Vì sao cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 Nhật Bản thoát khỏi số phận một nước thuộc địa của phương Tây

Bối cảnh Nhật Bản giữa thế kỷ XIX

Vào thời gian từ năm 1603 đến năm 1868, ở Nhật tồn tại chế độ Mạc phủ, được cai quản bởi các đại tướng quân nhà Tokugawa. Chế độ này tồn tại khá nhiều lỗ hổng nên sinh ra những bất bình và dẫn đến các cuộc nổi loạn ở nhân dân. Ngày 8 tháng 7 năm 1853, quân đội Mỹ đã nổ súng vào vịnh Edo, yêu cầu Nhật Bản phải mở cửa cho phương Tây. Đến năm 1958, sau hàng loạt các hiệp ước bất bình đẳng giữa Mỹ và Nhật, họ phải đối mặt với lực lượng thù địch trong và ngoài nước. Năm 1867, Thiên hoàng Minh Trị [Mutsuhito] kế vị vua cha khi chỉ vừa 15 tuổi. Lúc này, Thiên hoàng chỉ là bù nhìn của phe chống Mạc phủ. Sau khi lật đổ được chế độ Mạc phủ, các công thần nắm giữ quyền lực, cải cách đất nước theo hướng Tư Bản Chủ Nghĩa. Sau đó, Thiên hoàng Minh Trị bắt đầu đứng lên giành lại quyền đích thân chấp chính và thực hiện cuộc cải cách Minh Trị, xóa bỏ chế độ phong kiến Nhật Bản.


Mục lục

Mục lục

Bối cảnh và Danh hiệuSửa đổi



Lịch sử Nhật Bản
Tiền sử
Thời kỳ đồ đá cũ ~15000 TCN
Thời kỳ Jōmon [Thằng Văn] ~15000 TCN–300 TCN
Thời kỳ Yayoi [Di Sinh] tk 4 TCN–tk 3
Cổ đại
Thời kỳ Kofun [Cổ Phần] tk 3–tk 7
Thời kỳ Asuka [Phi Điểu] 592–710
Thời kỳ Nara [Nại Lương] 710–794
Thời kỳ Heian [Bình An] 794–1185
Phong kiến
Thời kỳ Kamakura [Liêm Thương] 1185–1333
Tân chính Kemmu [Kiến Vũ] 1333–1336
Thời kỳ Muromachi [Thất Đinh] 1336–1573
  Thời kỳ Nam-Bắc triều 1336–1392
  Thời kỳ Chiến Quốc 1467–1590
Thời kỳ Azuchi-Momoyama [An Thổ-Đào Sơn] 1573–1603
Thời kỳ Edo/Tokugawa [Giang Hộ/Đức Xuyên]1603–1868
Hiện đại
Thời kỳ Minh Trị [Meiji] 1868–1912
Thời kỳ Đại Chính [Taishō] 1912-1926
Thời kỳ Chiêu Hòa [Shōwa] 1926–1989
  Thời kỳ bị chiếm đóng 1945-1952
Thời kỳ Bình Thành [Heisei] 1989–2019
Thời kỳ Lệnh Hòa [Reiwa] 2019–nay
Xem thêm
Thiên hoàng • Niên biểu • Đế quốc Nhật Bản
Kinh tế • Giáo dục • Quân sự • Hải quân
  • x
  • t
  • s
Cờ chính thức của Đế quốc Nhật Bản
Cờ Hải quân Đế quốc Nhật Bản

Khoảng thời gian trong lịch sử bao gồm các thời kỳ Minh Trị, Đại Chính và Chiêu Hòa. Những thiên hoàng trong giai đoạn này gồm có Thiên hoàng Minh Trị [húy Mutsuhito], Thiên hoàng Đại Chính [Yoshihito] và Thiên hoàng Chiêu Hòa [Hirohito].

Những biến cố quan trọng của thời kỳ này:

  • 3 tháng 1 năm 1868: Phục hồi quyền lực của thiên hoàng [王政復古の大号令]
  • 3 tháng 5 năm 1868: Sự sụp đổ của chế độ Đức Xuyên Mạc phủ [Tokugawa Bakufu - 徳川幕府]
  • 29 tháng 8 năm 1871: Hủy bỏ giai cấp lãnh chúa địa phương [廃藩置県]
  • 29 tháng 11 năm 1890: Ban hành Hiến pháp Đế quốc Nhật Bản
  • Nhật Bản phát triển nhanh chóng về mặt kỹ nghệ và quân sự, trở thành một cường quốc
  • Chiến tranh thế giới thứ hai: Đế quốc Nhật Bản tham chiến theo các hiệp ước liên minh với khối Trục, xâm chiếm nhiều nước, lãnh thổ khắp châu Á và Thái Bình Dương.
  • 2 tháng 9 năm 1945: Nhật Bản đầu hàng phe Đồng Minh.
  • 3 tháng 5 năm 1947: Ban hành Hiến pháp của Nhà nước Nhật Bản [giải thể Đế quốc Nhật Bản].

