Gia đình là gì công dân 10

Chương 37: Trách Nhiệm Gia Đình

Giáo Án Giáo Dục Công Dân Lớp 10

Giáo Án Giáo Dục Công Dân Lớp 10 Bài 12: Công Dân Với Tình Yêu, Hôn Nhân Và Gia Đình [Tiết 2]

Bài 12. Công Dân Với Tình Yêu, Hôn Nhân Và Gia Đình

[Tư Vấn] +8 Máy May Gia Đình Tốt Nhất [Review: 2022]

Chức năng cơ bản của gia đình là vai trò cơ bản của gia đình mà vai trò đó làm cơ sở cho toàn bộ sự hoạt động và phát triển của gia đình.

Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi nuôi dưỡng mỗi con người, có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con người. Theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam thì gia đình có ba chức năng cơ bản: chức năng sinh đẻ, chức năng giáo dục, chức năng kinh tế. Chức năng sinh đẻ nhằm tái sản xuất ra con người, nhằm duy trì và phát triển nòi giống. Nhờ có chức năng sinh để của gia đình mà xã hội không thể bị diệt vong. Chức năng giáo dục nhằm trang bị cho con người những tri thức cần thiết để phục vụ cuộc sống, phục vụ cho sự phát triển của đất nước. Chức năng kinh tế của gia đình nhằm tạo ra những gia đình ấm no. Kinh tế gia đình phát triển thì nền kinh tế quốc gia mới hưng thịnh. Trong các chức năng trên, chức năng giáo dục đóng vai trò quan trọng. Ngoài ra, gia đình Việt Nam còn có chức năng quan tâm, chăm sóc, bảo vệ người cao tuổi.

Yêu cầu phản tố là gì ? Quy định về yêu cầu phản tố[09/11]

Yêu cầu của đương sự là gì ? Quy định về yêu cầu của đương sự[09/11]

Yếu tố nước ngoài là gì ? Quy định pháp luật về yếu tố nước ngoài ?[09/11]

Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa là gì ?[09/11]

Ý thức pháp luật là gì ? Quy định về ý thức pháp luật[09/11]

Ý thức công dân là gì ? khái niệm ý thức công dân được hiểu thế nào ?[09/11]

Ý chí nhà nước là gì ? Khái niệm ý chí nhà nước hiểu thế nào cho đúng ?[09/11]

Xử phạt vi phạm hành chính là gì ? Quy định về xử phạt vi phạm hành chính[09/11]

Xử lý vi phạm pháp luật là gì ? Quy định về xử lý vi phạm pháp luật[09/11]

Xử lý vi phạm kỷ luật lao động là gì ? Quy định về xử lí vi phạm kỷ luật lao động[09/11]

Bộ máy nhà nước là gì ? Khái niệm về bộ máy nhà nước ?

Vi phạm pháp luật là gì ? Quy định về hành vi vi phạm pháp luật

Quyền tham gia quản lí nhà nước và xã hội là gì ? Quy định về quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội

Nhiệm Vụ, Quyền Hạn Của Trung Tâm Dân Số

Hậu Quả Của Việc Không Thực Hiện Kế Hoạch Hóa Gia Đình

Máy Hàn Điện Tử Legi Tig

Máy Hàn 3 Chức Năng Que

Máy Hàn Điện Tử, Hàn Inox, Co2, Hàn Tig, Hàn Mig

Gia Đình Với Chức Năng Giáo Dục Trong Bối Cảnh Toàn Cầu Hóa

Giám Đốc, Tổng Giám Đốc Công Ty Là Gì?

Chức Năng Của Giám Đốc Là Gì?

Nhiệm Vụ, Chức Năng, Quyền Hạn Của Giám Đốc Điều Hành [ Tổng Giám Đốc]

Mô Tả Công Việc Vị Trí Giám Đốc Điều Hành

Các chức năng cơ bản của gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội, Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình.Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.

Mỗi gia đình là một tế bào của xã hội, là nơi con người ta sinh ra và lớn lên, là nơi nuôi dưỡng các thế hệ về cả thể chất, trí tuệ lẫn đạo đức, nhân cách để hội nhập vào cuộc sống cộng đồng – xã hội và hơn nữa là trở thành những con người lương thiện, sống có ích, có nghĩa, có tình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt”.Vậy gia đình có những chức năng gì? Tầm quan trọng của việc nghiên cứu xã hội học gia đình đồi với lĩnh vực pháp luật?

