F0 không triệu chứng có cần uống thuốc không

Thuốc dùng để điều trị bệnh, tất nhiên chỉ nên sử dụng khi có bệnh, dưới sự chỉ định của thầy thuốc. Tuy nhiên, nó luôn là con dao hai lưỡi. Nếu không thực sự cần thiết thì không nên sử dụng, để tránh những tác dụng phụ không mong muốn. Đối với cả bệnh Covid-19 cũng vậy, khi  không có triệu chứng các bác sĩ khuyến cáo không cần sử dụng thuốc.

Theo thống kê của Sở Y tế TP HCM, số bệnh nhân mắc Covid 19 không triệu chứng và nhẹ chiếm khoảng 80% tổng số ca mắc. Với những bệnh nhân không có bất kỳ triệu chứng nào, các bác sĩ khuyến cáo không cần phải dùng thuốc điều trị, tuy nhiên họ cần phải tuân thủ chặt chẽ qui định tự cách ly ở khu vực riêng biệt, tránh tiếp xúc với người xung quanh, sát khuẩn hàng ngày và đảm bảo kết nối thường xuyên với nhân viên y tế để được theo dõi hàng ngày. Ngoài ra, người bệnh cần lưu ý ăn uống đủ dinh dưỡng tăng cường sức đề kháng, và chuẩn bị sẵn sàng các loại thuốc thiết yếu.

Dưới đây là một số loại thuốc thiết yếu mà F0 không triệu chứng tự theo dõi tại nhà cần chuẩn bị sẵn:

Đầu tiên là thuốc hạ sốt. Loại thuốc phổ biến là paracetamol, có nhiều chế phẩm khác nhau và tiện dụng. Đây là loại thuốc không thể thiếu ngay cả khi không phải là F0, trong tủ thuốc gia đình cũng cần phải dự phòng.

Trong trường hợp bị sốt cần dùng đến, bạn cần lưu ý đến liều lượng sử dụng cho phép, và theo sự chỉ dẫn của bác sĩ. Thông thường, liều lượng uống paracetamol được tính theo số cân nặng của mỗi người. 10-15g/kg cân nặng. Ví dụ 1 người 50kg sẽ uống được 1 viên 500mg. Và uống mỗi lần cách nhau 4-6 tiếng, một ngày uống tối đa 5 lần. Nếu uống quá liều, thuốc có thể gây ảnh hưởng xấu đến gan, dẫn đến suy gan, ngộ độc, điều trị rất khó khăn và có nguy cơ tử vong.

Ngoài ra, trong nhà luôn cần có nước súc họng bằng dung dịch pha sẵn, hoặc nước muối sinh lý. Bạn cần kiên trì súc họng khoảng 3-5 lần mỗi ngày.

Một loại thuốc nữa mà F0 cần phải chuẩn bị sẵn sàng đó là thuốc kháng viêm và chống đông. Riêng với loại thuốc này cần được sự chỉ dẫn sử dụng kỹ càng từ bác sĩ. Thuốc kháng viêm và chống đông chỉ dùng khi có biểu hiệu suy hô hấp.

Tức là khi nhịp thở của bạn trên 25 lần trên phút, là bạn đang có nguy cơ khó thở, tức ngực, khó nói. Đó là những triệu chứng của suy hô hấp.

Nếu có thể bạn nên trang bị máy SpO2 cặp ở đầu ngón tay để đo nồng độ oxy chính xác. Bình thường SpO2 trên 96%, nếu ta chỉ hít thở khí thở. Nếu SpO2 dưới 95% là dấu hiệu suy hô hấp. Để sử dụng máy này, bạn cần thực hiện đúng kỹ thuật và không nên sơn móng tay, vì nếu cặp sai, hay sơn móng thì tín hiệu không đúng, cho kết quả SpO2 bị hạ dù không thiếu oxy.

Khi đo được có biểu hiện suy hô hấp, bạn cần chuẩn bị sẵn sàng thuốc chống viêm, chống đông, đồng thời kết nối ngay với nhân viên y tế để được hỗ trợ kịp thời. Lưu ý là loại thuốc này chỉ giúp bạn cầm cự trong thời gian chờ đợi nhân viên y tế đến trợ giúp.

Các thuốc chống viêm thường dùng là dexamethasone, methylprednisolone hoặc prednisolone, dexamethasone,… Khi cần bạn sẽ được bác sĩ hướng dẫn lựa chọn loại thuốc phù hợp.

