cháy bỏng hơn bất cứ yêu cầu nào khác. Nó là điều kiện tiên quyết cho mọi quyền tự do, dân chủ của con người.

Điều đặc biệt cần lưu ý, sáng tạo của Hồ Chí Minh không chỉ là người xây dựng cơ sở lý luận cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc của Việt Nam mà còn là người tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Trong quá trình tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã thể hiện trách nhiệm của người đứng đầu. Người tổ chức vừa kháng chiến, vừa kiến quốc với tinh thần “các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Kháng chiến đi đôi với kiến quốc, đấu tranh đi đôi với xây dựng, cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là nét độc đáo của cách mạng Việt Nam mang dấu ấn Hồ Chí Minh. Người xác định, kháng chiến trường kỳ gian khổ, phức tạp, khó khăn, nhưng nhất định thắng lợi. Lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc vốn đã sáng tạo nhưng lại ngày càng sáng tạo hơn vì đã đi vào thực tiễn, được làm phong phú bởi thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cũng như thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Việt Nam.

Thực tiễn lãnh đạo toàn dân tộc đấu tranh giành độc lập và kháng chiến chống chiến tranh xâm lược đã làm phong phú thêm lý luận của Người về cách mạng và chiến tranh giải phóng. Từ đó, có thể khẳng định, những cống hiến sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, cả thực tiễn và lý luận đã bổ sung cho kho tàng lý luận cách mạng thế giới, kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như truyền thống dựng nước và giữ nước đầy tự hào của dân tộc Việt Nam.

Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc mang tính thời đại thể hiện đậm nét ở chỗ, nó đã tác động sâu sắc đến phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Nếu như thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã thức tỉnh các dân tộc trên thế giới về quyền tự do, độc lập của mỗi dân tộc, thì thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, với đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ đã làm “chấn động địa cầu”, thức tỉnh các dân tộc ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ - Latinh vùng lên đánh đuổi thực dân, đế quốc, giành độc lập dân tộc.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã kiên định con đường cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn là: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, kiên trì mục tiêu: “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Hiện nay, tư tưởng của Người vẫn soi sáng con đường đi lên của cách mạng Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vấn đề quan trọng nhất được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là: Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.

Để đạt được điều đó, hơn lúc nào hết, chúng ta cần phải nắm chắc hạt nhân tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng con người, nắm vững phương thức giải quyết mối quan hệ dân tộc - con người trên cơ sở nhận thức chính xác đặc điểm của dân tộc và sự vận động, phát triển của thời đại. Chỉ có như vậy, chúng ta mới thành công trong nhiệm vụ đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đó cũng là một trong những điều kiện quan trọng nhất bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hiện tại và tương lai.

-------------------------------------

Ghi chú:

[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.30.

[2], [5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.304, 289.

[3], [6], [15] Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.1, 3, 539.

[4], [16] Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.4, 1.

[7], [12] Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.41, 254.

[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.275.

[9] Diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Lễ kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam [3/2/1930-3/2/2020].

[10], [13] Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.391, 391.

[11] Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.114.

[14] Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.286.

PGS, TS Nguyễn Danh Tiên - Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Theo: lyluanchinhtri.vn

Về trang trước
Gửi email In trang

Tóm tắt “Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi thì phải đi theo con đường cách mạng vô sản”

Hồ Chí Minh khẳng định: cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải theo cách mạng vô sản vì:

  • Rút kinh nghiệm từ sự thất bại của các phong trào cách mạng của các bậc tiền bối
  • Cách mạng tư sản là cuộc cách mạng chưa triệt đểchưa đến nơi
  • Thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917

1. Theo Hồ Chí Minh, chỉ có con đường cách mạng vô sản mới giành được độc lập thực sự cho dân tộc, mới làm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân Việt Nam được hưởng hạnh phúc, tự do, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.

2. Cách mạng vô sản là gì?

2.1. Theo từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông, cách mạng vô sản là cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo, nhằm dùng bạo lực cách mạng lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, lập nên chế độ xã hội chủ nghĩa.

