Tứ như ý túc là gì năm 2024

Tứ thần túc [四神足, sa. catvāra ṛddhipādāḥ, pi. cattāro iddhi-pādā, bo. rdzu `phrul gyi rkang pa bzhi རྫུ་འཕྲུལ་གྱི་རྐང་པ་བཞི་], cũng gọi là Tứ như ý túc [四如意足], Tứ như ý phần [四如意分] là khoa thứ ba đứng sau Tứ niệm xứ và Tứ chánh cần trong 7 khoa của 37 phẩm trợ đạo, là bốn pháp thiền định, bốn thứ phương tiện giúp hành giả thành tựu các tam-ma-địa [samadhi]. Thần là chỉ cho cái đức linh diệu; túc là chỉ cho định là nền tảng chỉ nơi nương tựa để phát sinh quả đức linh diệu.

Bốn bước này được xem là bốn loại thiền định [zh. 四種禪定] nhưng có nhiều loại định nghĩa khác nhau. Bốn loại định đó là dục làm chủ sẽ đắc định, tinh tấn làm chủ sẽ đắc định, tâm làm chủ sẽ đắc định, tư duy làm chủ sẽ đắc định. Nhờ sức mạnh của bốn pháp này dẫn phát các loại thần dụng mà sản sinh ra tam-ma-địa [chánh định]. Sau đây là một cách phân loại.

  1. Dục thần túc [zh. 欲神足, sa. chanda-ṛddhi-pāda, bo. `dun pa`i rdzu `phrul gyi rkang pa འདུན་པའི་རྫུ་འཕྲུལ་གྱི་རྐང་པ་], gọi đầy đủ là Dục tam-ma-địa đọan hành thành tựu thần túc [Srt: chanda-samādhi-prahāṇa-saṃskāra-samannāgata-ṛddhi-pāda, Pāli: chanda-samādhi-padhāna-saṃkhāra-samannāgata-iddhi-pāda], thiền định phát sanh do năng lực của ý muốn, tư tưởng mà đạt được thần thông. Dục ở đây chỉ cho ước muốn, mong cầu một cách thiết tha, mong muốn đạt được những gì mình chưa có; hay mong cầu và tìm cách đạt được những sở nguyện.
  2. Cần thần túc [zh. 勤神足, sa. vīrya-ṛddhi-pāda, bo. brtson `grus kyi rdzu `phrul gyi rkang pa བརྩོན་འགྲུས་ཀྱི་རྫུ་འཕྲུལ་གྱི་རྐང་པ་], còn gọi là Tinh tấn thần túc gọi đầy đủ là Tinh tấn tam-ma-địa đọan hành thành tựu thần túc [Srt: virya-samādhi-prahāṇa-saṃskāra-samannāgata-ṛddhi-pāda, Pāli: virya-samādhi-padhāna-saṃkhāra-samannāgata-iddhi-pāda], là thiền định phát sanh nhờ vào sức tinh tấn nỗ lực tu tập. Khi đã có mong cầu thì phải tinh tấn nổi lực để tu tập làm thiện, đoạn trừ các ác.
  3. Tâm thần túc [zh. 心神足, sa. citta-ṛddhi-pāda, bo. bsam pa`i rdzu `phrul gyi rkang pa བསམ་པའི་རྫུ་འཕྲུལ་གྱི་རྐང་པ་], gọi đủ là tâm tam-ma-địa đọan hành thành tựu thần túc [Srt: citta-samādhi-prahāṇa-saṃskāra-samannāgata-ṛddhi-pāda, Pāli: citta-samādhi-padhāna-saṃkhāra-samannāgata-iddhi-pāda], là thiền định phát sinh nhờ sức mạnh của tâm niệm. Một lòng chuyên tâm nhất niệm trụ nương vào sức mạnh của tâm, nên định dẫn phát sanh [thiền định do tâm niệm phát sanh].
  4. Quán thần túc [zh. 觀神足, sa. mīmāṃsa-ṛddhi-pāda, bo. dpyod pa`i rdzu `phrul gyi rkang pa དཔྱོད་པའི་རྫུ་འཕྲུལ་གྱི་རྐང་པ་], gọi đủ là quán tam-ma-địa đọan hành thành tựu thần túc [Srt: vīmāṃsā-samādhi-prahāṇa-saṃskāra-samannāgata-ṛddhi-pāda, Pāli: vīmaṃsā-samādhi-padhāna-saṃkhāra-samannāgata-iddhi-pāda], là thiền định phát sinh nhờ sức mạnh tư duy quán sát Phật lý, nương vào sức mạnh tư duy quán sát nên phát sanh sức định.