Theo hiến pháp, Đế quốc Nhật Bản khởi đầu từ 29 tháng 11 năm 1890 - sau cuộc cải cách chính trị phục hưng đem quyền lực cai trị cả nước Nhật về tay Thiên hoàng Minh Trị - và giải thể hệ thống Mạc phủ Tokugawa. Tuy vậy, chính sách đế quốc bắt đầu trước đó, từ năm 1871, khi Nhật chú trọng việc bảo vệ lãnh thổ và đồng thời phát huy quân sự dòm ngó các nước láng giềng. Thời đại đế quốc kéo dài qua ba triều đại: Minh Trị [1868 - 1912], Đại Chính [1912 - 1926] và 21 năm đầu [1927 - 1945] của Chiêu Hòa [Thiên hoàng Hirohito trị vì cho đến 1989].

Đế quốc Nhật Bản, Phát xít Ý và Đức Quốc xã nằm trong khối Trục trong Chiến tranh thế giới thứ hai, cả ba đều có chủ trương làm bá chủ toàn cầu. Trước cuộc chiến này, hải quân Nhật thuộc hạng mạnh bậc nhất thế giới, đủ sức cạnh tranh với Hải quân Anh và Hải quân Hoa Kỳ, còn lục quân Nhật tuy trang bị kém hơn nhưng cũng đủ để lấn át quân Trung Quốc. Sau năm 1940, khi kỹ nghệ phát triển vượt bậc và quân lực tăng cường tối đa, Nhật bắt đầu đặt kế hoạch xâm lăng các nước láng giềng - Trung Quốc và Đông Nam Á.

Lịch sửSửa đổi

Thiên hoàng Minh Trị, vị Thiên hoàng đầu tiên của Đế quốc Nhật Bản [1868-1912]

Cội nguồn của Đại Nhật Bản Đế quốc bắt đầu từ cuộc khôi phục hoàng quyền vào năm 1868. Đây là một cuộc thay đổi chính trị rất lớn trong lịch sử Nhật Bản. Trước đó, Mạc phủ Tokugawa lấn át Thiên hoàng, nắm mọi quyền hạn trong tay cai trị các đảo của Nhật Bản, bế môn tỏa cảng, chú tâm trùng tu xây dựng văn hóa, nghệ thuật. Lúc bấy giờ, các thế lực đế quốc Tây phương như Hoa Kỳ, Anh Quốc, Đức và Hà Lan đang nỗ lực lấn chiếm các nước châu Á. Do sức ép của thay đổi bên ngoài, chính quyền Nhật Bản phải chịu ký hiệp ước "bất bình đẳng" với Hoa Kỳ tại Kanagawa. Dân chúng Nhật lấy làm bất mãn khi thấy Nhật chịu yếu thế.

Fukuzawa Yukichi

Fukuzawa Yukichi, một nhà tư tưởng Nhật, đưa ra kế hoạch cải tiến Nhật Bản bằng cách thay đổi hoàn toàn hệ thống chính trị, bỏ những tư tưởng Á châu hủ lậu, dồn sức canh tân kỹ nghệ để theo kịp Tây phương, và đồng thời mở rộng tầm ảnh hưởng Nhật đối với các nước láng giềng. Fukuzawa Yukichi thúc đẩy Nhật Bản vào đường lối chính trị thực tiễn, xa rời những tư tưởng có tính chất tình cảm hay lý tưởng không thực. Ông kêu gọi dân Nhật thoát khỏi vòng suy nghĩ Á châu, học hỏi theo Tây phương, biện minh rằng xã hội muốn theo kịp văn minh phải thay đổi theo thời gian và hoàn cảnh. Ông viết:

"Văn minh lây giống như bệnh sởi. Nó còn hay hơn bệnh sởi vì nó đem lại nguồn lợi".