3. Rút bài học từ sự thất bại của các con đường cứu nước trước đó.

3.1. Rước hổ cửa trước rước beo cửa sau.[Phan Bội Châu]

3.2. Xin giặc rũ lòng thương.[Phan Châu Trinh]

3.3. Vẫn nặng phong kiến.[Hoàng Hoa Thám]

3.4. => Khâm phục nhưng Bác không đồng tình với các cách cứu nước trên

Hồ Chí Minh với việc đi tìm chân lý thời đại: “Muốn cứu nước không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”

[ĐCSVN] - Trong hệ thống luận điểm cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có một luận điểm lớn mang tầm chân lý thời đại mà giá trị và sức sống của nó còn mãi với tiến trình phát triển của xã hội loài người, đặc biệt là đối với các dân tộc thuộc địa. Đó là luận điểm: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Để khái quát được luận điểm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phải trải qua gần 50 năm hoạt động cách mạng, trong đó có 30 năm ra nước ngoài tìm đường cứu nước, 18 năm trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam chống thực dân, phong kiến, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, xây dựng một nước Việt Nam mới do nhân dân lao động làm chủ.

Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân xâm lược, nhân dân bị hai tầng áp bức nặng nề, người thanh niên Nguyễn Tất Thành sớm bộc lộ tinh thần yêu nước, thương dân mới, có chí muốn cứu giúp nhân dân thoát khỏi cảnh lầm than. Anh tích cực tham gia các hoạt động cứu nước do các nhà cách mạng tiền bối tổ chức. Trong quá trình đó, Nguyễn Tất Thành đã suy nghĩ nhiều về con đường cứu nước của Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh…, chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Dật Tiên. Dù rất quý trọng và khâm phục lòng yêu nước, đánh giá cao những cống hiến của họ, nhưng với một dự cảm chính trị thiên tài, Nguyễn Tất Thành nhận thấy ở các con đường cứu nước ấy còn có nhiều hạn chế và bế tắc về mục tiêu và phương pháp. Anh quyết định đi tìm con đường cứu nước mới.

Việc Nguyễn Tất Thành chọn hướng đi sang phương Tây, sang một nền văn minh mới khác với văn minh phương Đông, sang tận nơi có cái gọi là “Tự do”, “Bình đẳng”, “Bác ái” mà người Pháp thực dân tuyên truyền để tìm hiểu ngọn nguồn của chế độ thực dân đô hộ dân tộc Việt Nam, và cũng là để học hỏi tinh hoa thế giới, sau về giúp đồng bào, đó là một đột phá mới trong tư duy chính trị lúc bấy giờ.

Trong thời gian 10 năm đầu, từ 1911 đến 1920, Nguyễn Tất Thành vừa phải tìm việc làm để kiếm sống, vừa tự học tập và tham gia hoạt động yêu nước ở nước ngoài. Anh đã đi qua nhiều nước, nhiều châu lục; ở đâu anh cũng quan sát, so sánh, nhận xét, đi sâu tìm hiểu thực chất, không dừng lại ở hình thức bên ngoài. Vì thế, điều mà nhiều người yêu nước Việt Nam lúc đó không phát hiện được thì Nguyễn Tất Thành đã nhận ra: Ở đâu trên thế giới cũng có kẻ giàu, người nghèo, cũng có kẻ bóc lột và người bị bóc lột, bị áp bức. Ở các nước chính quốc hay các nước bị thuộc địa vẫn có những người Pháp, người Mỹ tốt và cũng có những người Pháp, người Mỹ không tốt; cũng có người da trắng áp bức, bóc lột và những người da trắng bị áp bức, bóc lột. Anh đi đến kết luận: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một tình hữu ái là thật mà thôi: Tình hữu ái vô sản”[1]. Khi sang Mỹ, tìm hiểu cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Mỹ với bản Tuyên ngôn Độc lập nổi tiếng, Nguyễn Tất Thành nhìn thấy ở cách mạng Mỹ có một số giá trị tích cực, nhưng vẫn nhận xét đó là cuộc cách mạng “không đến nơi”, không triệt để vì không nói gì đến giải phóng tầng lớp nhân dân lao động. Ở Pháp, nghiên cứu cách mạng tư sản Pháp, nghiên cứu bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền, Anh cũng tìm thấy được một số giá trị tích cực, nhưng cũng phê phán tính chất nửa vời, không triệt để của nó.

Tháng 6 năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đã cùng Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường viết bản Yêu sách của nhân dân An Nam gồm tám điểm gửi Hội nghị Véc xây [hội nghị của các nước thắng trận sau Chiến tranh thế giới thứ nhất] nhằm kêu gọi các nước giúp đỡ sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, nhưng không được hội nghị xem xét. Bản Yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc[2] càng nhận rõ bản chất của chủ nghĩa đế quốc. Sau này, Người viết: “Chủ nghĩa Uyn xơn chỉ là trò bịp bợm lớn”[3] và “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”[4]. Phân tích cách mạng tư sản Mỹ 1776 và cách mạng tư sản Pháp 1791, Nguyễn Ái Quốc đi đến kết luận: Không thể đi theo con đường cách mạng tư sản vì con đường đó không giải phóng dân tộc thuộc địa, không giải phóng nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột; những cuộc cách mạng kiểu đó, sớm muộn thì nhân dân phải làm cách mạng một lần nữa mới xong.