Theo Pháp giới thứ đệ sơ môn do Trí Khải, quyển trung, phần cuối, thì y theo tứ niệm xứ và tứ chánh cần thì thiên trọng về Huệ mà thiếu định, nay lại tu thêm tứ thần túc, thì định huệ cân bằng, ở nguyện thành tựu, nên gọi là Tứ như ý túc.

Đại tì-bà-sa luận giải thích thần túc: những sự mong cầu đều được như ý, gọi là thần. Nương nhờ vào năng lực của dục và cần [muốn và chuyên cần] mà được đẳng trì [định], lại nương nơi đẳng trì mà phát sanh thần dụng nên gọi là tứ như ý túc, nhờ tu tập tứ thần túc mà thành tựu sở nguyện. là bốn pháp làm nền tảng, nơi nương tựa phát sinh ra các thứ công đức thiền định cho hành giả và, kết quả của chúng theo như ước muốn của người tu tập.

Câu-xá luận quyển thứ 25 viết: "Các công đức vi diệu thù thắng đều nương nơi bốn pháp này mà định được thành tựu...trong bốn thiện căn vị thì đảnh vị có thể tu đắc tứ thần túc".

Sau khi đã nhận rõ được chân tướng của cõi đời [Tứ niệm xứ], đã quyết tâm bỏ ác theo thiện [Tứ Chánh cần], hành giả muốn đi xã trên đường đạo, cần phải vạch cho mình một hướng tiến nhất định và phải có một thái độ quyết tâm nhắm theo đúng hướng đã vạch mà đi, không nhìn ngang nhìn ngửa, không mong ước cái này cái khác. Hành giả chí quyết đi một đường, tập trung tất cả mong ước, chí nguyện, ý chí, năng lực tinh thần của mình vào đó đến khi được toại nguyện như ý mới thôi.

Muốn được như thế, hành giả phải tu theo pháp môn "Tứ Như ý túc", một trong những pháp môn của Ðạo đế dưới đây.

  1. Chánh Ðề
  1. Ðịnh Nghĩa Tứ Như Ý Túc

Tứ Như ý túc là bốn phép thiền định. Nói cho rõ đó là bốn phươngtiện giúp chúng ta thành tựu các tam ma địa Samadhi: [chánh định], vì thế nên cũng gọi là định pháp. "Như ý" là được như ý mình muốn. "Túc" là chân, có nghĩa nương tựa mà cũng có nghĩa là đầy đủ. Tứ Như ý túc, có nghĩa là bốn phép làm nơi nương tựa cho các công đức thiền định, thần thông được thành tựu mỹ mãn như ý muốn của mình. Bởi lý do ấy, nên cũng gọi nó bằng tên Tứ thần túc. Luận Câu xá quyển 25 có nói: "Vì sao định mà gọi là thần túc? Vì các công đức lỉnh diệu thù thắng đều nương nơi bốn định này mà được thành tựu".

Bốn định ấy là:

Dục Như ý túc

Tinh tấn Như ý túc

Nhất tâm Tứ Như ý túc

Quán Như ý túc.

II. Thành Phần Và Nội Dung Của Tứ Như Ý Túc

1. Dục như ý túc: Dục là mong muốn. Mong muốn một cách thiết tha, mong muốn cho kỳ được, mong muốn cho đến khi mãn nguyện mới thôi. Ðó gọi là dục như ý túc. Nhưng mong muốn cái gì? Tại sao đã là Phật tử mà còn "dục", còm mong muốn?