Ông đòi hỏi dân Nhật phải ráng "nếm mùi văn minh" - đó là văn minh Tây phương - và chấp nhận thay đổi. Fukuzawa Yukichi phát huy tinh thần tự tin, tự tạo sức mạnh thể chất và giáo dục của từng cá nhân. Trong vòng 30 năm, nước Nhật thay đổi nhanh chóng và trở thành một trong các đại cường quốc trên thế giới.

Tuy nhiên, Fukuzawa cũng thể hiện tư tưởng có phần quá khích trong quan hệ với nước châu Á láng giềng. Ông viết: "Giờ đây nếu phải chờ nhà Thanh lẫn Triều Tiên đều cận đại hóa để cùng có một châu Á phồn vinh thì e không kịp nữa. Nhật Bản phải thoát ra khỏi Á châu ngay và sẽ tiếp cận với nhà Thanh và Triều Tiên với cùng một tư thế như các nước Âu - Mỹ mới được". Điều đó có nghĩa là ông khuyên Nhật Bản cũng phải gia nhập vào nhóm các nước đang cạnh tranh xâm chiếm thuộc địa ở vùng Đông Á như Âu - Mỹ. 20 năm sau, Đế quốc Nhật Bản đã làm đúng theo ý kiến mà Fukuzawa đề xướng, nghĩa là đua tranh với các nước thực dân Âu - Mỹ trong việc xâm chiếm các nước vùng Đông Á[5]

Chính trịSửa đổi

Hiến phápSửa đổi

上諭 - "Thánh chỉ" một phần của Đại Nhật Bản Đế quốc Hiến pháp [2]

Đại Nhật Bản Đế quốc Hiến pháp được ban hành năm 1889, chính thức trao nhiều quyền hạn chính trị vào tay Thiên hoàng. Tuy nhiên cho đến 1936, từ "Đại Nhật Bản Đế quốc" mới được chính thức sử dụng. Những từ khác để chỉ Nhật Bản lúc bấy giờ gồm có: 日本 Nhật Bản, 大日本 Đại Nhật Bản, 日本國 Nhật Bản Quốc, 日本帝國 Nhật Bản Đế quốc.

Trong bản thảo hiến pháp 1946, một năm sau khi đầu hàng, Nhật thiết lập hệ thống chính trị và tên hiệu của nước trở thành: 日本国 Nhật Bản Quốc.

Kinh tếSửa đổi

Thiết giáp hạm Yamato, thiết giáp hạm lớn nhất lịch sử năm 1941

Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật mở rộng vòng đai đế quốc, cai quản Đài Loan, Triều Tiên, Mãn Châu và vùng Bắc Trung Hoa. Nhật xem vòng đai này là một yếu tố quan trọng để bảo vệ quyền lợi và an ninh, đề phòng các thế lực bên ngoài chận khóa đường biển bóp nghẹt kinh tế của mình. Nhận thức được tài nguyên của mình hạn chế, Nhật ra sức vơ vét tài nguyên từ các thuộc địa để tăng cường quân lực và làm hậu thuẫn cho việc tiếp tục mở rộng lãnh thổ đế quốc. Sau 1868, kinh tế Nhật Bản tiến triển qua hai giai đoạn. Giai đoạn đầu chú trọng phát triển nông nghiệp để cung cấp cho cải tiến kỹ nghệ. Trong Chiến tranh Nga-Nhật bắt đầu năm 1904, Nhật có 68% dân có việc làm và 38% tổng sản phẩm quốc dân vẫn từ nông nghiệp. Đến giai đoạn thứ nhì trong thập niên 1920 lượng sản xuất kỹ nghệ và mỏ khoáng lên đến 23% GDP so 21% của với sản xuất nông nghiệp. Kỹ thuật giao thông và liên lạc cũng phát triển nhanh để kịp mức tiến của kỹ nghệ.

Quân sựSửa đổi

Hàng không mẫu hạm Shokaku với phi cơ chuẩn bị oanh tạc Trân Châu Cảng

Vào thời điểm này, các gia tộc kỹ nghệ đại tư bản như Mitsubishi, Mitsui, Sumitomo, Yasuda bắt đầu phát triển và nhận thức được sự cần thiết của nguyên liệu và tài nguyên mà Nhật Bản không có sẵn. Quan niệm về xâm lăng nước láng giềng dần dần lớn mạnh với nhiều mục đích: tạo vòng đai quân sự bảo vệ an ninh lãnh thổ Nhật Bản, lấy tài nguyên phát triển kỹ nghệ và tạo thị trường tiêu thụ hàng Nhật.