Thuốc chống đông có 3 loại với hàm lượng khác nhau, trong thuốc đã ghi rất rõ hàm lượng bao nhiêu. Ví dụ rivaroxaban, apixaban, dabigatran. Để tìm hiểu rõ thông tin về thuốc, ngoài việc hỏi rõ bác sĩ, bạn  có thể tìm kiếm thêm mạng internet, có thể đọc được tên và hàm lượng, liều dùng. Thông thường thì trong các gói thuốc cũng đã ghi rất rõ hàm lượng, liều lượng, cách dùng như thế nào, chỉ cần ta tuân thủ đúng theo hướng dẫn là có thể đảm bảo an toàn trong dùng thuốc.

Với thói quen uống thuốc theo “kê đơn truyền miệng”, theo bạn bè, người thân mách, nhiều F0 thể nhẹ vẫn đang tự ý sử dụng các loại thuốc kháng virus, thuốc kháng sinh và thuốc kháng viêm. Nhiều người tin rằng, uống thuốc kháng virus sớm sẽ giúp giảm triệu chứng, nhanh “âm tính” hay uống kháng sinh sẽ giúp dứt điểm cơn ho…

Khi số ca F0 tăng vọt trong thời gian qua, với phần lớn trong đó là mắc COVID-19 thể nhẹ, không triệu chứng và điều trị tại nhà, nhiều người đang dần coi đây là “bệnh đặc hữu” và tự ý dùng thuốc kháng sinh khi có triệu chứng ho, đờm… Các bác sĩ cảnh báo, “kháng sinh là con dao hai lưỡi”, nhất là với bệnh nhân COVID-19 việc sử dụng thuốc càng cần cẩn trọng hơn, để tránh nguy cơ bị dị ứng, hay tổn thương men gan, thận…sẽ khiến tình trạng người bệnh nặng hơn nếu mắc hậu COVID.

Theo Ths.BS Nguyễn Thu Hường, Trưởng đơn nguyên chống dịch, BV Thanh Nhàn, việc lạm dụng kháng sinh là hoàn toàn không đúng. Bởi tổn thương phổi do COVID-19 là tổn thương xơ phổi và gây kích thích trào ngược, do vậy, việc sử dụng kháng sinh phải đúng căn cứ, có xét nghiệm khẳng định về nhiễm trùng. Bệnh nhân khi ho nhiều hay có bất cứ triệu chứng gì vẫn cần gặp bác sĩ để được tư vấn và kê đơn.

Ths.BS Nguyễn Thu Hường, Trưởng đơn nguyên chống dịch, BV Thanh Nhàn.

Theo các bác sĩ điều trị COVID-19, qua khai thác lịch sử dịch tễ của người bệnh sau khi nhập viện, có nhiều bệnh nhân là F0 có bệnh nền tiểu đường, tăng huyết áp nhưng triệu chứng COVID-19 rất nhẹ nên điều trị ở nhà. Theo đó, người thân đã tự mua thuốc Molnupiravir cho bệnh nhân dùng. 

“Sau khi dùng thuốc đến ngày thứ 3-thứ 4 bệnh nhân có biểu hiện nặng, đến bệnh viện khám thì bệnh nhân đã ở tình trạng rất nặng và phải nhập viện điều trị. Chúng tôi khuyến cáo người bệnh rằng, đây là phải có chỉ định mới được sử dụng. Thường thuốc được kê đơn cho bệnh nhân trẻ tuổi, không bệnh lý nền, với chức năng gan thận hoàn toàn bình thường. Những người bệnh có tình trạng suy thận, men gan tăng cao thì không có chỉ định dùng thuốc. Vì vậy việc sử dụng phải có sự giám sát của nhân viên y tế. Bệnh nhân không nên tự mua và sử dụng thuốc”, BS Nguyễn Thu Hường cho biết thêm.

Cũng theo BS Hường, hiện chưa có nghiên cứu nào chứng thực việc sử dụng thuốc kháng virus từ khi chưa mắc COVID-19 có thể dự phòng hậu COVID-19. Thậm chí, nhiều người sử dụng thuốc bổ để hỗ trợ điều trị tại nhà, nhưng các bác sĩ khẳng định việc sử dụng thuốc với cơ thể cần qua thăm khám và kê đơn.

