Bài tập dưỡng sinh bác sĩ NGUYỄN văn Hưởng

Bộ giáo dục v đo tạo Bộ y tế Trờng đại học y H Nội [\ võ LƯU HO ĐáNH GIá TáC DụNG BI TậP DƯỡNG SINH của nguyễn văn hởng trên ĐốI tợng CÔNG NHÂN PHƠI NHIễM XĂNG DầU Có HộI CHứNG NHIễM ĐộC BENZEN NGHề NGHIệP luận văn THạC Sỹ y học H Nội - 2010 Bộ giáo dục v đo tạo Bộ y tế Trờng đại học y H Nội [\ võ LƯU HO ĐáNH GIá TáC DụNG BI TậP DƯỡNG SINH của nguyễn văn hởng TRÊN đối tợng CÔNG NHÂN PHƠI NHIễM XĂNG DầU Có HộI CHứNG NHIễM ĐộC BENZEN NGHề NGHIệP Chuyên ngành : Y học cổ truyền Mã số : 60.72.60 luận văn THạC Sỹ y học Ngời hớng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. TH PHNG 2. TS. NGUYN TH VN ANH H Nội - 2010Lêi c¶m ¬n Trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu, tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ, tạo điều kiện của các tập thể, cá nhân, các thầy cô, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp. Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới: Đảng ủy, Ban giám hiệu, Phòng đào tạo sau đại học Trường Đại học Y Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Với tất cả lòng kính trọng, tôi gửi lời cảm ơn chân thành tới PGS-TS. Nguyễn Nhược Kim - Trưởng Khoa Y học cổ truyền Trường Đại học Y Hà Nội, cùng toàn thể các thầy cô giáo trong khoa Y học cổ truyền là những người thầy đã tận tâm dạy dỗ và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập. Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS-TS. Đỗ Thị Phương - Phó trưởng Khoa Y học cổ truyền Trường Đại học Y Hà Nội, TS. Nguyễn Thị Vân Anh - Chủ nhiệm khoa Nội Bệnh viện Y học cổ truyền Trung Ương là những người thầy trực tiếp hướng dẫn khoa học, đã tận tâm giảng dạy, giúp đỡ và chỉ bảo cho tôi những kinh nghiệm quí báu trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Văn Tường Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và đào tạo về sức khoẻ môi trường cùng cán bộ nhân viên trung tâm, Ban chỉ huy, Chủ nhiệm quân Y, cùng toàn thể cán bộ công nhân viên Tổng kho 190, Cục Xăng dầu, Tổng cục hậu cần đã quan tâm giúp đỡ động viên và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, các cô những nhà khoa học trong hội đồng chấm luận văn đã đóng góp cho tôi nhiều ý kiến quý báu và khoa học để tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc, cùng toàn thể cán bộ nhân viên Bệnh viện Y học cổ truyền Nghệ An, là nơi công tác và cũng là nơi hỗ trợ nhiệt tình về cả vật chất cũng như tinh thần cho tôi. Cuối cùng tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn tới những người thân trong gia đình, cùng bạn bè, đồng nghiệp đã luôn động viên khích lệ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn này. Tác giả Võ Lưu Hoà LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: những số liệu trong chương trình nghiên cứu này nằm trong khuôn khổ đề tài “Ứng dụng phương pháp Hubbard để thanh thải chất độc ra khỏi cơ thể” của cơ quan chủ trì đề tài là Trung tâm nghiên cứu và đào tạo về sức khoẻ môi trường. Tôi là một nghiên cứu viên chính trong nhóm tham gia trực tiếp thực hiện đề tài này. Tôi đã được sự cho phép của cơ quan chủ trì đề tài sử dụng số liệu này cho luận văn Thạc sĩ của mình. MỤC LỤC ĐẶT VẤN ĐỀ 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3 1.1. PHƠI NHIỄM XĂNG DẦU VÀ HỘI CHỨNG NHIỄM ĐỘC BENZEN NGHỀ NGHIỆP 3 1.1.1. Sơ lược về phơi nhiễm xăng dầu 3 1.1.2. Sơ lược về hội chứng nhiễm độc benzen nghề nghiệp 4 1.1.3. Dự phòng và điều trị nhiễm độc benzen nghề nghiệp 10 1.2. PHƯƠNG PHÁP DƯỠNG SINH CỦA BS NGUYỄN VĂN HƯỞNG 11 1.2.1. Xuất xứ bài tập và một số kết quả nghiên cứu, ứng dụng PPDS của Bác sỹ Nguyễn Văn Hưởng ở Việt Nam 11 1.2.2. Nội dung của các bước luyện tập trong bài tập dưỡng sinh của Bác sỹ Nguyễn Văn