Trong khi đó, các thế lực Tây phương như Hoa Kỳ, Anh Quốc, Pháp cũng đang cố gắng bành trướng ảnh hưởng kinh tế vào châu Á - nhất là Trung Hoa. Nhận thấy nguy cơ thua kém các thế lực "mọi da trắng" ngay trên địa bàn của mình, Nhật Bản ra sức củng cố phát huy kỹ nghệ - đặc biệt là vũ khí quân sự và trong vòng vài năm tạo dựng được một lực lượng quân sự hùng mạnh.

Araki Sadao là một lãnh tụ khuynh hữu đảng quân phiệt Nhật, từng lãnh đạo Hội Hoạt động Từ thiện Đế quốc [Kōdōha] đối lập với Nhóm Kiểm soát [Tōseiha] của tướng Kazushige Ugaki. Ông gắn liền cổ học Nhật [võ sĩ đạo] với chủ thuyết phát xít đang thịnh hành tại châu Âu, đưa đến phong trào hoạt động dưới dạng phát xít Nhật [Quốc xã shōwa].

Từ 1932, Nhật Bản lọt vào thế buộc phải đi đến chiến tranh theo hướng dẫn của Araki. Chủ nghĩa độc tài, quân phiệt và bành trướng được chấp nhận như lời giải duy nhất cho tình huống bấy giờ của Nhật Bản và ít có ai lên tiếng phản đối. Trong cuộc họp báo ngày 23 tháng 9 năm 1932, Araki đưa ra khái niệm Kodoha [Đạo đế quốc], gắn liền Thiên hoàng, người Nhật, đất Nhật và tinh thần Nhật vào một khối không thể tách rời. Từ đó nảy ra một loại "giáo đạo" mới tôn sùng Thiên hoàng trong lòng người Nhật.

Nước Nhật trở thành một công cụ phục vụ cho quân đội và Thiên hoàng Nhật Bản. Kiếm Nhật [katana] được đem ra làm phù hiệu cho lý tưởng đế quốc, súng Nambu được dùng để biểu hiện tinh thần cận chiến của quân đội Nhật.

Một mơ ước của giới quân phiệt cực hữu là làm sống lại hệ thống Mạc phủ khi xưa, nhưng dưới dạng quân trị hiện đại - nghĩa là Thiên hoàng chỉ là long trọng viên và quyền hạn chỉ huy cả nước nằm trong tay lãnh tụ quân sự với danh nghĩa phụ chính - tương tự như chức Duce của Benito Mussolini ở Ý và quyền Führer của Adolf Hitler ở Đức. Tuy nhiên một số nhà quân sự Nhật thời này ra sức ngăn cản lối suy nghĩ này, quyết giành quyền lực hoàn toàn vào tay Thiên hoàng.

Hải quânSửa đổi

Bài chi tiết: Hải quân Đế quốc Nhật Bản

Hải quân Đế quốc Nhật Bản [kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: Dai-Nippon Teikoku Kaigun, phiên âm Hán-Việt: Đại Nhật Bản đế quốc hải quân], thường gọi tắt là Hải quân Nhật, là lực lượng hải quân của Đế quốc Nhật Bản từ năm 1869 khi thành lập cho đến năm 1947 khi nó bị giải tán theo điều 9 của Hiến pháp Nhật Bản từ bỏ việc sử dụng vũ lực như là phương cách để giải quyết các tranh chấp quốc tế. Đây là lực lượng hải quân lớn thứ ba trên thế giới vào năm 1920 sau Hải quân Hoa Kỳ và Hải quân Hoàng gia Anh[6], và có lẽ là lực lượng hải quân hiện đại nhất thời điểm cận kề Chiến tranh Thế giới II. Những chiến hạm trong lực lượng này còn được hỗ trợ bằng máy bay và hoạt động không kích từ Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản.

Trước Chiến tranh thế giới thứ nhấtSửa đổi

Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhấtSửa đổi

Bài chi tiết: Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất
Chiến tranh Trung-Nhật thứ nhất, các trận chiến chính và các cuộc hành quân
Đại Mãn Châu, Mãn Châu [ngoài] thuộc Nga là khu vực phía trên bên phải với màu đỏ tươi; Bán đảo Liêu Đông có hình mũi nhọn vươn vào biển Hoàng Hải
Đô đốc Hải quân, Bá tước Togo Heihachiro, chỉ huy trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất
Đô đốc hải quân, Nam tước Goro Ijuin

