Tính giai cấp của triết học là gì

So với phạm trù ý thức, khái niệm ý thức xã hội có nội dung [nội hàm] và phạm vi bao quát [ngoại diên] nhỏ hơn. Việc nghiên cứu khái niệm ý thức xã hội sẽ giúp chúng ta có thêm nhiều cơ sở để nhận diện xã hội chúng ta đang sinh sống, học tập và lao động.

I. Khái niệm

Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, bao gồm những quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống… nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.

Ta cần thấy rõ sự khác nhau tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân.

Ý thức cá nhân là thế giới tinh thần của những con người riêng biệt, cụ thể [tôi, anh, cậu ta]. Ý thức của các cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội với những mức độ khác nhau. Do đó, nó hiển nhiên là mang tính xã hội.

Song, ý thức cá nhân không phải bao giờ cũng thể hiện quan điểm, tư tưởng, tình cảm phổ biến của một cộng đồng, một tập đoàn xã hội, một thời đại xã hội nhất định.

Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng với nhau, thâm nhập vào nhau và làm phong phú cho nhau.

Ý thức xã hội gồm những hiện tượng tinh thần, những bộ phận, những hình thái khác nhau phản ánh tồn tại xã hội bằng những phương thức khác nhau.

II. Kết cấu của ý thức xã hội

Tùy theo góc độ xem xét, ta có thể phân loại ý thức xã hội thành những dạng thức sau đây:

1. Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận

– Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của con người hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hóa, khái quát hóa.

– Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hóa, khái quát hóa thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy luật

– Ý thức xã hội thông thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt cuộc sống hàng ngày, thường xuyên chi phối cuộc sống đó. Trình độ ý thức thông thường tuy thấp hơn ý thức lý luận, nhưng tri thức kinh nghiệm phong phú của nó là tiền đề quan trọng cho sự hình thành các lý thuyết khoa học.

Ý thức lý luận [lý luận khoa học] có khả năng phản ánh hiện thực khách quan một cách khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra mối liên hệ bản chất của các sự vật, hiện tượng.

2. Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng

2.1. Tâm lý xã hội

– Tâm lý xã hội là khái niệm chỉ toàn bộ tình cảm, ước muốn, thói quen, tập quán… của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó.

Đặc điểm của tâm lý xã hội:

+ Phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sống hàng ngày của con người;

+ Là sự phản ánh co tính tự phát, thường ghi lại những mặt bề ngoài của tồn tại xã hội;

+ Không có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối quan hệ xã hội của con người.

+ Còn mang tính kinh nghiệm, chưa được thể hiện về mặt lý luận, còn yếu tố trí tuệ thì đan xen với yếu tố tình cảm.

– Tuy nhiên, không thể phủ nhận vai trò quan trọng của tâm lý xã hội trong sự phát triển của ý thức xã hội.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin rất coi trọng nghiên cứu trạng thái tâm lý xã hội của nhân dân để hiểu nhân dân, giáo dục nhân dân, đưa nhân dân thamg gia tích cực, tự giác vào cuộc đấu tranh cho một xã hội tốt đẹp hơn.

2.2. Hệ tư tưởng

– Hệ tư tưởng là khái niệm chỉ trình độ cao của ý thức xã hội, được hình thành khi con người nhân thức sâu sắc về những điều kiện sinh hoạt vật chất của mình.

Đặc điểm của hệ tư tưởng:

+ Được hình thành khi con người nhận thức sâu sắc về sự vật, hiện tượng;

+ Có khả năng đi sâu vào bản chất các mối quan hệ xã hội;

+ Được hình thành tự giác bởi các nhà tư tưởng của những giai cấp nhất định và truyền bá trong xã hội.

+ Hệ tư tưởng là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống những quan điểm, tư tưởng [chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo…], kết quả sự khái quát hóa những kinh nghiệm xã hội.

– Cần phân biệt hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng không khoa học, thậm chí phản động. Hệ tư tưởng không khoa học tuy cũng phản ánh các mối quan hệ vật chất của xã hội nhưng dưới một hình thức sai lầm, hư ảo, xuyên tạc.