Hưởng 13 1.2.3. Sơ lược về cơ chế tác động của PPDS đối với cơ thể 16 Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 20 2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 20 2.1.1. Tiêu chuẩn chọn đối tượng 20 2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ 21 2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 21 2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: 21 2.2.2. Nội dung phương pháp can thiệp 22 2.2.3. Các chỉ số nghiên cứu 25 2.2.4. Quy trình nghiên cứu 25 2.2.5. Phương pháp theo dõi và đánh giá các chỉ số: 26 2.2.6. Xử lý số liệu: 30 2.2.7. Đạo đức trong nghiên cứu: 30 Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 32 3.1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 32 3.1.1.Giới tính 32 3.1.2. Nhóm tuổi 32 3.1.3. Một số đặc điểm liên quan đến bệnh. 34 3.2. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ TRÊN LÂM SÀNG 37 3.2.1.Cân nặng 37 3.2.2. Chỉ số BMI 38 3.2.3. Huyết áp tối đa 40 3.2.4. Huyết áp tối thiểu 41 3.2.5.Tần số tim 42 3.2.6. Mức độ cải thiện hội chứng suy nhược 43 3.2.7. Cải thiện mức độ rối loạn giấc ngủ 45 3.3. Đánh giá thay đổi một số chỉ số cận lâm sàng 48 3.3.1. Chỉ số huyết học 48 3.3.2. Chỉ số sinh hóa 49 Chương 4: BÀN LUẬN 52 4.1. Về đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 52 4.1.1. Tuổi 52 4.1.2. Giới tính 53 4.1.3. Thâm niên tiếp xúc với xăng dầu 53 4.2. Kết quả điều trị: 54 4.2.1. Ảnh hưởng của luyện tập lên chỉ số cân nặng và BMI 54 4.2.2. Ảnh hưởng của luyện tập lên hoạt động của hệ tuần hoàn 55 4.2.3. Ảnh hưởng của luyện tập lên sự cải thiện các chỉ tiêu lâm sàng 57 4.2.4. Ảnh hưởng của luyện tập lên một số chỉ số huyết học 59 4.2.5. Ảnh hưởng của luyện tập lên một số chỉ số sinh hoá 60 4.2.6. Ảnh hưởng của luyện tập lên men chống oxy hoá SOD 62 KẾT LUẬN 65 KIẾN NGHỊ 66 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ALT : Alanine Aminotransferase BC : Bạch cầu BS : Bác sỹ BMI : Chỉ số khối cơ thể BMI=Cân nặng[kg]/chiều cao2[m] [Body Mass Index] C : Chứng D0 : Khám lần thứ nhất trước ngày luyện tập D7 : Khám lần thứ 2, ngày thứ 7 D16 : Khám lần thứ 3, ngày thứ 16 DS : Dưỡng sinh HC : Hồng cầu HDL-C : High density lipoprotein LDL-C : Low density lipoprotein MBTE : Methyl tert Butyl Ethe NC : Nghiên cứu TC : Tiểu cầu PPDS : Phương pháp dưỡng sinh SOD : Superoxid dismutase [men chống oxy hóa] YHCT : Y học cổ truyền YHDT : Y học dân tộc YHHĐ : Y học hiện đại DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo giới tính từng nhóm 32 Bảng 3.2: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi 33 Bảng 3.3: Tỷ lệ mắc bệnh theo thâm niên nghề nghiệp 34 Bảng 3.4: Phân loại đối tượng nghiên cứu theo chỉ số BMI trước thời điểm nghiên cứu 35 Bảng 3.5: Phân loại theo mức độ rối loạn giấc ngủ trước thời điểm NC 35 Bảng 3.6: Phân loại theo các triệu chứng lâm sàng trước thời điểm NC 36 Bảng 3.7: Thay đổi chỉ số cân nặng tại các thời điểm nghiên cứu 37 Bảng 3.8: Thay đổi chỉ số BMI tại các thời điểm nghiên cứu 38 Bảng 3.9: Thay đổi chỉ số huyết áp tối đa tại các thời điểm nghiên cứu 40 Bảng 3.10: Thay đổi chỉ số huyết áp tối thiểu tại các thời điểm nghiên cứu 41 Bảng 3.11: Thay đổi chỉ số nhịp tim tại các thời điểm nghiên cứu 42 Bảng 3.12: Thay đổi thang điểm Bugard-crocq tại các thời điểm NC 40 Bảng 3.13: Thay đổi thang điểm Pittsburgh tại các thời điểm nghiên cứu 45 Bảng 3.14: Thay đổi về mức độ rối loạn giấc ngủ sau điều trị 47 Bảng 3.15: Thay đổi chỉ số HC, BC tại các thời điểm nghiên cứu 48 Bảng 3.16: Thay đổi chỉ số Tiểu cầu tại các thời điểm nghiên cứu 49 Bảng 3.17: Thay đổi chỉ số Cholesterol, Triglycerit tại các thời điểm nghiên cứu 49 Bảng 3.18: Thay đổi chỉ số ALT tại các thời điểm nghiên cứu 50 Bảng 3.19: Thay đổi men chống oxy hóa SOD tại các thời điểm nghiên cứu . 