Trước khi tham dự vào Chiến tranh thế giới thứ nhất từ sau khi bắt đầu Minh Trị Duy tân, Đế quốc Nhật Bản đã tham gia hai cuộc chiến quan trọng. Cuộc chiến thứ nhất là Chiến tranh Nhật-Trung thứ nhất xảy ra giữa thời kỳ 1894 và 1895. Cuộc chiến này chủ yếu xoay quanh việc tranh giành quyền kiểm soát và ảnh hưởng đối với bán đảo Triều Tiên. Một cuộc nổi loạn của nông dân đã dẫn tới việc triều đình Triều Tiên thỉnh cầu Trung Quốc gửi quân qua Triều Tiên để ổn định tình hình. Đế quốc Nhật Bản đáp trả bằng cách gửi quân Nhật qua Triều Tiên và dựng nên một chính phủ thân Nhật ở kinh đô Seoul. Trung Quốc phản đối, và chiến tranh nổ ra. Quân Nhật đánh bại quân Trung Quốc ở bán đảo Liêu Đông và gần như phá tan hải quân Trung Quốc tại hải chiến Hoàng Hải. Trung Quốc bị buộc phải ký vào Hiệp ước Shimonoseki, nhường nhiều phần của Mãn Châu và đảo Đài Loan cho Nhật Bản. Hiệp ước cũng làm gia tăng ảnh hưởng của Nhật Bản tại Trung Quốc trong 50 năm sau.

Chiến tranh Nga-NhậtSửa đổi

Bài chi tiết: Chiến tranh Nga-Nhật

Chiến tranh Nga-Nhật là một cuộc xung đột tranh giành quyền kiểm soát Triều Tiên và một số vùng của Mãn Châu giữa Đế quốc Nhật Bản với Đế quốc Nga xảy ra trong giai đoạn 1904-1905. Cuộc chiến này có ý nghĩa quan trọng do đây là cuộc chiến hiện đại đầu tiên mà một nước châu Á đánh bại một cường quốc châu Âu và đã giúp nâng cao hình ảnh và vị thế nước Nhật trên chính đàn quốc tế. Cuộc chiến được đánh dấu bằng việc Nhật xóa bỏ được quyền lợi của Nga tại Triều Tiên, Mãn Châu và Trung Quốc. Đáng kể là bán đảo Liêu Đông, bị kiểm soát bởi thành phố cảng Lữ Thuận [旅順口, cảng Arthur]. Thoạt đầu, trong hiệp ước Shimonseki, cảng Lữ Thuận đã được nhượng cho Nhật.

Đại Chính Thiên hoàng, vị Thiên hoàng thứ hai của đế quốc Nhật Bản

Phần này của hiệp ước bị các nước lớn ở phương Tây bác bỏ, cảng được chuyển cho Đế quốc Nga, tăng thêm quyền lợi của Nga trong khu vực. Những quyền lợi này xung đột với quyền lợi của Nhật Bản. Cuộc chiến bắt đầu với một cuộc tấn công bất ngờ của Nhật vào hạm đội Đông Nga đóng ở cảng Lữ Thuận, tiếp theo là Trận Hải chiến cảng Lữ Thuận. Các đơn vị Nga cố gắng trốn chạy đã bị đánh bại thê thảm tại trận hải chiến Hoàng Hải bởi lực lượng hải quân Nhật do Đô đốc Togo Heihachiro chỉ huy. Một năm sau, hạm đội Baltic của Nga đã đến đây nhưng cũng bị tiêu diệt ở Hải chiến Đối Mã. Tuy đối với Nga, chiến trận trên bộ không có kết quả thảm hại đến như vậy và quân Nga đông hơn người Nhật, 300.000 so với 220.000 nhưng quân đội Nhật đã đánh mạnh hơn nhiều so với đối phương Nga và giành được một lợi thế chính trị mà lợi thế này kết hợp với Hiệp ước Portsmouth được đàm phán với Tổng thống Theodore Roosevelt ở Hoa Kỳ. Kết quả là, đế quốc Nga mất một nửa đảo Sakhalin, cũng như nhiều quyền khai khoáng tại Mãn Châu.

