Đoạn trích trên đã tô đậm lối sống như thế nào của quan phụ mẫu

“Nhân vật là trụ cột của truyện ngắn” [Tô Hoài]. Qua nhân vật, nhà văn không chỉ gửi gắm tư tưởng, tình cảm, thái độ yêu, ghét mà còn thể hiện tài năng nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo của mình.

Đến với truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn, có thể nhận ra một trong những nhân vật chính, gửi gắm tư tưởng và tài năng của tác giả chính là hình ảnh viên quan phủ đi hộ đê. Ngòi bút miêu tả chi tiết, sinh động, khéo léo của nhà văn đã dựng lên chân dung điển hình của tầng lớp quan lại phong kiến những năm đầu thế kỉ XX.

Hình ảnh quan phủ không xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm mà mở đầu tác phẩm lại là cảnh hàng trăm nghìn dân phu “chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân hèn yếu mà đối phó với sức mưa to nước lớn . để bảo vệ lấy tính mạng gia tàu”. Chính trong cảnh tượng trăm dân đang ở cảnh màn trời chiếu đất ấy thì quan phủ đang ở đâu? ống kính nghệ thuật của nhà văn quay cận cảnh “trong đình, đèn thắp sáng trưng; nha lệ lính tráng, kẻ hầu người lạ, đi lại rộn ràng”.

Còn “quan phụ mẫu” của chúng ta thì “uy nghi chễm chệ ngồi” trên sập, “tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông, chốc chốc sẽ phẩy. Tên nữa đứng khoanh tay, chực hầu điều đóm”. Chỉ bằng vài nét phác họa khung cảnh đó, dáng điệu đó, ta đã có thể đoán được cuộc sống phong lưu, phú quý và thảnh thơi của quan phủ trong khi làm nhiệm vụ hộ đê.

Thêm nữa, ngòi bút nhà văn còn khắc họa sâu hơn, chi tiết hơn những đồ vật trong căn phòng của quan phủ: “Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, để trong khay khảm, khói bay nghi ngút, tráp đôi môi chữ nhật để mở, trong ngăn bạc đầy những trầu vàng, cau đậu, rễ tía, hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng, nào dao chuối ngày nào ống pôi chạm, ngoáy tai, lí thuốc, quản bút, tăm bông…”.

Nếu nói đồ vật thể hiện con người- chủ nhân của nó- thì có thể nói, qua những đồ vật xung quanh quan phủ, tác giả muốn bày ra lối số: hoa, hưởng thụ của quan phủ. Và chắc chắn, quan phủ tỏ rõ vẻ thung dung, thích thú trong chốn giường êm nệm ấm, với đầy đủ thức vật sang trọng và kẻ hầu người hạ xung quanh chờ để phục vụ hắn. Trong khi ngoài kia mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít trong cảnh “nước sôi lửa bỏng” thì “trong này xem chừng tĩnh mịch, nghiêm trang lắm”. Cái “tĩnh mịch, nghiêm trang” của chốn quan phủ đang tiến hành một “sự vụ quan trọng” là chơi tổ tôm.

Không chỉ miêu tả khung cảnh để làm nổi bật địa vị và tính cách nhân vật, tác giả còn tập trung miêu tả ngôn ngữ của nhân vật quan phụ mẫu. Nhân vật không nói nhiều, chỉ thỉnh thoảng cất lời, mà hầu hết là những mệnh lệnh đầy oai vệ, uy nghiêm với bọn nha lại, lính lệ và thầy đề, chánh tổng. Khi thì là lời ra lệnh quyền uy: “Điếu, mày!”.

Khi thì là lời phán truyền, giục giã với thầy để lại: “Có ăn không thì bốc chứ!”, rồi: “Thì bốc đi chứ!”. Đặc biệt, tác giả xoáy vào dáng điệu, thái độ và lời quát lác đầy giận dữ của quan lớn khi có một người dân quê xông vào báo tin đê vỡ:

“Quan lớn đỏ mặt tía tai, quay ra quát rằng:

– Để vỡ rồi! … Để vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? … Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à?

………….

Đuổi cổ nó ra!”.

Vì sao quan lớn lại nổi giận đến thế? Thì ra là vì người dân quê kia dám xông vào đình, không biết phép tắc gì cả. Hơn nữa là vì kẻ quê kia đã làm gián đoạn cuộc chơi của quan, trong khi quan đang chờ bài ù. Cái tội của kẻ kia thật lớn! Nếu để mà vỡ thì quan sẽ “cách cổ”, sẽ “bỏ từ” chúng. Cơn “nổi giận lôi đình” kia của quan phụ mẫu hẳn khiến bao kẻ kinh sợ!