Trước tiên, chúng ta nên nhận định rõ ràng tánh chất của sự mong muốn ở đây. Có thứ mong muốn thỏa mãn những thú tánh, những tham vọng, đó là mong muốn tội lỗi, nên diệt trừ. Có thứ mong muốn hướng thượng, trong lành, như mong muón sống một cuộc đời đẹp đẽ, thanh cao, mong muốn được giải thoát ra ngoài biển khổ sanh tử, đó là thứ mong muốn hợp lý, đáng khuyến khích. Người Phật tử mong muón được thành đạt pháp tiền định mình đang tu, để tiến lên chứng các Thánh quả. Thứ mong muốn này rất cần cho người tu hành; nếu không mong muốn thiết tha, mãnh liệt thì khó mà đi đến đích giải thoát được. Ðây cũng là một sự cải chính rất hùng hồn để đánh tan quan niệm sai lầm cho rằng: người Phật tử phải diệt dục, mà diệt dục nghĩa là diệt tất cả, diệt luôn cả sự sống. Thật ra diệt dục ở đây tức là dực vọng, diệt những phần ham muốn xấu xa đê hèn, làm cho con người bị đọa xuống hàng thấp thỏi như loài sức sanh, địa ngục, chứ đâu có diệt luôn cả những chí nguyện, những mong ước, những đức tánh tốt đẹp của con người. Sự mong muốn say nầy, người Phật tử không bào giờ lãnh quên, trái lại họ trút cả tâm tư hướng về cái đích mình đang nhắm, những pháp mình đang tu. Người thế gian ưa thích vật dục mạnh mẽ như thế nào, thì người tu hành mong muốn thành tựu những pháp thiền định của mình cũng mạnh mẽ như thế ấy. Có như thế, hành giả mới tăng tiến mãi trên bước đường tu hành của mình.

2. Tinh tấn như ý túc: Tinh tấn là dũng mãnh, chuyên nhất vào pháp thiền định mình đang tu. Phần trên chỉ mới là sự ước muốn. Sự ước muốn dù đẹp đẽ bao nhiêu mà không ra công, gắng sức, luôn luôn bền tâm vững chí, nghĩa là thiếu sự Tinh tấn dũng mãnh, thì ước muốn muôn đời cũng chỉ là ước muốn suông mà thôi.

Chúng ta nên nhớ rằng: Tinh tấn không phải chỉ là sự hắng hái, bồng bột trong chốc lát, như sự ồ ạt, bốc cháy của ngọn lửa rơm. Tinh tấn là nghị lực tu tập mạnh mẽ, thường hằng, không bao giờ gián đoạn. Trong kinh Di Giáo đức Thế Tôn có dạy: "...Như người kéo cây lấy lửa, cây chưa nóng đã thôi, tuy muốn được lửa, nhưng khó thể được".

Vậy người muốn chứng đạo quả, phải thường Tinh tấn đầy đủ như ý mình ước nguyện.

3. Nhất tâm như ý túc: Nhất tâm là tâm chuyên nhất vào định cảnh, không bào giừo tán loạn. Một con sông lớn, nếu bị chia nhiều ngành tất nhiên sức chảy của nó bị yếu. Trái lại, một giòng suối nhỏ, nếu chỉ chảy một đường, cũng đủ sức xoi thủng đá. Người tu hành, tâm được chuyên nhất, không bị tán loạn, thì muôn sự đều thành. Phật có dạy: "như người chứa nước, khéo giữ bờ đê, người tu hành giữ nước trí tuệ cũng vậy, phải khéo tu thiền định, chớ cho tán động".

4. Quán như ý túc: Quán nghĩa là dùng trí tuệ sáng suốt quán sát pháp mình đang tu. Quán trí ấy do định mà phát sanh, trí ấy là tịnh trí. Vì tịnh cho nên nó có thể như thật thông đạt thật nghĩa [chân lý] của các pháp [vũ trụ].

  1. Kết Luận

Tóm Tắt Ý Nghĩa Và Diệu Dụng Của Tứ Như ý Túc

Sở dĩ Dục, Tinh tấn, Nhất tâm và Quán đều được gọi là như ý túc, vì chúng ta là những thứ để cho tất cả công đức tu hành, thần lực nương vào đó mà phát sanh, hợp như ý muốn của hành giả.

Bốn phép nầy như bốn nấc thanh kế tiếp theo nhau, để đưa hanh giả từ cái nhân hữu lậu mê mờ, đến cái nhân vô lậu giải thoát: Trước hết, do tu tâm hằng mong muốn [Dục], cho nên sự tu tập dũng mãnh [Tinh tấn]; nhờ sự tu tập dũng mãnh, nên phiền não tiêu, tán động hết, do đó tam được chuyên nhất [Nhất tâm], nhờ tâm chuyên nhất nên quán trí được thanh tịnh mãnh lợi [Quán], và có năng lực phá tan cội gốc vô minh.

Khi vô minh hết, thì vô số nghiệp chướng phải tiêu, hằng sa trí đức phát hiện. Người tu hành, khi trí tuệ và công đức viên mãn tức khắc đày đủ vô biên thần dụng trong sự hiện thân, hiện độ để cứu khổ chúng sanh, chứ đâu có phải chỉ khi chứng được lục thông mới được tự tại?

Chủ Đề