Chiến tranh thế giới thứ nhấtSửa đổi

Bài chi tiết: Lịch sử Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ nhất
Nguyên soái Terauchi Masatake từng là Thủ tướng Nhật Bản
Bản đồ của Đức về Thanh Đảo, 1912 trong Trận Thanh Đảo

Nhật Bản tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất năm 1914 theo phe Entente nhân cơ hội Đế quốc Đức đang bận rộn với chiến tranh ở châu Âu và Nhật muốn mở rộng phạm vi ảnh hưởng ở Trung Quốc. Nhật Bản tuyên chiến với Đức ngày 23 tháng 8 năm 1914 và nhanh chóng chiếm những lãnh thổ: Sơn Đông, Mariana, Caroline và Quần đảo Marshall ở Thái Bình Dương [lúc đó gọi là Tân Guinea thuộc Đức]. Trận Thanh Đảo là một cuộc đổ bộ chớp nhoáng vào thuộc địa Giao Châu của Đức tại Trung Quốc và toàn bộ quân Đức tại đây đầu hàng vào ngày 7 tháng 11 năm 1914.

Đối với đồng minh phương Tây, đặc biệt là Anh đang đương đầu chiến tranh nặng nề tại châu Âu, Nhật Bản tìm cách bám lấy vị thế của mình tại Trung Quốc bằng việc đưa ra 21 điều đòi hỏi áp đặt lên Trung Quốc vào năm 1915. Ngoài việc nới rộng tầm kiểm soát của họ lên các tô giới của Đức ở Mãn Châu và Nội Mông, Nhật Bản còn muốn chia phần làm chủ một cơ sở chính khai thác và luyện kim ở miền trung Trung Quốc, cấm đoán Trung Quốc nhường hay cho thuê các khu duyên hải cho một cường quốc thứ ba, kiểm soát từ quân sự, chính trị đến kinh tế. Nếu những điều này đạt được thì Trung Quốc trở thành nước bảo hộ của Nhật Bản. Tuy nhiên phải đối mặt với những thương lượng chậm chạp với chính phủ Trung Quốc, thái độ chống Nhật đang lan rộng tại Trung Quốc và những chỉ trích của quốc tế, Nhật Bản rút lại một số đòi hỏi và các hiệp ước đã ký vào ngày 7 tháng 5 năm 1915.

Vì sao Nhật Bản và Thái Lan giữ được chủ quyền trước phương Tây?

Quan hệ Đông-Tây thời cận đại rất phức tạp. Đối với Nhật Bản là hai thời kỳ: Tokugawa [1603 – 1868] và Minh Trị [1868 – 1912]. Đối với Xiêm [Thái Lan ngày nay] là 1851 – 1910, giai đoạn nắm quyền của dòng họ Rama.

Học tập phương Tây

Ban đầu chính quyền Tokugawa đã cho phép Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha đến buôn bán và truyền đạo.Vàsau khi nhận ra ý đồ can thiệp vào nội bộ Nhật Bản của các quốc gia phương Tây này, chính quyền Tokugawa đã ra thực hành chính sách “bế quan toả cảng”, nhưng vẫn mở một cửa biển ở vịnh Nagasaki cho Hà Lan đến buôn bán.

Trong quan điểm của Nhật Bản, Hà Lan là tư bản thương nghiệp chứ không phải là tư bản công nghiệp, cho nên không đủ tiềm lực can thiệp vào Nhật Bản. Nhật Bản thông qua Hà Lan để tiếp thu kỹ thuật phương Tây, tạo ra tư tưởng “Hà Lan học”, sau này được giai cấp tư sản Nhật Bản sử dụng làm ngọn cờ tư tưởng cho cuộc cách mạng dân chủ tư sản [1868].

Sau sự kiện tàu chiến Mỹ đến buộc Nhật Bản “mở cửa” [1842], chính quyền Tokugawa đã ký với nhiều nước tư bản phương Tây các hiệp ước “bất bình đẳng”. Đó là Hiệp ước Hoà thân Nhật – Mỹ, Hiệp ước Anh – Nhật, Hiệp ước Nga – Nhật, Hiệp ước Hà Lan – Nhật [1854]; Hiệp ước Nhật – Mỹ và các Hiệp ước sửa đổi giữa Nhật Bản với các nước tư bản khác [1858]…

Nước Nhật có điểm khác trong cơ cấu kinh tế - chính trị - xã hội so với các nước phương Đông khác. Đó là sự kết hợp tính chất tập quyền phương Đông với tính chất phân quyền phương Tây. Cho nên trong quan hệ với phương Tây, Nhật Bản cũng thực hiện chính sách đóng cửa nhưng khác với các nước khác, Nhật Bản đóng cửa để phát triển tiềm lực quốc gia [thời kỳ Tokugawa].