51 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 3.1: Phân bố tổng số đối tượng nghiên cứu theo giới tính 32 Biểu đồ 3.2: So sánh kết quả về chỉ số BMI trước và sau luyện tập ở nhóm NC.39 Biểu đồ 3.3: So sánh kết quả về chỉ số BMI trước và sau luyện tập ở nhóm C 39 Biểu đồ 3.4: So sánh theo mức độ cải thiện hội chứng suy nhược sau luyện tập giữa nhóm NC và nhóm C 44 Biểu đồ 3.5: So sánh kết quả về mức độ rối loạn giấc ngủ trước và sau luyện tập ở nhóm NC 46 Biểu đồ 3.6: So sánh kết quả về mức độ rối loạn giấc ngủ trước và sau luyện tập ở nhóm C 46 1ĐẶT VẤN ĐỀ Từ những năm đầu của thập kỷ 90 xăng, dầu đã là nguồn nguyên liệu chính của nền công nghiệp thế giới, việc khai thác và sử dụng xăng dầu ngày càng được đẩy mạnh. Ở Việt Nam, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhu cầu sử dụng xăng dầu ngày càng tăng, mạng lưới cung cấp, giao nhận, bán lẻ và đội ngũ nhân viên tiếp xúc với xăng dầu ngày càng nhiều, không thể tránh khỏi các yếu tố nguy cơ nghề nghiệp như: nguy cơ cháy nổ, ô nhiễm môi trường và một vấn đề rất đáng quan tâm đó là nguy cơ mắc bệnh nghề nghiệp. Từ những năm 1920 Tetraethyl chì được pha vào xăng với mục đích đảm bảo hệ số cháy nổ của xăng. Sau 50 năm người ta đã chứng minh Tetraethyl chì là một chất gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường và sức khoẻ con người. Hàm lượng chì đã được giảm dần trong xăng từ năm 1975 và được thay thế bằng hợp chất khác mà vẫn đảm bảo hệ số cháy nổ như đối với xăng pha chì. Hợp chất được sử dụng là: Dung môi hữu cơ có nhân thơm [benzen, toluene, xylene…]. Để đạt được chỉ số octan 91-96 thì thành phần chất hữu cơ có chứa nhân thơm trong xăng phải là 36,4% và benzene là 3,3%. Theo tài liệu quản lý độc tính của benzen [ATSDR-1997] cho thấy công nhân bán xăng dầu có nguy cơ tiếp xúc với benzen. Một công nhân bơm xăng 70 phút/ngày liên tục trong vòng một năm ước tính lượng benzen hấp thụ là 10 µg/ngày. Với lượng tiếp xúc như vậy dần dần sẽ có các rối loạn chức phận như nhức đầu, chóng mặt, thay đổi thể chất và tâm thần đối với công nhân làm ảnh hưởng đến khả năng lao động, lâu dần làm thay đổi số lượng các tế bào máu và có thể dẫn đến ung thư máu nếu tiếp xúc trong thời gian dài. Do vậy, việc tìm kiếm các biện pháp dự phòng giảm thiểu nguy cơ phơi nhiễm benzen như các biện pháp dự phòng cho đối tượng tiếp xúc, cũng như các biện pháp nhằm tăng cường thải độc benzen trên các đối tượng có nhiễm 2độc benzen đã được nhiều nhà khoa học quan tâm. Một số biện pháp thải độc của Y học hiện đại [YHHĐ] được áp dụng như dùng thuốc, luyện tập… Nhưng trên thực tiễn còn nhiều bất cập về hiệu quả, cũng như tính thuận tiện và giá thành. Phương pháp dưỡng sinh [PPDS] của Bác sỹ [BS] Nguyễn Văn Hưởng đã được đúc rút từ nhiều năm nay, phương pháp luyện tập có cơ sở khoa học, tăng cường được sức khoẻ, phòng và trị bệnh mạn tính có kết quả. Có nhiều nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá tác dụng của PPDS này tuy nhiên tập trung chủ yếu đánh giá tác dụng tăng cường sức khỏe trên người cao tuổi và tác dụng điều trị hỗ trợ đối với một số bệnh mạn tính liên quan đến giảm thông khí phổi như hen phế quản, bụi phổi, lao phổi…hoặc thiểu năng tuần hoàn não. Hiện nay, chưa có công trình nghiên cứu nào về tác dụng của bài tập dưỡng sinh [DS] này trên đối tượng nhiễm độc nói chung và nhiễm độc benzen nghề nghiệp nói riêng. Thực hiện phương châm phòng bệnh là chính, chữa bệnh là quan trọng và biến quá trình chữa bệnh thành quá trình tự chữa bệnh. Chúng tôi tiến hành đề tài: “Đánh giá tác dụng bài tập Dưỡng sinh của Nguyễn Văn Hưởng trên đối tượng công nhân phơi nhiễm xăng dầu có hội chứng nhiễm độc benzene nghề nghiệp” với các mục tiêu cụ thể sau: 1. Đánh giá tác dụng bài tập dưỡng sinh của Nguyễn Văn Hưởng trên đối tượng công nhân phơi nhiễm xăng dầu có hội chứng nhiễm độc benzen nghề nghiệp trên một số chỉ tiêu lâm sàng. 2. Đánh giá sự biến đổi một số chỉ số huyết học và sinh hoá trên đối tượng công nhân phơi nhiễm xăng dầu có hội chứng nhiễm độc benzen nghề nghiệp sau luyện tập bằng bài tập dưỡng sinh của Nguyễn Văn Hưởng. 3Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. PHƠI NHIỄM XĂNG DẦU VÀ HỘI CHỨNG NHIỄM ĐỘC BENZEN NGHỀ NGHIỆP 1.1.1. Sơ lược về phơi nhiễm xăng dầu 1.1.1.1.Thành phần và chất lượng xăng không pha chì Ở Việt Nam, xăng không pha chì được sử dụng từ năm 2001 với tên thương mại MOSGA90, MOSGA92, MOSGA95. Thành phần của xăng không pha chì được biết đến nhờ các phân tích hoá học và các tiêu chuẩn quy định về chất lượng xăng [3] Thành phần của xăng không pha chì chủ yếu là: các hydrocacbon cấu trúc mạch thẳng, mạch nhánh và các hợp chất chứa O2, N2, S. Các hợp chất của lưu huỳnh thường ở dạng mecaptan, những dạng có chứa N2 thường rất ít, nếu có thì chứa một nguyên tử Nitơ mang tính base như piridin còn hợp chất chứa oxy thường ở dạng acid béo. Ngoài các thành phần chính ra trong xăng còn chứa một số chất khác như Benzen, Methyl Tert Butyl Ethe [MTBE]…[3]; [29]; [46]. 1.1.1.2. Các ảnh hưởng của xăng đối với công nhân tiếp xúc * Các ảnh hưởng của xăng đã được tổ chức Y Tế Thế Giới [WHO] và Tổ chức Lao động quốc tế [ILO] công nhận, các tác hại chính của xăng đối với cơ thể con người có thể kể đến là [3]: - Tiếp xúc xăng có thể gây phản ứng niêm mạc mắt, có thể nguy hiểm tới mắt, gây phản ứng mũi họng. Xăng có thể gây tổn thương tới thận. Đối với phụ nữ có thai nếu tiếp xúc với xăng nhiều có thể nguy hiểm tới thai nhi. - Tiếp xúc với xăng ở nồng độ cao sẽ gây một số triệu chứng: đau đầu, buồn nôn, hoa mắt, chóng mặt, rối loạn nhịp tim, giảm điều hoà thân nhiệt, hôn mê, thậm chí tử vong. - Tiếp xúc với nồng độ cao lặp đi lặp lại có thể dẫn đến tổn thương phổi và não. Có thể sẽ gây phản ứng với da như nổi mụn, viêm da, phát ban hoặc nứt da. 4 * Một số chất chủ yếu trong xăng gây hại tới cơ thể được đề cập tới là Benzen, Methyl Tert Buthyl Ethe…[8];[32];[34];[48]. Trong đó: • Methyl Tert Buthyl Ethe [3]; [36]; [47] - MTBE được biết đến là một chất oxy hoá nó có khả năng tồn tại rất lâu trong môi trường không khí, nước, đất và đã được coi là chất gây ô nhiễm môi trường, một số bang của Mỹ đã cấm không được sử dụng MTBE để pha vào xăng. - Có rất ít thông tin về ảnh hưởng cấp tính của MTBE và khả năng gây chết, ở động vật thí nghiệm cũng không được công bố cũng như chưa có nghiên cứu nào về nhiễm độc mạn tính của MTBE với con người. Tuy nhiên nghiên cứu trên chuột, động vật gặm nhấm cho thấy tiếp xúc liều cao liên tục với MTBE sẽ gây thay đổi về công thức máu và bất thường ở thận. ● Benzen: là chất rất độc, nhiễm độc benzen nghề nghiệp được xếp vào hàng thứ hai sau nhiễm độc chì trong danh sách bệnh nghề nghiệp của thế giới [59]. 1.1.2. Sơ lược về hội chứng nhiễm độc benzen nghề nghiệp 1.1.2.1. Khái niệm Benzen thuộc nhóm hydrocacbon thơm gồm: benzen và đồng đẳng của benzen là toluen, xylen. * Tính chất lý hoá [35] Benzen là một chất lỏng không màu, có mùi thơm đặc biệt, dễ bay hơi, nóng chảy ở nhiệt độ +5,480C, sôi ở nhiệt độ +80,20C và ở nhiệt độ bình thường có trọng lượng phân tử nhỏ hơn nước [0,879]. Hơi benzen nặng hơn không khí, một lít benzen ở điều kiện chuẩn nặng 3,25g, khi hỗn hợp với không khí tới tỷ lệ 1,4-6% có thể nổ. Benzen ít tan trong nước, nhưng lại rất dễ hoà tan trong các dung môi hữu cơ, trong dầu khoáng cũng như trong dầu thực vật, động vật. * Độc tính của benzen + Đối với đường tiêu hoá: ít nguy hiểm hơn do các hàng rào bảo vệ ở gan và ruột. Cứ 10-15g benzen hấp thu một lần có thể gây tử vong, mỗi ngày uống 50-100 giọt có thể nhanh chóng dẫn đến bệnh bạch cầu [35]; [52]; [59]. 