Thế rồi, điều gì đến phải đến. Như một tất yếu lịch sử, vào một ngày tháng 7 năm 1920, đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo Nhân đạo [Pháp], Nguyễn Ái Quốc lập tức bị cuốn hút vì tính chất cách mạng triệt để của nó, vì nó đã giải đáp thỏa đáng những điều mà bấy lâu nay anh hằng mong ước, đợi chờ.

Luận cương của V.I.Lênin như luồng ánh sáng chiếu rọi vào trí tuệ và tâm hồn của Nguyễn Ái Quốc, đem đến cho anh một nhãn quan chính trị mới. Nhà lãnh đạo Đảng, nhà lý luận chính trị Trường Chinh nhận xét: “Luận cương về những vấn đề dân tộc và thuộc địa đến với Người như một ánh sáng kỳ diệu nâng cao về chất tất cả những hiểu biết và tình cảm cách mạng mà Người hằng nung nấu”[5]. Từ đó, anh hoàn toàn tin theo V.I.Lênin và quyết đi con đường cách mạng mà V.I.Lênin đã vạch ra. Từ lập trường của một người yêu nước, anh chuyển sang lập trường của một người cộng sản. Sau này, Người kể lại rằng: “Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải là chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin.…Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”[6]. Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc tìm đường sang nước Nga, trực tiếp nhìn thấy những thành quả to lớn của Cách mạng Tháng Mười đem lại cho giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác, Người càng quyết tâm theo con đường đã chọn.

Sau khi tìm được con đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc trở về nước lãnh đạo nhân dân làm cách mạng giải phóng dân tộc, đúng như ước nguyện khi Người ra đi. Người thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, thành lập Mặt trận đoàn kết dân tộc, tổ chức lực lượng vũ trang, vận động nhân dân đấu tranh giành độc lập, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, giải phóng nhân dân lao động khỏi ách áp bức bóc lột của thực dân, phong kiến, đưa nhân dân lao động từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ, từng bước đưa đất nước lên chủ nghĩa xã hội để xóa bỏ tận gốc bóc lột, bất công. Thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo trong 15 năm đấu tranh giành chính quyền, trong 30 năm kháng chiến chống xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ 1976 đến nay, cũng như bài học thành công và chưa thành công của phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới trong thế kỷ XX đã khẳng định sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn.

Năm 1967, trong bài viết cho Báo Pravđa [Liên Xô] nhân kỷ niệm 50 năm Cách mạng Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát một số vấn đề có tính quy luật về cách mạng giải phóng dân tộc. Người chỉ rõ: “Trong thời đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới; cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Thắng lợi của cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của các dân tộc gắn liền với sự ủng hộ và giúp đỡ tích cực của phe xã hội chủ nghĩa và của phong trào công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa”[7].

Luận điểm "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản" là một luận điểm nền tảng của cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; định hướng phương hướng, đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 2 năm 1930, trong “Chánh cương vắn tắt của Đảng”, Đảng đã đề ra quan điểm "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Quan điểm này được Đảng ta phát triển trong Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930, đặc biệt là được thể hiện rất rõ trong Đại hội II của Đảng năm 1951, khẳng định cách mạng Việt Nam mang tính chất cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng tiếp tục khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản với việc xác định nhiệm vụ của cách mạng cả nước là xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, giải phóng miền Nam, đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội. Sau khi thống nhất đất nước, hoàn thành công cuộc giải phóng dân tộc, năm 1976, tại Đại hội IV Đảng ta chủ trương đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, bổ sung, phát triển năm 2011 của Đảng tiếp tục khẳng định con đường phát triển của dân tộc Việt Nam là đi lên chủ nghĩa xã hội; khẳng định mục tiêu lớn của thời đại là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”[8]. Việc Đảng ta kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là vì, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.

Bằng việc nêu lên luận điểm mang tầm chân lý thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm phong phú lý luận Mác - Lênin về cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin trở nên phổ biến đối với mọi dân tộc trên thế giới trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Trong bài “Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh”, nguyên Phó Giám đốc Học viện Chính trị - Trường Đảng Êtiôpia Têshôm Kêbêđe đã viết: “Những tư tưởng của Hồ Chí Minh có ảnh hưởng to lớn trong việc khuyến khích và cung cấp tri thức cho các lãnh tụ của giai cấp công nhân và các nhà cách mạng ở Á, Phi và Mỹ Latinh giải quyết một cách triệt để vấn đề dân tộc”[9].