Nhà cải cách người Nhật Bản Fukuzawa Yukichi [1835-1901] vào năm 1862

Do đó, trong thời kỳ đóng cửa, sự tự thân vận động của nội tại kinh tế Nhật Bản đã tạo ra được sự biến chuyển về kinh tế - xã hội. Do vậy, từ tầng lớp thị dân thời Tokugawa, giai cấp tư sản và tầng lớp quý tộc tư sản hoá ra đời và đủ sức tiến hành công cuộc Minh Trị Duy Tân đất nước thành công theo hướng một cuộc cách mạng dân chủ tư sản.

Đứng trước các nước phương Tây đã đi trước về sự tiến bộ xã hội, chính quyền phong kiến Nhật Bản cũng ý thức được rằng: Muốn bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc thì phải cải cách. Không cải cách thì tất yếu sẽ bị diệt vong. Bởi vậy, sau khi lật đổ được nhà Tokugawa thì đã diễn ra Minh Trị Duy Tân [1868].

Lĩnh vực giáo dục được ưu tiên hàng đầu trong cải cách. Các môn học chuyển chủ yếu từ học thuộc Kinh Sử sang Khoa học-Kỹ nghệ-Thương mại. Mô hình đại học được áp dụng theo hình mẫu phương Tây và tư nhân được phép mở trường. Chất lượng dạy học cũng như chương trình chịu ảnh hưởng của phương Tây nhiều mặt.

Điển hình như việc soạn sách với 80% sách vở và tài liệu chuyên ngành được biên soạn theo mẫu của phương Tây. Trong thời gian đầu cải cách giáo dục, ước tính có tới 500 giảng viên nước ngoài giảng dạy tại 15 trường đại học đầu tiên của Nhật.

Các giảng viên này được trả lương rất cao, 300 Yên/tháng so với lương công chức Nhật thời bấy giờ là 30 Yên/tháng và hỗ trợ tốt về ăn ở, đi lại nhằm mục đích để họ cống hiến hết mình. Giảng viên Nhật có thể học hỏi phương pháp của các giáo sư nước ngoài này và những học sinh giỏi được cử sang du học ở nước ngoài.

Trong bài “Thoát Á luận” đăng ngày 16/3/1885 trên báo Jiji Shimpo [Thời sự Tân báo], Fukuzawa Yukichi [1835-1901], được xem là người có công mở đầu phong trào canh tân nước Nhật, đã kêu gọi đất nước “tách ra khỏi hàng ngũ các nước châu Á, đuổi kịp và đứng vào hàng ngũ các nước văn minh phương Tây”.

Fukuzawa Yukichi cũng ủng hộ việc bành trướng lãnh thổ của Nhật theo học thuyết xã hội kiểu Darwin. Ông cho rằng, chỉ những quốc gia mạnh nhất mới có thể sinh tồn thông qua một quá trình chọn lọc. Nghĩa là, Nhật Bản phải đi xâm chiếm nước khác, nếu không thì chính Nhật sẽ bị thôn tính.

Bên cạnh đó, Fukuzawa hy vọng một màn trình diễn về sức mạnh quân sự của Nhật sẽ làm chấn động dư luận ở phương Tây và giúp Nhật Bản tránh khỏi số phận bị xâu xé như ở Trung Quốc. Với hy vọng về một Nhật Bản mạnh mẽ, Fukuzawa đã xem các quốc gia châu Á vừa là mối đe dọa, vừa là cơ hội để Nhật thể hiện sức mạnh quân sự và chiếm làm thuộc địa.

Về quân sự, quân đội Nhật Bản lúc này đã được tổ chức và huấn luyện theo kiểu phương Tây. Lục quân theo mô hình của Đức, hải quân theo mô hình Anh, các công xưởng và nhà máy vũ khí theo mô hình công binh Pháp, hệ thống hậu cần học hỏi rất nhiều từ nước Mỹ.

Quân đội Nhật Bản áp dụng chế độ nghĩa vụ quân sự thay cho chế độ trưng binh và tăng cường mua và sản xuất vũ khí, đạn dược. Kèm theo đó là mời các giảng viên quân sự nước ngoài về để giảng dạy và đưa các sinh viên sĩ quan đến một số nước như Anh, Pháp học tập.

Sau đó, với nội lực mạnh, Nhật Bản gây chiến với Trung Quốc [1894], Nga [1904] và liên minh với Anh [1902] nên đã xé bỏ các Hiệp ước “bất bình đẳng”. Thậm chí Nhật Bản đã nối gót các nước phương Tây để tiến hành chiến tranh xâm lược với tham vọng phân chia lại thế giới.