– Với tính cách là một bộ phận của ý thức xã hội, hệ tư tưởng ảnh hưởng lớn đến sự phát triển khoa học. Lịch các khoa học tự nhiên đã cho thấy tác dụng quan trọng của hệ tư tưởng, đặc biệt là tư tưởng triết học, đối với quá trình khái quát những tài liệu khoa học.

2.3. Mối quan hệ giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng

Tuy là hai trình độ, hai phương thức phản ánh khác nhau của ý thức xã hội, nhưng tâm lý xã hội và hệ tư tưởng có mối liên hệ tác động qua lại với nhau. Chúng có chung nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã hội.

– Tâm lý xã hội có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc cản trở cho sự hình thành, truyền bá, sự tiếp thu của con người đối với một hệ tư tưởng nhất định.

Mối liên hệ chặt chẽ giữa hệ tư tưởng [đặc biệt là hệ tư tưởng khoa học, tiến bộ] với tâm lý xã hội, với thực tiễn cuộc sống hết sức sinh động và phong phú sẽ giúp cho hệ tư tưởng xã hội, cho lý luận bớt xơ cứng, bớt sai lầm.

– Trái lại, hệ tư tưởng, lý luận xã hội làm gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm lý xã hội. Hệ tư tưởng khoa học thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng đúng đắn, lành mạnh có lợi cho tiến bộ xã hội.

Hệ tư tưởng phản khoa học, phản động kích động những yếu tố tiêu cực của tâm lý xã hội.

– Tuy nhiên, hệ tư tưởng không ra đời trực tiếp từ tâm lý xã hội, không phải là sự biểu hiện trực tiếp của tâm lý xã hội.

Bất kỳ tư tưởng nào khi phản ánh các mối quan hệ đương thời thì đồng thời cũng kế thừa những học thuyết xã hội, những tư tưởng và quan điểm đã tồn tại trước đó.

Ví dụ: Hệ tư tưởng Mác – Lênin không trực tiếp ra đời từ tâm lý xã hội của giai cấp công nhân lúc đó đang tự phát đấu tranh chống giai cấp tư sản, mà là sự khái quát lý luận từ tổng số những tri thức của nhân loại, từ những kinh nghiệm của cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, và kế thừa trực tiếp các học thuyết kinh tế, xã hội và triết học vào cuối thể kỷ 18, đầu thế kỷ 19.

Như vậy, hệ tưởng liên hệ hữu cơ với tâm lý xã hội, chịu sự tác động của tâm lý xã hội, nhưng nó không phải đơn giản là sự “cô đặc” của tâm lý xã hội.

Ý thức xã hội là mặt tinh thần của tồn tại xã hội. Ảnh: Listsach.com.

III. Tính giai cấp của ý thức xã hội

– Trong xã hội có giai cấp, do các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật chất khác nhau, những lợi ích khác nhau do địa vị xã hội mỗi giai cấp quy định, nên ý thức xã hội của các giai cấp có nội dung và hình thức phát triển khác nhau hoặc đối lập nhau.

– Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở tâm lý xã hội, cũng như ở hệ tư tưởng xã hội.

+ Về mặt tâm lý xã hội, mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, thói quen riêng, có thiện cảm hay ác cảm với tập đoàn xã hội này hay tập đoàn xã hội khác.

+ Ở trình độ hệ tư tưởng thì tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện sâu sắc hơn nhiều. Trong xã hội có đối kháng giai cấp bao giờ cũng có những tư tưởng hoặc hệ tư tưởn đối lập nhau: Tư tưởng của gia cấp bóc lột và bị bóc lột, của giai cấp thống trị và bị thống trị.

– Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị ở thời đại đó.

Nếu hệ tư tưởng của giai cấp bóc lột thống trị ra sức bảo vệ địa vị của giai cấp đó, thì hệ tư tưởng của giai cấp bị trị, bị bóc lột thể hiện nguyện vọng và lợi ích của quần chúng lao động chống lại xã hội người bóc lột người, xây dựng một xã hội công bằng không có áp bức, bóc lột.

– Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ tư tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân, ngọn cờ giải phóng của quần chúng bị áp bức, bóc lột, phản ánh tiến trình khách quan của sự phát triển lịch sử.