Và lại càng kinh sợ hơn là cái thản nhiên, lạnh lùng đến sỗ sàng, trơ cứng của quan phủ khi ngài quay vào, hỏi thầy để lại: “Thấy bốc con gì thế?”. Cứ như quan không nghe đến tin báo khẩn cấp của lũ dân đen con đỏ kia. Dường như với ngài, “một nước bài cao bằng mấy mươi đê lở, ruộng ngập!”, “ngài mà còn dở ván bài hoặc chưa hết hội thì dầu trời long đất lở, đê vỡ dân trôi, ngài cũng thấy kệ”.

Đỉnh cao kịch tính của truyện là ở chi tiết kết truyện, khắc họa hình ảnh quan phủ khi bài của quan ù to:

“Quan lớn vỗ tay xuống sập kêu to:

– Đây rồi! … Thế chứ lại! Rồi ngài vội vàng xòe bài, miệng vừa cười vừa nói:

– Ừ! Thông tôm, chi chi nảy!… Điếu, mày!”

Và “trong khi quan lớn ù oán bài to như thế thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ…”. Quả là một nghịch cảnh vừa đau thương, vừa đáng căm giận!

Như vậy, quan phụ mẫu hiện lên rõ nét trong tác phẩm không chỉ bộc lộ thái độ bàng quan, vô trách nhiệm mà còn phơi bày bản chất tàn ác, bất nhân, “lòng lang dạ thú”. Là “cha mẹ dân” nhưng quan phủ lại coi tính mạng và tài sản của muôn dân không bằng một lá bài của hắn.

Đặt nhân vật vào những tình huống mang tính xung đột, nguy cấp, đầy kịch tính để cho nhân vật tự bộc lộ thái độ và cách hành xử, Phạm Duy Tốn đã thể hiện một cây bút trần thuật sắc sảo, chín chắn, mang đậm dấu ấn của nghệ thuật văn chương hiện đại phương Tây thế kỉ XX.

Hơn hết, qua những nét khắc họa chân dung nhân vật quan phủ, nhà văn đã thể hiện thái độ căm giận, lên án gay gắt quan phủ, hay cũng chính là điển hình cho một bộ phận quan lại phong kiến nửa đầu thế kỉ XX, vừa vô trách nhiệm, vừa bất nhân, sẵn sàng chà đạp lên muôn dân lầm than để hưởng thụ cuộc sống xa hoa ích kỉ. Cái tựa đề “Sống chết mặc bay” của tác phẩm cũng chính là lời nói, là thái độ của quan phụ mẫu đối với người dân khốn cùng trong cảnh thiên tai địch họa, nước mất nhà tan.

Với Sống chết mặc bay, Phạm Duy Tốn được ghi nhận là một trong những nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc ở những năm hai mươi của thế kỉ XX, là người đặt nền móng vững chắc cho trào lưu văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930-1945 với những tác giả nổi bật như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng…

Và có thể nhìn thấy hình ảnh quan phủ trong truyện ngắn này trong những nhân vật quan lại phong kiến trong văn học hiện thực giai đoạn sau, trong những Bá Kiến, Nghị Hách, Nghị đại, huyện Hinh… Tác phẩm quả thực có giá trị hiện thực và tính nhân đạo sâu bền.

Ảnh minh họa [Nguồn internet]