5 + Benzen dễ gây nhiễm độc qua đường hô hấp, với nồng độ hơi benzen trong không khí trên 200mg/l gây nhiễm độc tối cấp, chết ngay; với trên 60mg/l gây nhiễm độc chết người; từ 20-30 mg/l gây nhiễm độc cấp [ngất sau 20-30 phút]; với 10 mg/l gây nhiễm độc bán cấp; với trên 0,5 mg/l gây nhiễm độc mãn; dưới 0,1 mg/l thì không nhiễm độc [35]; [59]. 1.1.2.2. Cơ chế bệnh sinh Những trường hợp nhiễm độc nghề nghiệp do Benzen hấp thu vào cơ thể chủ yếu qua đường hô hấp, benzen có mùi thơm dễ chịu và không có tác dụng kích thích hô hấp nên dễ nhiễm độc. Qua đường tiêu hoá hiếm gặp, có thể gặp ở những trường hợp uống nhầm hoặc tự tử bằng benzen. Còn qua đường da, liều lượng thường nhỏ không đủ gây bệnh [35]; [59]. Sau khi vào cơ thể, phần lớn benzen khoảng 30-60% thải theo phổi trong khoảng 30 phút. Phần còn lại khoảng 15-60% tuỳ theo bệnh nhân và điều kiện nhiễm độc, bị oxy hoá trực tiếp thành phenol thường, pyrocatechol, hydroquynol và cả trihydroxy 1.2.4 benzen. Giai đoạn oxy hoá này diễn ra chủ yếu ở gan và được đào thải ra nước tiểu dưới dạng muối kiềm. Hiện tượng oxy hoá diễn ra mạnh hay yếu tuỳ theo từng người.[4]; [9]; [35] Phần benzen không bị oxy hoá còn lại tích luỹ vào phủ tạng và các tổ chức giàu mỡ [tuỷ xương, não, gan…] và từ đó, benzen lại được đào thải ra rất chậm và lâu dài, sau khi được oxy hoá. Sự tác động vào tuỷ xương, benzen gây nhiễm độc mạn tính; tác động vào não gây nhiễm độc cấp tính.[9]; [35] Theo Duvoir, Fabre và Derobert, có hai cơ chế của sự rối loạn huyết học trong nhiễm độc benzen mạn tính.[9]; [35] + Benzen tác động trực tiếp lên tuỷ xương theo kiểu các chất độc phá huỷ nhân tế bào, gây nên tình trạng tăng bạch cầu tạm thời. + Liên kết sulfo của các phenol làm giảm giữ trữ kiềm của cơ thể [glutathion] và sau đó làm giảm sút acid ascorbic, gây nên sự rối loạn oxy hoá khử tế bào, dẫn đến tình trạng xuất huyết và gây ra các tình trạng suy nhược cơ thể, suy nhược thần kinh. 61.1.2.3. Biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng 1.1.2.3.1. Nhiễm độc cấp tính Diễn biến của nhiễm độc cấp tính thay đổi theo lượng benzen hít vào cơ thể. Với liều cao, hàm lượng benzen trên 65mg/lít, nạn nhân chết sau vài phút trong tình trạng hôn mê, có thể kèm theo co giật. Với liều thấp hơn, hàm lượng khoảng 20-30 mg/l không khí, thường thấy có giai đoạn kích thích thần kinh, tiếp đến giai đoạn suy sụp cơ thể dẫn đến tình trạng truỵ tim mạch. Nói chung, sau 20-30 phút, nạn nhân mê man. Hàm lượng benzen trên 10 mg/l gây nhiễm độc bán cấp, sau vài giờ nạn nhân thấy khó chịu, nhức đầu, chóng mặt, nôn. Thể nhiểm độc nhẹ như người say rượu, niêm mạc màu đỏ tươi là một dấu hiệu cổ điển. Trong nhiểm độc cấp tính, benzen ảnh hưởng chủ yếu đến não. Mổ tử thi nạn nhân thấy xung huyết các phủ tạng, kèm theo xuất huyết và nhồi máu, đặc biệt ở phổi. Đây là hình ảnh chung cho cả các bệnh nhiễm độc khác. 1.1.2.3.2. Nhiễm độc mạn tính Nhiễm độc benzen mạn tính thường là do nghề nghiệp thấy ở công nhân tiếp xúc lâu ngày với nồng độ benzen hơi cao hơn tiêu chuẩn cho phép, trong khi các trang thiết bị phòng hộ lại thiếu thốn hoặc không được chú ý đúng mức. Các triệu chứng chủ yếu là biểu hiện của các tổn thương ở các hệ thống tạo huyết và gây ra các tình trạng suy nhược lâu dần làm mất dần khả năng lao động. A. Thể nhiễm độc tiềm tàng: • Lâm sàng: Thể tiềm tàng có các rối loạn chức phận như mệt mỏi, nhức đầu, chóng mặt, ăn kém ngon, buồn nôn, nôn, gầy, da xanh, huyết áp giảm nhẹ, sốt về chiều, rối