Hiện nay, tuy cách mạng vô sản thế giới đang đứng trước những thách thức to lớn do sự chống phá quyết liệt của chủ nghĩa tư bản; không ít dân tộc gặp khó khăn trong việc chọn định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội do tác động tiêu cực của tình hình sau khi Liên Xô tan rã, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ. Tuy vậy, nhiều nước ở châu Á, Phi, Mỹ Latinh vẫn giương ngọn cờ độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội dưới nhiều hình thức. Trong khi một số mô hình chủ nghĩa xã hội ở một số nước Đông Âu sụp đổ, một số mô hình chủ nghĩa xã hội mới - sản phẩm của quá trình đổi mới chủ nghĩa xã hội - như Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba với những thành tựu to lớn, khẳng định sức sống của chủ nghĩa xã hội đổi mới, trở thành tấm gương sáng để các dân tộc khác noi theo. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của các dân tộc dù có khó khăn, phức tạp, nhưng theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định tiến tới chủ nghĩa xã hội.

Chủ nghĩa tư bản đã từng có vai trò lịch sử trong các thế kỷ trước, cho dù hiện nay vẫn còn khả năng tồn tại do biết lợi dụng sự phát triển khoa học kỹ thuật, công nghệ và bóc lột các nước thuộc thế giới thứ ba, nhưng nó đã bộc lộ những khiếm khuyết và mâu thuẫn nội tại không thể giải quyết; đã và đang bộc lộ những hạn chế không thể khắc phục nổi trong việc giải quyết các vấn đề dân tộc, giai cấp, vấn đề xóa bỏ chế độ người bóc lột người, chiến tranh, bảo vệ môi trường, bảo đảm công bằng, bình đẳng xã hội, chăm lo phát triển con người, giữ gìn bản sắc văn hóa của các dân tộc. Do bản chất của mình, ngày nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn không từ bỏ chính sách thực dân xâm lược với nhiều biến tướng mới rất tinh vi và xảo quyệt nhằm bóc lột các nước kém phát triển, chậm phát triển. Những cuộc chiến tranh và can thiệp quân sự của các nước phương Tây vào các quốc gia độc lập có chủ quyền trong những thập niên 90 của thế kỷ XX và thập niên đầu của thế kỷ XXI, đặc biệt gần đây, cuộc tấn công quân sự của Liên quân do NATO lãnh đạo chống Libi, cho dù cố che đậy với những lý do gì, thì về thực chất vẫn là các cuộc xâm lược nhằm mục đích phân chia lại thị trường thế giới, giành giật tài nguyên, môi trường, duy trì hoặc áp đặt ảnh hưởng của họ lên các nước đang lựa chọn con đường phát triển của dân tộc mình, ngăn cản quá trình vận động, phát triển lên chủ nghĩa xã hội của các quốc gia đã giành được độc lập, buộc các quốc gia này phải phụ thuộc vào chủ nghĩa tư bản.

Bài học lịch sử trong thế kỷ XX và thập kỷ đầu của thế kỷ XXI cảnh tỉnh chúng ta rằng, còn chủ nghĩa tư bản là còn nguy cơ bị xâm lược; độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, sự thống nhất đất nước còn bị đe dọa. Do đó, chủ nghĩa tư bản quyết không phải là sự lựa chọn của nhân loại trong thời đại ngày nay. Chỉ có đi theo con đường cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội thì độc lập dân tộc mới được giữ vững, nhân dân lao động mới được giải phóng thực sự. Đó cũng chính là chân lý thời đại mà cách đây 100 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lĩnh hội được ở chủ nghĩa Mác - Lênin trên hành trình đi tìm đường cứu nước, cứu dân của mình.

[1] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 1, tr. 266.

[2] Khi viết bản Yêu sách của nhân dân An Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, tên Nguyễn Ái Quốc được dùng từ đó.

[3] Hồ CHí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 1, tr. 416.

[4] Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb ST, H. 1975, tr. 33.

[5] Trường Chinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh - Sự nghiệp vĩ đại, gương sáng đời đời, Nxb ST, H. 1980, tr. 11.

[6] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 10, tr. 128.

[7] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 12, tr. 304-305.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 70.

[9] Dẫn theo sách "Hồ Chí Minh - Một người châu Á của mọi thời đại”, Nxb CTQG, H. 2010, tr. 218.

Video liên quan

Chủ Đề