Xã hội phong kiến ngày xưa đầy rẫy bất công ,oan trái ,tầng lớp thông trị chỉ biết ăn chơi sa đoạ và chạ đạp người dân.Trong truyện ngắn ‘Sộng chết mặc bay’,tác giả tài hoa Phạm Duy Tốn đã xây dựng nên 1 quan phụ mẫu điển hình như thế.Câu chuyenj lấy bối cảnh ở làng X thuộc xã X ,vào lúc nửa đêm khi nông dân phải vật lộn với thiên nhien dể hộ đê thị trong đình,1 tên lòng lan dạ sói mà nhân dân vẫn gọi là quan phụ mẫu đang ung dung chơi tổ tôm trong đình,mặc cho nhân dân phải lam lũ chống chọi với thiên tai.Khinh bỉ thay,phẫn nộ thay cho tên vô nhân đạo,hắn đi hộ đê mạ đem theo bao nhiêu thứ :nào yến hấp đường phèn ,nào ống thuốc bạc, nào dao chuôi ngà,nào tăm bông ….Xem ra xa hoa,sung sướng lắm. Trong lúc lũ con dân của hắn đang tầm tả ngoai kia mà hắn có thể ăn chơi phè phỡn trên nỗi khổ của họ.Bỗng có tiếng kêu vang dậy trời đất ,rồi 1 người vội vã chạy vào nói với hắn là đê đã vỡ ,nhưng tên vô lương tâm ấy không những không nghĩ cách cứu đê mà còn quát mắng người dân khổ sở ấy,điều đó đã chứng minh quan phụ mãu là 1 tên vô lương tâm.Khi đê vỡ cũng là lúc quan ù ván bài to nhất,tình cảnh bên ngoài rơi vào cảnh nghìn sầu muôn thảm. người sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn. Tất cả lênh đênh mặt nước nhưng quan lại được sự sung sướng khi ván bài đã ù to nhưng trên tính mạng của người dân vô tội.Tính cách xa hoa , vô trách nhiệm của tên lòng lang dạ sói đã dẫn đến hậu quả thảm sầu cho người dân. Với cách kết hơp tài tình giữa phép tương phản và tâng cấp, Phạm Duy Tốn đã thể hiện rõ thái độ vô trách nhiệm, bàn quan của tên quan phụ mẫu trong tác phẩm "Sống chết mặc bay" - một tên "lòng lang dạ sói". Hãy thử tưởng tượng mà xem, khi lũ con dân của mình đang "chân lấm tay bùng, trăm lo nghìn sợ, đêm thân yếu hèn mà đối với sức mưa to nước lớn, để bảo thủ lấy tính mạng gia tài" thì quan phụ mẫu lại đang say sưa trong ván bài. Với hắn, có lẽ những ván bài đỏ đen còn quan trọng gấp vạn lần tính mạng con dân. Ôi thôi, liệu cái ván bài đó có đáng để hi sinh hơn mấy trăm mạng ngươi chứ! Thật là một tên vô lại! Mà ấy còn chưa hết, thậm chí khi "đứa con" của ngài chạy vào nói:"Bẩm...quan lớn...đê vỡ mất rồi!", hắn còn quát vào mặt, đe doạ: "....Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng , thời ông bỏ tù *********! Có biết không?..." rồi đuổi ra. Thật đúng là kẻ vô lương tâm, độc ác! Liệu cái xã hội có đầy rẫy nhưng kẻ như vậy sẽ ra sao đây! Phải nói rằng, tác phẩm "Sống chết mặc bay" quả là một tác phẩm tuyệt vời!