Đỉnh cao tham vọng của nước Nhật là trong Chiến tranh thế giới thứ hai [1939-1945] khi quân đội nước này đã tấn công quân Mỹ tại Trân Châu Cảng [1941] và xâm chiếm toàn bộ Trung Quốc cùng các quốc gia Đông Nam Á.

Lợi thế “khu đệm”

Ngoài Nhật Bản, Xiêm cũng giữ được độc lập trước phương Tây. Xiêm cũng phải ký những hiệp ước “bất bình đẳng” với Hà Lan, Mỹ, Anh, Pháp… Trong đó nổi bật là việc Xiêm nhường ảnh hưởng của mình ở Lào, Campuchia cho Pháp, Đông Bắc Malaysia cho Anh.

Cải cách trở thành biện pháp duy nhất nhằm tăng cường nội lực, chống chọi lại ngoại lực phương Tây của Xiêm. Đất nước này cũng đã thi hành chính sách mở cửa rộng rãi. Nhờ đó, cơ cấu kinh tế – chính trị - xã hội ở Xiêm đã có sự thay đổi, đưa đến sự ra đời của giai cấp tư sản và tầng lớp quý tộc “tư sản hoá”.

Đây chính là lực lượng xã hội hậu thuẫn cho cuộc cải cách của vua Chulalongkorn [1853-1910] từ năm 1868 đến năm 1910. Trong 42 năm, vua Chulalongkorn luôn nỗ lực hiện đại hóa vương quốc và bãi bỏ chế độ nô lệ. Chulalongkorn là vua Xiêm đầu tiên đưa hoàng tử sang châu Âu du học. Ông công du châu Âu hai lần, giới thiệu với các nhà cầm quyền châu Âu rằng Xiêm là một quốc gia hiện đại.

Vua Chulalongkorn [1853-1910] trị vì từ năm 1868 đến năm 1910

Từ chỗ lợi dụng lợi thế nhiều nước đến hai nước [Anh và Pháp] đã cho phép Xiêm cân bằng được thế lực của các nước phương Tây trên lãnh thổ nước mình.

Bên cạnh đó, vị trí “khu đệm” [nằm giữa các vùng tranh chấp của Anh và Pháp] càng tạo điều kiện thuận lợi hơn để Xiêm bảo toàn độc lập dân tộc. Tuy nhiên, trên thực tế Xiêm độc lập về chủ quyền nhưng phụ thuộc về kinh tế, chính trị đối với phương Tây.

Đến đời vua Vajiravudh [1880-1925] trị vì từ 1910-1925, nhà nước Xiêm đã thúc đẩy sự sáng tạo và chủ nghĩa dân tộc. Vua Vajiravudh cũng đã hiện đại hóa quân đội, đưa binh sĩ Xiêm gia nhập lực lượng Đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất [1914-1918].

Khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra vào tháng 9/1939, Thái Lan [đổi tên từ Xiêm từ ngày 23/6/1939] đã tuyên bố trung lập. Tuy nhiên, Thái Lan đã gây chiến với quân Pháp ở Đông Dương sau khi nước Pháp thất thủ năm 1940. Mục tiêu của người Thái là giành lại những vùng đất đai mà họ đã mất vào tay phương Tây.

Ngày 25/1/1942, sau khi bị nước Nhật giật dây, Chính phủ Thái Lan tuyên chiến với nước Mỹ và Vương quốc Anh. Sau sự suy yếu của quân đội phát xít Nhật vào cuối thế chiến, một nhóm quân đội Thái Lan làm đảo chính vào ngày 1/8/1944, lật đổ chính phủ thân Nhật và ngay lập tức chuyển nước Thái từ một đồng minh của Nhật thành đồng minh của Mỹ.

Sau chiến tranh, Thái Lan không bị lực lượng Đồng minh chiếm đóng, nhưng phải trả lại các lãnh thổ chiếm được trong chiến tranh.

Nguyễn Văn Toàn

“Điệp viên có ảnh hưởng” khiến Liên Xô tan rã

Alexander Yakovlev, “kiến trúc sư cải tổ” Liên Xô đã bị vạch mặt là “điệp viên có ảnh hưởng” của Mỹ.

Chân dung lãnh đạo Liên Xô khiến chiến lược gia Mỹ ngả mũ kính phục

Yuri Vladimirovich Andropov [1914-1984] là nhà lãnh đạo Liên Xô được nhân dân tin tưởng, tín nhiệm rất cao.

Video liên quan

Chủ Đề