Chân dung một số nhà hóa học mendeleev

Dmitri Ivanovich Mendeleev sinh ngày 27 tháng 1 năm 1834 - mất ngày 2 tháng 2 năm 1907 là một nhà hóa học người Nga. Ông là người đã phát minh ra bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học.

![Name: 466b.jpg Views: 2088 Size: 43.9 KB][////i0.wp.com/www.vietstamp.net/forum/attachment.php?s=ef08aa3bf2be6e1774f31760736c2ffb&attachmentid=10612&d=1219328360]

1]Tiểu sử: Dmitri Ivanovich Mendeleev sinh ngày 27 tháng 1 năm 1834 ở thành phố Tobolsk [Serbia] trong một gia đình hiệu trưởng trung học phổ thông. Sau khi tốt nghiệp trường Tobolsk, ông vào học trường Đại học sư phạm Sankt-Peterburg và nhận huy chương vàng khi tốt nghiệp trường này năm 1855.

Năm 1859, sau khi bảo vệ luận án phó tiến sĩ với đề tài "Về Thể tích riêng" Mendeleev đã công tác ở nước ngoài hai năm. Sau khi trở về Nga, ông được bầu làm giáo sư Đại học tổng hợp Sankt-Peterburg. Ở đây ông tiến hành công tác giảng dạy khoa học trong vòng 35 năm. Năm 1892, ông được bổ nhiệm làm phụ trách khoa học bảo toàn của trạm cân đo mẫu. Theo sáng kiến của ông, năm 1893 trạm này được cải tiến thành viện cân đo chính.

![Name: 1978b.jpg Views: 1836 Size: 43.4 KB][////i0.wp.com/www.vietstamp.net/forum/attachment.php?s=ef08aa3bf2be6e1774f31760736c2ffb&attachmentid=10613&d=1219328672]

Kết quả hoạt động sáng tạo nhất của Mendeleev là sự phát minh ra hệ thống tuần hoàn của các nguyên tố vào năm 1869, lúc ông mới 35 tuổi. Trong các công trình khác của Mendeleev quan trọng nhất là "Nghiên cứu trọng lượng riêng của dung dịch nước", luận án tiến sĩ "về hợp chất của rượu với nước" và "quan niệm dung dịch như sự liên hợp". Những khái niệm cơ bản về thuyết hóa học hay hydrat hóa của dung dịch do ông nghiên cứu là phần quan trọng của thuyết hiện nay về dung dịch. Công trình xuất sắc của Mendeleev là cuốn cơ sở hóa học, trong đó toàn bộ hóa học vô cơ được trình bày theo quan điểm định luật tuần hoàn. Ông mất ngày 2 tháng 2 năm 1907.

![Name: 510HRT91KJL.jpg Views: 2889 Size: 53.2 KB][////i0.wp.com/www.vietstamp.net/forum/attachment.php?s=ef08aa3bf2be6e1774f31760736c2ffb&attachmentid=10614&d=1219328946]

2]Sự bảo thủ của Mendeleev: Định luật tuần hoàn các nguyên tố hoá học của Mendeleev là phát hiện có tính cách mạng trong lĩnh vực hoá học. Sau đó, Mendeleev cũng từng dự định tiếp tục nghiên cứu làm rõ nguyên nhân sự biến hoá có tính tuần hoàn về tính chất của các nguyên tố theo nguyên tử lượng. Nhưng ông không thoát khỏi ảnh hưởng của những quan niệm truyền thống - nguyên tố hóa học không thể chuyển hoá, không thể phân chia. Vì thế đến cuối thế kỷ 19, khi người ta tìm ra các nguyên tố phóng xạ và điện tử, đưa ra những chứng cứ thực nghiệm mới, chỉ ra sự biến đổi từ lượng sang chất của nguyên tử thì Mendeleev không lợi dụng thành quả mới này tiếp tục phát triển định luật tuần hoàn của mình, ngược lại ra sức phủ định tính phức tạp của nguyên tử và sự tồn tại khách quan của điện tử. Việc phát hiện ra nguyên tố phóng xạ rõ ràng chứng tỏ nguyên tố có thể chuyển hoá, nhưng ông lại nói: "Chúng ta không nên tin tính chất phức tạp của đơn chất mà chúng ta đã biết". Ông còn tuyên bố: "Khái niệm nguyên tố không thể chuyển hoá là hết sức quan trọng, là cơ sở của cả thế giới quan".