loạn kinh nguyệt ở phụ nữ. Ở thể nặng hơn nhưng hiếm gặp thì có thể chảy máu cam, máu lợi, có thể rong kinh, có đốm xuất huyết và bầm tím dưới da. 7• Xét nghiệm máu: Trong thể này người ta thấy bệnh nhân bị thiếu máu nhẹ. Hồng cầu giảm từ 3-3,5 triệu trong một ml máu, thường là thiếu máu đa sắc có nhiều hồng cầu không đều và đa dạng. Giảm bạch cầu nhẹ là dấu hiệu tốt để chẩn đoán bệnh, thường bạch cầu giảm từ 3000-4000 trong một ml máu. Giảm bạch cầu đa nhân trung tính từ 35-45%. Có thể có tăng bạch cầu ái toan từ 3-7% và có thể cao hơn nhưng không có giá trị chẩn đoán. Dấu hiệu dây thắt đôi khi dương tính. Đôi khi có giảm tiểu cầu nhẹ, khoảng từ 110.000-150.000 tiểu cầu trong một ml máu, nhiều tác giả cho đây là dấu hiệu báo sớm của suy tuỷ. Nghiên cứu huyết đồ đều đặn cho công nhân là biện pháp tốt nhất để phát hiện sớm các dấu hiệu nhiễm độc. • Xét nghiệm sinh hoá: + Định lượng benzen trong máu: Khi tiếp xúc với không khí bị ô nhiễm benzen, thì hàm lượng chất cacbuahydro trong máu cao hơn trong không khí khoảng 7 lần. Thí dụ: khi tiếp xúc với nồng độ benzen tối đa cho phép ở Việt Nam là 15mg/m3, thì lượng benzen huyết sẽ là 105 mg/lít. Khi ngừng tiếp xúc, lượng benzen sẽ giảm nhanh hay chậm tuỳ thuộc mức độ thâm nhiễm nhiều hay ít. Định lượng benzen trong máu có thể cho những chỉ định có ích trong nhiều ngày sau khi ngừng tiếp xúc. Định lượng benzen trong máu được coi là biện pháp tiếp xúc có giá trị, nhưng nó không phải là nhân tố quyết định cho việc chẩn đoán. Ngoài ra định lượng benzen huyết còn có một sự bất lợi. Nếu lấy một mẫu liều lượng benzen thấp thì việc định lượng khó khăn và kéo dài, phải làm hết sức thận trọng nếu không dễ có nhiều sai lầm. + Định lượng benzen trong không khí thở ra: Do dễ bay hơi, benzen được thải ra trừ một phần qua phổi. Người ta đã thiết lập một sự cân bằng giữa máu và không khí phế nang và nồng độ benzen trong không khí thở ra là một phản ánh trung thành benzen trong máu. 8 + Định lượng phenol: Định lượng phenol niệu [nước tiểu 24 giờ] là một phương pháp gián tiếp đánh giá sự thâm nhiễm benzen [15 – 30% benzen trong máu được oxy hoá thành phenol]. Tuy nhiên sự tương ứng này chỉ có giá trị nếu những mẫu nước tiểu được lấy ngay vào cuối ngày làm việc. Bởi vì sự thải phenol theo nước tiểu xẩy ra rất nhanh. Một nửa tổng số lượng được thải ra trong 4 giờ sau khi ngừng tiếp xúc, và sau 24 giờ phenol sẽ được thải trừ hoàn toàn. + Định lượng liên kết sulfo và sulfat vô cơ trong nước tiểu Một phần phenol đào thải tự nhiên ra nước tiểu, còn phần khác nhiều hơn được giải độc trong các tổ chức, nhất là gan, tạo thành liên kết glucuro và đặc biệt là liên kết sulfo. Sự trung hoà phenol này làm giảm lưu huỳnh vô cơ; bình thường lượng lưu huỳnh vô cơ là 80-95% các sulfat vô cơ. Khi thấy giảm trên 20% sulfat vô cơ trong nước tiểu 24 giờ, lấy trong ngày lao động bình thường, là dấu hiệu thâm nhiễm benzen cần lưu ý. B.Thể nhiễm độc benzen rõ rệt Ở thời kỳ này, bệnh được thể hiện qua hội chứng xuất huyết, thiếu máu giảm bạch cầu. Thể trạng bệnh nhân suy sụp nhanh buộc phải ngừng công việc. Những rối loạn tiêu hoá có thể xuất hiện, bệnh nhân gầy và có sốt ngày càng tăng. Ở giai đoạn này, hội chứng xuất huyết chiếm hàng đầu. Ngoài những triệu chứng chảy máu cam, máu lợi, xuất huyết dưới da còn thấy thổ huyết, đại tiện ra máu, khái huyết, niệu huyết. Tiên lượng rất xấu đôi khi còn có xuất huyết võng mạc, xuất huyết màng não và xuất huyết não. Da và niêm mạc nhợt nhạt là biểu hiện của thiếu máu nặng kèm theo khó thở khi gắng sức, đau vùng trước ngực, phù chỗ thấp. Đôi khi thấy viêm lưỡi, viêm miệng có loét, hoại tử, chảy máu và hơi thở rất hôi. Dấu hiệu này chứng tỏ có một ổ nhiểm trùng cục bộ cần