Hệ tư tưởng Mác – Lênin đối lập với hệ tư tưởng tư sản – hệ tư tưởng bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, bảo vệ chế độ người bóc lột người. Cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản từ hàng thế kỷ nay diễn ra gay gắt trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực hệ tư tưởng.

– Trong điều kiện xã hội ngày nay, cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực ý thức hệ vẫn đang tiếp tục diễn ra. Các thế lực thù địch đang không ngừng tấn công vào chủ nghĩa Mác – Lênin, muốn phủ nhận, xóa bỏ nó.

Do vậy, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện thế giới ngày nay là một nhiệm vụ quan trọng của cuộc đấu tranh vì mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

– Khi khẳng định tính giai cấp của ý thức xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng, ý thức của các giai cấp trong xã hội có sự tác động qua lại với nhau.

+ Trong xã hội có áp bức giai cấp, các giai cấp bị trị do bị tước đoạt tư liệu sản xuất, phải chịu sự áp bức về vật chất nên không tránh khỏi bị áp bức về tinh thần, không tránh khỏi ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị.

Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của tư tưởng giai cấp thống trị đối với xã hội tùy thuộc vào trình độ phát triển ý thức cách mạng của giai cấp bị trị.

+ Giai cấp thống trị cũng chịu ảnh hưởng của giai cấp bị trị. Ở thời kỳ đấu tranh cách mạng phát triển mạnh, thường có một số người trong giai cấp thống trị, nhất là những trí thức tiến bộ, từ bỏ giai cấp xuất thân chuyển sang hàng ngũ giai cấp cách mạng và chịu ảnh hưởng của tư tưởng giai cấp đó.

Đặc biệt, một số người đã trở thành nhà tư tưởng của giai cấp cách mạng.

– Trong xã hội có phân chia giai cấp thì ý thức cá nhân, về bản chất, là biểu hiện mức độ này hay mức độ khác ý thức giai cấp.

Điều này là do địa vị và những điều kiện sinh hoạt vật chất chung của giai cấp quyết định.

Nhưng mỗi cá nhân lại có những hoàn cảnh sinh sống riêng, như hoàn cảnh giáo dục, trường đời, tư tưởng chính trị tiếp thu được khi sống trong môi trường gia đình, bạn bè, đồng nghiệp…, nên ý thức của mỗi người vừa biểu hiện ý thức giai cấp, vừa mang những đặc điểm cá nhân, tạo thành cá tính và nhân cách riêng, khác với cá nhân khác cùng giai cấp.

Tuy nhiên, nếu quá nhấn mạnh điều kiện sinh hoạt của cá nhân, thổi phồng mặt cá nhân, thì sẽ dẫn tới hiểu sai bản chất của ý thức cá nhân. Ta phải chú ý mối quan hệ biện chứng giữa ý thức giai cấp và ý thức cá nhân.

– Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội không chỉ mang dấu ấn những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp, mà còn phản ánh những điều kiện sinh hoạt chung của dân tộc: Những điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, điều kiện tự nhiên… hình thành trong quá trình phát triển lâu dài của dân tộc.

Vì vậy, trong ý thức xã hội, ngoài tâm lý và hệ tư tưởng xã hội của giai cấp, còn bao gồm tâm lý dân tộc, tình cảm, ước muốn, tập quán, thói quen, tính cách… của dân tộc, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác tạo thành truyền thống dân tộc.

Tâm lý dân tộc tuy phản ánh những điều kiện sinh hoạt chung của dân tộc và mang tính chất toàn dân tộc, nhưng có mối liên hệ hữu cơ với ý thức giai cấp. Giai cấp cách mạng, tiến bộ phát huy những giá trị tinh thần của dân tộc, ngược lại những tư tưởng của giai cấp phản động mâu thuẫn sâu sắc với những giá trị đó.

Giai cấp công nhân được vũ trang bằng hệ tư tưởng Mác – Lênin luôn luôn quan tâm sâu sắc đến việc bảo vệ và phát triển những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

8910X.com

Nếu còn điều gì chưa rõ, bạn hãy để lại câu hỏi ở phần comment để bọn mình có thể giải đáp khi thời gian cho phép nhé!

Bài liên quan:

  • //tuyengiaoangiang.vn/index
  • //123doc.net/document

Video liên quan

Chủ Đề