![Name: 463b.jpg Views: 1515 Size: 44.6 KB][////i0.wp.com/www.vietstamp.net/forum/attachment.php?s=ef08aa3bf2be6e1774f31760736c2ffb&attachmentid=10615&d=1219329562]

Tuy vậy, trên cơ sở những phát hiện vĩ đại về nguyên tố phóng xạ và điện tử, các nhà khoa học đã từng bước vạch ra bản chất của định luật tuần hoàn các nguyên tố hoá học. Họ dựa vào những nội dung hợp lý trong định luật tuần hoàn Mendeleev để đưa ra định luật tuần hoàn mới, khoa học hơn so với lý luận của ông. Định luật này chỉ ra các nguyên tố trong bảng tuần hoàn được sắp xếp theo hoá trị của nguyên tử, nguyên tử số tăng thì hoá trị của nguyên tử cũng tăng, số lượng neutron cũng sẽ tăng. Số hoá trị và số neutron kết hợp lại thể hiện gia tăng của nguyên tử lượng. Nhưng thực tiễn chứng minh không phải có bao nhiêu nguyên tố là có bấy nhiêu loại nguyên tử. Trong một loại nguyên tố có đồng vị tố chứa nhiều neutron, cũng có đồng vị tố chứa ít neutron. Nguyên tử lượng của nguyên tố là số bình quân của đồng vị tố. Hoá trị đây chính là số lượng điện tử bên ngoài nhân nguyên tử, cũng chính là điện tích của nhân nguyên tử, tức nguyên tử số. Từ đó giải quyết được vấn đề mà Mendeleev còn bỏ ngỏ. Tính bảo thủ đã khiến một nhà khoa học lớn như Mendeleev thụt lùi trên con đường nghiên cứu bí ẩn của định luật tuần hoàn, mất đi cơ hội phát triển định luật này. Trong quá khứ, không ít nhà khoa học, nhà văn một phần nhờ vào giấc mơ cho ra những công trình để đời.

Dmitri Mendeleev và bảng tuần hoàn hóa học

Dmitri Mendeleev [1834-1907] lúc bấy giờ ấp ủ ý tưởng sắp xếp 65 nguyên tố hóa học đã biết một cách có hệ thống.

Mendeleev cũng dự đoán các nguyên tố sẽ sắp xếp theo khối lượng nguyên tử nhưng không tài nào định hình một bảng rõ ràng.

"Trong một lần mơ, tôi đã thấy một bảng các nguyên tố sắp xếp thật tự nhiên. Tỉnh dậy, tôi chép ra ngay lập tức", lời của Mendeleev được nhà hóa học người Nga Bonifaty Mikhailovich Kedrov [1903-1985] trích dẫn trong tác phẩm On the Question of Scientific Creativity.

Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học năm 1871

Mendeleev cũng tiên đoán một số thuộc tính của các nguyên tố chưa biết với hi vọng sẽ lấp đầy bảng tuần hoàn của mình.

Sau này, bảng tuần hoàn mở rộng dựa trên những khám phá và tổng hợp thêm các nguyên tố mới và sự phát triển của các mô hình lý thuyết mới.

Niels Bohr và mô hình nguyên tử

Niels Bohr [1885-1962]

Niels Bohr [1885-1962] là một nhà vật lý người Đan Mạch được trao Giải Nobel Vật lý [1922] nhờ công trình mô hình nguyên tử nổi tiếng.

Theo Edwina Portocarrero từ Viện Công nghệ Massachusetts, Bohr chia sẻ ông từng nằm mơ ngồi trên Mặt Trời còn tất cả các hành tinh lại bay xung quanh trên một sợi dây thừng nhỏ.

Khi tỉnh dậy, ông nghiên cứu thành công mô hình nguyên tử gồm một hạt nhân nhỏ mang điện tích dương và các electron di chuyển xung quanh trên những quĩ đạo khác nhau, tương tự như cấu trúc hệ Mặt Trời, chỉ có điều lực hấp dẫn được thay bằng lực tĩnh điện.

Elias Howe và chiếc máy khâu

Elias Howe và chiếc máy khâu tiền thân của những chiếc máy ngày nay

Tên tuổi Elias Howe [1819-1867] gắn liền với chiếc máy khâu. Dù không phải là người phát minh máy khâu nhưng ông là người cải tiến đáng kể chiếc máy khâu và nhận được bằng sáng chế của Mỹ.

Trong giấc mơ của mình, Elias Howe được yêu cầu chế tạo chiếc máy may cho một vị vua hung tợn ở đất nước xa lạ với thời hạn trong 24 giờ, nếu không sẽ đem xử tử. Do không hoàn thành, Howe bị hành hình bởi những binh lính cầm giáo đâm xuyên qua đầu.

Sau đó, Elias Howe tỉnh dậy và bắt tay ngay vào công việc. Howe thiết kế ra loại kim cong, đặt lỗ kim ở đầu nhọn - trước đây đặt ở chân kim - và phối hợp với con suốt chỉ tạo nên đường may.

Albert Einstein và tốc độ ánh sáng

Einstein thời niên thiếu

"Einstein nói rằng toàn bộ sự nghiệp của ông ấy là một sự suy ngẫm kéo dài từ một giấc mơ thời quá khứ", John H. Lienhard, GS danh dự ngành kĩ thuật cơ khí và lịch sử tại ĐH Houston [Mỹ] chia sẻ trên chương trình phát thanh Engines of Our Ingenuity.