Để hiểu được những vấn đề trên trước hết trước hết ta phải hiểu được khái niệm gia đình là gì?

Gia đình là thiết chế xã hội, trong đó những người có quan hệ ruột thịt [hoặc đặc biệt cùng chung sống]. Gia đình là phạm trù biến đổi mang tính lịch sử và phản ánh văn hóa của dân tọc và thời đại. Gia đình là trường học đầu tiên có mối quan hệ biện chứng với tổng thể xã hội.

Gia đình – đơn vị xã hội [nhóm xã hội nhỏ], là hình thức tổ chức xã hội quan trọng nhất của sinh hoạt cá nhân dựa trên hôn nhân và các quan hệ huyết thống, tức là quan hệ vợ chồng, giữa cha và mẹ, giữa anh chị em và người thân thuộc khác cùng chung sống và có kinh tế chung.

“Gia đình là tế bào của xã hội, Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình.Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những công dân tốt. Con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ.Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con.

Khái niệm về gia đình mang tính pháp lý ở Việt Nam được ghi trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 [Điều 8. Giải thích từ ngữ ]: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau theo hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo qui định của Luật này”.

Tóm lại Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt của con người, là một thiết chế văn hóa xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển dựa trên các mối quan hệ như: quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục giữa các thành viên trong gia đình.

“Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt”[5] Gia đình có ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội.

Gia đình đóng vai trò, vị trí hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của loài người. Gia đình được sinh ra, tồn tại và phát triển có sứ mệnh đảm đương những chức năng đặc biệt mà xã hội và tự nhiên đã giao cho, không thiết chế xã hội nào có thể thay thế được. Chức năng của gia đình là một khái niệm then chốt của xã hội học gia đình, các nhà nghiên cứu xã hội học gia đình trên cấp độ vi mô và cấp độ vĩ mô đều khẳng định những chức năng cơ bản của gia đình.

Quan hệ giữa gia đình và xã hội cũng như quan hệ giữa các thành viên và các thế hệ trong gia đình thông qua việc thực hiện các chức năng của gia đình, do đó trở thành đối tượng nghiên cứu chủ yếu của xã hội học gia đình. Các nhà xã hội học đã nghiên cứu về gia đình trên các cấp độ cả vi mô và vĩ mô đã cho thấy gia đình có các chức năng cơ bản sau: chức năng kinh tế, chức năng tái sinh sản, duy trì nói giống và chức năng giáo dục.

Đây là chức năng cơ bản quan trọng của gia đình nhằm tạo ra của cải, vật chất, là chức năng đảm bảo sự sống còn của gia đình, đảm bảo cho gia đình được ấm no, giàu có làm cho dân giàu, nước mạnh như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “dân có giàu thì nước mới mạnh “. Chức năng này bao quát về nhu cầu ăn, ở, tiện nghi, là sự hợp tác kinh tế giữa các thành viên trong gia đình nhằm thỏa mãn nhu cầu của đời sống.

Để có kinh tế của mỗi gia đình ngày càng được cải thiện và nâng cao, ngoài những thành viên đang còn ở độ tuổi trẻ em thì những thành viên đang ở độ tuổi lao động cần có một công việc, một mức thu nhập ổn định. Ngoài ra còn cần có nguồn thu nhập thêm để có thêm nguồn thu chi trả cho những chi phí lặt vặt hàng ngày.

Chức năng này góp phần cung cấp sức lao động – nguồn nhân cho xã hội. Chức năng này sẽ góp phần thay thế những lớp người lao động cũ đã đến tuổi nghỉ hưu, đã hết khả năng lao động linh hoạt, năng động, sáng tạo. Việc thực hiện chức năng này vừa đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của xã hội vừa đáp ứng được nhu cầu về tâm sinh lí, tình cảm của chính bản thân con người. Ở mỗi quốc gia khác nhau thì việc thực hiện chức năng này là khác nhau. Ví dụ:

Ở Việt Nam, thực hiện kế hoạch hóa gia đình, mỗi gia đình chỉ có từ 1 đến 2 con vừa đảm bảo được sức khỏe cho mẹ lại đảm bảo được chất lượng về cuộc sống cho gia đình và có điều kiện chăm sóc, dạy bảo các con.