được điều trị ngay. 9 Khi làm xét nghiệm bổ sung thấy thiếu máu nặng, hồng cầu đôi khi chỉ còn trên một triệu trong một ml máu. Chọc dò não tuỷ nếu thấy tăng sinh hồng cầu và có hồng cầu là tiên lượng xấu. Giảm bạch cầu và giảm bạch cầu đa nhân trung tính là rối loạn chính rất khó chữa. Số lượng bạch cầu có thể nhỏ hơn một nghìn trong một ml máu. Tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung tính có khi chỉ còn 15-20% trong khi đó bạch cầu ái toan lại tương đối cao. Giảm tiểu cầu đôi khi rất nặng nhưng đôi khi hội chứng xuất huyết không phụ thuộc vào sự giảm tiểu cầu. Thời gian máu chảy thường kéo dài, dấu hiệu dây thắt dương tính. Thời gian máu đông biến đổi không rõ rệt. Làm xét nghiệm tuỷ đồ có giá trị tiên lượng bệnh, thấy tuỷ xương giàu hoặc nghèo loại tế bào tuỷ. Nói chung, đứng trước tình trạng này bệnh nhân sẽ chết sau vài tuần do xuất huyết lan tràn hoặc do bội nhiễm nặng, trong một bệnh cảnh suy toàn tuỷ không hồi phục. Nhiễm độc benzen mạn tính có thể điều trị khỏi nhưng lâu. Có thể trở nên nặng nếu bệnh nhân bị suy nhược, có thai hoặc bị các bệnh nhiễm trùng khác. Đôi khi nhiễm độc xuất hiện muộn, có công nhân sau hai mươi tháng nghỉ việc mới thấy xuất hiện bệnh, có biến đổi về máu [vì benzen ở rất lâu trong tuỷ xương] Nếu hồng cầu dưới một triệu, bạch cầu dưới hai nghìn trong một ml máu, bạch cầu đa nhân trung tính dưới 15% thì tiên lượng rất xấu. Trước khi chết có sốt tới 40-41%. Phụ nữ thường bị nặng hơn, dễ sẩy thai hoặc đẻ non. 1.1.2.4. Chẩn đoán * Chẩn đoán nhiễm độc benzen cấp dựa vào hơi thở có mùi benzen, có benzen trong máu, trong phủ tạng và trong chất chứa dạ dày. * Chẩn đoán nhiễm độc benzen nghề nghiệp phải đảm bảo 3 tiêu chuẩn sau: • Tiền sử nghề nghiệp Công nhân phải có tiếp xúc với benzen. Nồng độ hơi benzen trong không khí nơi làm việc vượt quá giới hạn tối đa cho phép là 0,05 mg/l. 10• Triệu chứng lâm sàng Các triệu chứng lâm sàng ở giai đoạn sớm hoàn toàn không đặc hiệu: mệt mỏi, ăn kém ngon, nhức đầu, chóng mặt…. Ở giai đoạn bệnh tiến triển thì thấy triệu chứng xuất hiện rõ rệt. Các dấu hiệu xuất huyết sớm có thể thấy là chảy máu cam, chảy máu lợi, rong kinh, bầm máu dưới da… • Cận lâm sàng: - Định lượng benzen trong máu - Định lượng phenol trong nước tiểu - Xét nghiệm huyết học: tìm số lượng hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, huyết sắc tố, công thức bạch cầu, thời gian máu chảy, dấu hiệu dây thắt, thời gian co cục máu đông. 1.1.3. Dự phòng và điều trị nhiễm độc benzen nghề nghiệp Ở đây chúng tôi đề cập đến nhiễm độc benzen ở giai đoạn sớm hay là nhiễm độc tiềm tàng, ở thể này có dấu hiệu suy nhược như mệt mỏi, nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn, nôn, ăn kém, ngủ kém, gầy, .… Đối tượng này chủ yếu còn đang tham gia công tác. Còn ở thể nhiễm độc rõ rệt thì đối tượng đã biểu hiện bệnh bằng hội chứng xuất huyết nên phải nghỉ ngơi, cho ngừng tiếp xúc với benzen và tùy theo mức độ cần nhập viện để điều trị cụ thể. Vì vậy vấn đề đặt ra ở đây là để dự phòng nhiễm độc benzen nghề nghiệp, cần thiết áp dụng tích cực và toàn diện nhiều biện pháp dự phòng như: dự phòng về môi trường làm việc đảm bảo an toàn; các biện pháp bảo hộ cá nhân đối với đối tượng trực tiếp tiếp xúc; các biện pháp về y tế như thăm khám định kỳ để pháp hiện đối tượng nhiễm độc cần được nghỉ ngơi và điều trị; bên cạnh đó là các phương pháp tập luyện nhằm nâng cao sức khỏe và tăng cường giải độc. Một phương pháp thanh thải chất độc đang được áp dụng rộng rãi trên thế giới là phương pháp Hubbard nhằm đào thải các loại chất độc khác nhau ra khỏi cơ thể như các hoá chất bảo vệ thực vật, các kim loại…Một số nghiên cứu của Giáo sư Sudakov và Giáo sư Fudin [Liên Xô cũ] vào