Lúc còn trẻ, Einstein từng nằm mơ bản thân cưỡi trên xe trượt tuyết đang xuống dốc rất nhanh. Khi Einstein và chiếc xe di chuyển gần bằng tốc độ ánh sáng, tất cả các màu sắc pha trộn thành một.

Sau khi thức giấc, ông dành phần lớn thời gian của mình suy nghĩ và nghiên cứu về những gì xảy ra ở tốc độ ánh sáng.

Kekulé và vòng benzen

Vòng tròn benzen từng là bí ẩn với các nhà khoa học

Benzen là hợp chất hữu cơ được nhà khoa học người Anh Michael Faraday [1791-1867] phát hiện từ năm 1825 nhưng sau đó vài chục năm người ta vẫn chưa hiểu được kết cấu của nó.

Các nhà khoa học biết rằng cấu trúc benzen rất đối xứng nhưng lại không tưởng tượng ra được là 6 nguyên tử carbon hóa trị 4 và 6 nguyên tử hydro hóa trị 1 sắp xếp đối xứng với nhau như thế nào để ổn định.

Năm 1865, Friedrich August Kekulé [1829-1896], nhà hóa học người Đức, ngồi ngủ gật cạnh bếp lò khi làm việc mệt mỏi. Trong giấc mơ, ông thấy các nguyên tử cacbon và hydro nối nhau và nhảy múa thành một dây xích cùng với hình ảnh một con rắn quay đầu ngậm chính cái đuôi của mình và xoay tròn trước mặt.

Kekulé tỉnh dậy và hiểu được đó chính là cấu trúc của benzen: hình lục giác với mỗi đỉnh là một nguyên tử cacbon.

Otto Loewi và đường dẫn thần kinh

Otto Loewi [1873-1961]

Đêm trước lễ Phục sinh năm 1921, Otto Loewi [1873-1961], nhà sinh vật người Áo đang ngủ chợt tỉnh dậy lấy giấy viết ghi chép rồi lại nằm xuống ngủ tiếp, sáng ra không hiểu mình đã vẽ gì.

Hôm sau, khi đang ngủ, ý tưởng vừa rồi quay trở lại. Đây là một phương pháp thực nghiệm có thể dùng để chứng minh giả thuyết mà Loewi đưa ra 17 năm trước chính xác hay không.

Loewi liền tỉnh dạy và ào đến phòng thí nghiệm, mổ lấy 2 quả tim ếch đem ngâm nước muối sinh lý, một quả tim giữ lại dây thần kinh số 10, quả thứ hai không có dây thần kinh số 10.

Ông dùng điện cực kích thích dây thần kinh số 10 của quả tim thứ nhất khiến quả tim đập chậm. Sau đó mấy phút, đem dung dịch ngâm quả tim thứ nhất chuyển vào dụng cụ đang chứa quả tim thứ hai.

Mô tả thí nghiệm của Loewi - Ảnh: Important7

Kết quả, quả tim thứ hai cũng bắt đầu đập phập phồng từ đó xác nhận rằng các nơ-ron thần kinh có thể liên lạc với nhau bằng cách giải phóng các chất hóa học. Nhờ phát hiện này, Loewi nhận được giải thưởng Nobel về Y học năm 1936.

Mary Shelley và tiểu thuyết Frankenstein

Nhà văn Mary Shelley

Mary Shelley [1797-1851] là nữ nhà văn người Anh, nổi tiếng với tiểu thuyết Frankenstein đồng thời là vợ của nhà thơ lãng mạn Percy Shelley [1792-1822].

Trong một lần đi nghỉ mát với chồng cùng nhà thơ Lord Byron [1788-1824] và nhà văn John Polidori [1795-1821] bên hồ Geneva,Thụy Sĩ, Byron đã đặt ra cuộc thi viết truyện kinh dị giữa bốn người.

Sau đó, một đêm mưa gió, Mary nằm mơ thấy một cảnh chàng sinh viên đang quỳ trước một vật thể có hình dáng như người đàn ông nhưng các bộ phận được ghép từ những cơ thể khác nhau. Đây là ý tưởng cho Frankenstein ra đời, được Mary chấp bút năm 18 tuổi và hoàn thành năm 20.

Bản vẽ miêu tả quyển sách trong lần xuất bản năm 1831 của họa sĩ Theodor von Holst

Frankenstein là câu chuyện về chàng sinh viên Victor Frankenstein tạo ra một sinh vật từ nội tạng của người đã chết, làm cho sinh vật này trở nên sống động nhưng sau đó xua đuổi "đứa con tinh thần" của mình.

Lòng hận thù làm cho sinh vật quyết định trả thù bằng cách giết chết vợ của Frankenstein và sau đó là giết chính người tạo ra mình.

Chủ Đề