“Khi khai thác lịch sử dịch tễ người bệnh, chúng tôi còn thấy có người bệnh sử thuốc không theo hệ thống chính thống. Do vậy lời khuyên đầu tiên là phải gặp bác sĩ để chẩn đoán mình mắc bệnh gì hay tổn thương hậu COVID là gì để sử dụng đúng thuốc, tránh tiền mất tật mang và những biến cố từ chính những thuốc bổ mà người bệnh nghĩ là tốt”, BS Hường khuyến cáo. 

ThS.BS Nguyễn Trung Cấp, Phó Giám đốc Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương cũng cho rằng, việc người dân truyền tai nhau mua thuốc điều trị COVID-19 có thể gây nguy hiểm nếu dùng sai thuốc. Theo BS Nguyễn Trung Cấp, thuốc điều trị COVID-19, đặc biệt là thuốc kháng virus đều là những thuốc mới được nghiên cứu. Do đó, các đặc tính của thuốc cũng như các tác dụng và độc tính vẫn cần tiếp tục theo dõi, nghiên cứu tiếp. Nếu như không triệu chứng hay triệu chứng vô cùng nhẹ, người bệnh có thể không cần uống thuốc.

Trước đó, Cục Quản lý Dược [Bộ Y tế] cảnh báo, việc quảng cáo và rao bán các loại thuốc như: Molnupiravir, Favipiravir và Remdesivir đều là trái phép. Bởi các thuốc này chưa được Bộ Y tế cấp giấy đăng ký lưu hành và mới chỉ được đưa vào sử dụng thí điểm có kiểm soát chặt chẽ của cơ quan chức năng.

"Trường hợp phát hiện các hành vi vi phạm có dấu hiệu hình sự thì kịp thời chuyển cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định", văn bản của Cục Quản lý Dược nêu rõ./.

Thuốc chứa Molnupiravir là thuốc mới, được cấp phép có điều kiện, là thuốc kê đơn, cần tiếp tục theo dõi về chất lượng, hiệu quả, an toàn của thuốc trong quá trình lưu hành.

Việc sử dụng thuốc Molnupiravir cần phải có sự thăm khám, kê đơn và hướng dẫn của bác sĩ, nhân viên y tế. Người dân không nên lo lắng, tích trữ và tự ý sử dụng thuốc, vì việc sử dụng thuốc không đúng chỉ định sẽ ảnh hưởng tới việc điều trị bệnh đồng thời tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe do nguy cơ do các phản ứng có hại của thuốc.

Về chỉ định, Molnupiravir được sử dụng để điều trị COVID-19 mức độ nhẹ đến trung bình ở người trưởng thành dương tính với xét nghiệm chẩn đoán SARS-CoV-2 và có ít nhất một yếu tố nguy cơ làm bệnh tiến triển nặng.

Các giới hạn sử dụng thuốc:

- Molnupiravir dùng trên bệnh nhân có thời gian khởi phát triệu chứng dưới 5 ngày.

- Molnupiravir không được sử dụng quá 5 ngày liên tiếp.

- Molnupiravir không được sử dụng để dự phòng sau hay trước phơi nhiễm để phòng COVID-19.

Khuyến cáo và thận trọng khi dùng thuốc với phụ nữ có thai và cho con bú, theo đó, Molnupiravir không được khuyến cáo sử dụng trong thời kỳ mang thai. Phụ nữ có khả năng mang thai nên sử dụng biện pháp tránh thai hiệu quả trong thời gian điều trị và trong 4 ngày sau liều Molnupiravir cuối cùng.

Dựa trên khả năng xảy ra các phản ứng có hại cho trẻ sơ sinh từ Molnupiravir, không khuyến cáo cho con bú trong thời gian điều trị và trong 4 ngày sau liều Molnupiravir cuối cùng.

Với, trẻ em và thanh thiếu niên, Molnupiravir không được phép sử dụng cho bệnh nhân dưới 18 tuổi vì có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của xương và sụn.

Với nam giới, Molnupiravir có thể ảnh hưởng đến tinh trùng, mặc dù rủi ro được coi là thấp. Vì vậy, nam giới hoạt động tình dục với phụ nữ có khả năng sinh đẻ nên sử dụng một phương pháp tránh thai tin cậy trong thời gian điều trị và ít nhất 3 tháng sau liều Molnupiravir cuối cùng.

Bộ Y tế đặc biệt lưu ý người dân không tự ý mua, sử dụng thuốc Molnupiravir trôi nổi, không rõ nguồn gốc, xuất xứ trên thị trường, chỉ sử dụng các thuốc đã được Bộ Y tế cấp phép lưu hành.

Video liên quan

Chủ Đề