năm 1991 trên 11nam giới bị nhiễm xạ trong vụ nổ Chernobyl đã được chứng minh là có hiệu quả. Năm 1995 tại Mỹ, khoảng gần 2000 trẻ em dưới 5 tuổi đã bị nhiễm độc chì do hậu quả của ô nhiễm môi trường bởi các chất độc hoá học đã được áp dụng phương pháp Hubbard cho hiệu quả tương đối cao, những nhiễm độc đã được thải trừ kịp thời, hạn chế ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất và hệ thống thần kinh của trẻ [62]. Hiện tại, phương pháp này đang được ứng dụng tại Việt Nam nhằm thanh thải nhiễm độc benzen nghề nghiệp đối với đối tượng công nhân phơi nhiễm xăng dầu [37]. 1.2. PHƯƠNG PHÁP DƯỠNG SINH CỦA BS NGUYỄN VĂN HƯỞNG 1.2.1. Xuất xứ bài tập và một số kết quả nghiên cứu, ứng dụng PPDS của Bác sỹ Nguyễn Văn Hưởng ở Việt Nam. Bác sỹ Nguyễn Văn Hưởng nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu Đông y đã nhiều năm nghiên cứu về phương pháp dưỡng sinh YHCT. Từ kinh nghiệm của bản thân bị liệt nửa người do tai biến mạch máu não. Ông và tập thể đã nghiên cứu và xây dựng bài tập dưỡng sinh kết hợp giữa kinh nghiệm của dưỡng sinh YHCT với YHHĐ [23]: - Kế thừa truyền thống dưỡng sinh có từ lâu đời của cha ông ta, đồng thời tiếp thu có chọn lọc các phương pháp luyện tập của các dân tộc khác trên thế giới như: Khí công, Xoa bóp của Trung Quốc, Yoga của Ấn Độ, phương pháp thư giãn của Schultz của Đức… - Lấy học thuyết Páp Lốp làm cơ sở khoa học hiện đại để giải thích cơ chế của các thủ thuật, động tác. Đây là một phương pháp tổng hợp, toàn diện bao gồm luyện thư giãn, luyện thở, vận động [xoa bóp, các động tác chống xơ cứng], ăn đúng cách, biết cách nghỉ ngơi, giữ gìn vệ sinh cá nhân. Ông đã vận dụng thành công trong bảo vệ sức khoẻ của bản thân mình và hướng dẫn cho nhiều người luyện tập đạt kết quả tốt. ¾ Cho đến hiện nay, PPDS của BS Nguyễn Văn Hưởng là một trong các phương pháp được áp dụng rộng rãi trên toàn quốc. 12 ¾ Nhiều nghiên cứu đã được triển khai nhằm đánh giá tác dụng tăng cường sức khoẻ nói chung và tăng cường thải độc cơ thể nói riêng của PPDS này. Sau đây xin giới thiệu nội dung và kết quả một số nghiên cứu liên quan đến đánh giá tác dụng bài tập dưỡng sinh của BS Nguyễn Văn Hưởng: + Năm 1987, Viện YHCT kết hợp với Trường Đại học Y Hà Nội, Học viện Quân y, Bệnh viện Công ty Than 3, Viện Quân y 108 đã tiến hành một công trình nghiên cứu 10 năm về PPDS của BS Nguyễn Văn Hưởng. Nghiên cứu đã đánh giá nhiều chỉ tiêu của bài tập này: Kết quả chung cho thấy: tình trạng ăn ngủ, đại tiểu tiện của người tập được cải thiện như ăn ngon hơn, ngủ tốt hơn, đại tiểu tiện điều hoà hơn. Về hô hấp: Dung tích sống, VEMS, chỉ số Tiffeneau đều tăng. Thành phần khí máu thay đổi PaO2 và SaO2 đều tăng. Đối với tuần hoàn: Huyết áp có xu hướng trở về bình thường chứng tỏ tác dụng điều hoà huyết áp của bài tập này [6]. + Nguyễn Văn Tường, Võ Mộng Lan, Hoàng Bảo Châu, Nguyễn Tấn Gi Trọng và cộng sự cũng nghiên cứu những thay đổi về huyết động học trước và sau đợt tập bài tập DS. Kết quả cho thấy sau tập lưu lượng tim từ 3038,2 ml tăng lên 3154ml [6]. + Phạm Huy Hùng với đề tài “ Nghiên cứu sự thay đổi một số chỉ số lâm sàng và cận lâm sàng ở người tập DS theo phương pháp của BS Nguyễn Văn Hưởng” cho biết độ dẻo cột sống được cải thiện, độ giãn nở lồng ngực tăng có ý nghĩa thống kê so với trước tập. Các chỉ số về hô hấp như dung tích sống, thể tích khí thở ra tối đa giây, chỉ số Tiffeneau đều được cải thiện [22]. + Vũ Đăng Nguyên và cộng sự nghiên cứu biến đổi điện não đồ và lưu huyết não đồ trên tất cả các đối tượng luyện tập tại Viện YHCT Việt Nam. Kết quả cho thấy: về điện não đồ, chỉ số phần trăm và biên độ sóng Alpha tăng có ý nghĩa thống kê với P < 0,001. Thể tích máu bán cầu não tăng rõ rệt với P

Chủ Đề