Cuộc sống đen tối cùng cực của người dân Việt Nam ở nông thôn cũng như bản chất xấu xa, đê tiện của bọn quan lại thời thực dân phong kiến… đã được phản ánh rõ nét và chân thật qua nhiều tác phẩm văn học hiện thực. Trong các tác phẩm văn học đó, người đọc không thể nào quên được hình ảnh tên quan phụ mẫu trong truyện Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn. Đó là một tên quan đi hộ đê nhưng vì mải mê cờ bạc, vô lương tâm, không có tinh thần trách nhiệm nên đã đề xảy ra thảm cảnh đê vỡ – một tai họa khủng khiếp cho dân lành Khúc đê vang động âm thanh trống đánh liên hồi để động viên dân làng hàng trăm nghìn người từ chiều đến gần một giờ đêm ra sức giữ gìn bằng cách bồi đắp con đê. Trên trời, mưa vẫn tầm tã trút xuống. Dưới sông, nước cứ cuồn cuộn dâng lên. Sức người chống lại với sức nước. Thế mà trong đình đèn thắp sáng trưng, quan phụ mẫu ngồi chễm chệ, uy nghi trên sạp, tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra để cho một tên người nhà quỳ dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông, chốc chốc sẽ phẩy, tên nữa đứng khoanh tay, chực hầu điếu đóm [châm thuốc]. Quan thật thảnh thơi, an nhàn làm sao ấy! Chưa hết, bên cạnh ngoài, mé tay trái, bát yến đường phèn để trong khay khảm, khói bay nghi ngút… Chung quanh sạp, có đủ các mặt thầy đề, thầy đội, thầy thông nhì, ông chánh tổng sở tại. Tất cả đang tụ họp lại để chơi bài tổ tôm. Cảnh tượng trên khiến cho người đọc vừa xót xa vừa căm giận, Thật là hai thế giới cách biệt. Gần một giò’ đêm, người nào người ấy lướt thướt như chuột lột sức người khó lòng địch nổi với sức trời, vậy mà qụan không hề mảy may để ý đến cái công việc hộ đê ấy, trong khi quan có nhiệm vụ giữ cho con đê an toàn, bảo vệ tài sản, tính mạng cho dân làng. Rõ ràng, đây là một tên quan vô trách nhiệm trước sự sống chết của người dân, hắn chỉ biết hưởng thụ, sống sung sướng cho bản thân. Hắn còn vô nhân hơn khi mọi người dân đang ra sức giành giật từng giờ từng phút giữa cái sống và cái chết của con đê thì hắn cũng đang giành giựt từng giờ từng phút với những ván bài tổ tôm cùng với bọn nha lại: Ở đây, ầm ĩ với những lời trao đổi Bát sách!Ăn; Thất văn… Phỗng-lúc mau, lúc khoan thật là nhịp nhàng, thoải mái. Ngoài kia đê vỡ mặt đê, nước sông dù cao đến đâu cũng không bằng nước bài cao thấp. Phải chăng một trăm hai mươi lá bài đen đỏ kia có một ma lực rất lớn khiến cho quan mê mẩn mà quên đi biết bao sinh mạng, tài sản của nhân dân… đang chờ đợi quan! Mà phải, hắn đâu cần biết gì nữa vì quanh hắn còn có bọn tay chân lúc nào cũng tỏ ra nịnh nọt, kẻ hầu người hạ, vâng dạ… Thậm chí chúng nó nói thẳng với quan Mình vào được, nhưng không dám cố ăn kìm, rằng mình có đôi mà không dám phỗng qua mặt. Thì ra chúng đã chìm mồi cho quan ù thông [thắng hai ván liên tiếp nhau]. Như vậy thì thích quá, sướng quá làm sao quan còn nhớ đến việc gì nữa. Vả lại trong đình cao, đèn sáng chứ nếu quan xuống dưới kia quan sẽ ướt như chuột lột sao? Và rồi bọn nha lại đâu có dịp hầu quan, làm cho quan vui lòng? Trách nhiệm của quan và bọn nha lại là như thế đấy? Ván bài khác lại tiếp. Quan vừa xơi xong bát yến, vuốt râu, rung đùi. Hắn nhìn đĩa nọc [đĩa đựng bài] để chờ đến phiên vuốt bài. Hắn đang trầm ngâm chờ có người bốc trúng quân bài để hắn hạ – hắn sẽ ù to. Bỗng có người khẽ bảo Bẩm dễ có khi đê vỡ! Quan gắt Mặc kệ và ra lệnh tiếp tục… Bên ngoài có tiếng kêu lên ầm ĩ, tiếng gà, chó, trâu, bò, kêu vang tứ phía. Một người nhà quê quần áo ướt đẫm, tất tả chạy xông vào: Bẩm… quan lớn… đẽ vã mất rồi!. Quan lớn hét:… Đê vỡ rồi thì ông cắt cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày… Lính đâu sao bây dám để nó chạy sồng sộc vào đây, không có phép tắc gì nữa à?… Đuổi cổ nó ra. Sau lần ồn ào dỏ mặt ấy, quan xuống giọng Thầy bốc quân gì thể?. Dạ, bẩm con chưa bốc. Thì cứ bốc đi cliứ!… Chi… chi. Tiếng quan vang to lên sưng sướng, ngài vỗ tay thật mạnh xuống xập: Đây rồi, thế chứ lại!. Quan xòe bài ra, cười vui vẻ: Thông tôm, chi chi nẩy! Điếu mày. Thì ra ngài mà còn dở ván bài, hoặc chưa hết hội thì dầu trời long đất lở, đê vỡ dân trôi, ngài củng thây kệ. Đến đây lòng ta se lại, bộ mặt thật của chúng là thế đấy! Quan có biết đâu khi quan ù ván bài to thì khắp mọi nơi nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết… Kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước… một tai họa khủng khiếp đối vớị dân lành – phải chăng đây là thành tích của quan phụ mẫu đi hộ đê thời bấy giờ? Sống chết mặc bay là tên truyện ngắn nhưng nó đã phản ánh rõ nét bộ mặt thật xấu xa, vô nhân của một tên quan phụ mẫu dưới thời Pháp thuộc. Hắn sông phè phỡn, chỉ biết bài bạc đỏ đen – đó là niềm vui, niềm hạnh phúc của hắn. Giữ một chức to – quan phụ mẫu, nhưng không cần biết trách nhiệm, không cần lo cho dân, hắn chỉ biết thỏa mãn, sở thích của hắn mặc cho dân lành chịu bao cảnh tang thương khổ sở vì đê vỡ là mất tất cả. Hắn thì chỉ biết sống chết mặc bay. Cái thái độ ấy phải là một lúc, một thoáng chốc mà là bản chất, là lòng lang dạ thú của bọn quan lại vô nhân. Truyện giúp ta hiểu và cảm thông sâu xa với những bất hạnh của người dân dưới xã hội cũ. Càng hiểu ta càng ghê tởm bộ mặt quan lại bất nhân xưa kia. Chúng chỉ là những tên sâu dân mọt nước gây đau khổ cho dân lành. Và ta mong sao trong xã hội mới này, những người đang giữ vị trí cao, sẽ sông đúng đắn là đầy tớ của nhân dân, biết lấy hạnh phúc của dân làm hạnh phúc của mình. Có lẽ đó cũng chính là mơ ước chung của mọi người dân hiện nay vậy.

Video liên quan

Chủ Đề