Ở Trung Quốc hiện nay tỉ lệ nam giới đang có sự chênh lệch lớn so với nữ giới, vì thế nên nhà nước đang thực hiện chính sách khuyến khích sinh con một bề là con gái. Đến năm 2010, tại Trung Quốc, SRB đạt 118 bé trai/100 bé gái, giảm so với 121 [năm 2008], 119 [năm 2005], 121 [năm 2004]. Tỷ số giới tính sẽ vẫn tiếp tục chênh lệch ở mức báo động 119 bé trai trên 100 bé gái vào những năm 2030.

Đây là chức năng hết sức quan trọng của gia đình, quyết định đến nhân cách của con người, dạy dỗ nên những người con hiếu thảo, trở thành người công dân có ích cho xã hội bởi gia đình là trường học đầu tiên và ở đó cha mẹ là những người thầy đầu tiên trong cuộc đời mỗi con người:” Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.. ”

Mỗi gia đình đều hình thành tính cách của từng thành viên trong xã hội Gia đình là môi trường xã hội hóa đầu tiên của con người và là chủ thể của sự giáo dục. Như khoa học đã xác định rõ ràng, cơ sở trí tuệ và tình cảm cá nhân thường hình thành ngay từ thời thơ ấu. Gia đình trang bị cho đứa trẻ những ý niệm đầu tiên để lí giải thế giới sự vật, hiện tượng, những khái niệm về cái thiện và cái ác, dạy cho trẻ con hiểu rõ đời sống và con người, đưa trẻ con vào thế giới của những giá trị mà gia đình thừa nhận và thực hiện trong đời sống của nó.

Việt Nam là một quốc gia mang đậm nét đẹp truyền thống về đạo đức và lối sống thuần phong mĩ tục, vì thế nội dung giáo dục của gia đình cũng phải chú ý đến việc giáo dục toàn diện cả về phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm, lối sống, ý thức, cung cách cư xử trong cuộc sống và giáo dục cả về tri thức…

Để chức năng này được thực hiện một cách có hiệu quả thì gia đình phải có phương pháp giáo dục, răn đe một cách đúng đắn. Ai sai thì nhận sai và sửa chữa chứ đừng vì cái tôi, cái sĩ diện và tính bảo thủ của mình mà cố chấp không thay đổi. Có nhiều gia đình dạy dỗ con cái bằng những trận đòn roi, những cái bạt tai đến tối mặt mũi.. Liệu đó có phải là biện pháp hiệu quả? Những biện pháp ấy chẳng những không đem lại tác dụng gì mà càng khiến con cái trở nên chai lì, tâm lí tiêu cực và mất đi tình cảm thân thiết, niềm tin vào những người trong cùng một mái nhà.

Thay bằng những trận đòn roi đến nhừ người thì những bậc cha mẹ nên dạy dỗ, chỉ bảo con cái mình nhẹ nhàng, phân tích rõ đúng sai để con trẻ hiểu. Hơn nữa những bậc cha mẹ, ông bà nên là một tâm gương để thế hệ trẻ noi theo. Các thành viên trong gia đình sống thuận hòa, vui vẻ, cùng nhau chia sẻ những khó khăn trong cuộc sống.

Lại có nhiều những gia đình cha mẹ mải kiếm tiền mà không biết hài hòa giữa vật chất và tinh thần nên không có thời gian quan tâm sát sao đến con cái khiến chúng trở nên sống buông thả, bị cám dỗ vào những tệ nạn xã hội, có những hành vi đi ngược lại với thuần phong mĩ tục và truyền thống đạo đức của dân tộc…

Tuy việc giáo dục ở gia đình chỉ là một khía cạnh nhưng đó vẫn là cái gốc, con người sẽ trở nên hoàn thiện hơn khi có sự kết hợp giáo dục cả ở gia đình, nhà trường, xã hội và hơn nữa là ý thức tự giác tu dưỡng rèn luyện từ phía mỗi người…

Thông qua việc thực hiện chức năng giáo dục, gia đình thực sự trở thành cầu nối không thể thay thế được giũa xã hội và cá nhân.

Gia đình là phạm trù lịch sử, biến đổi theo thời gian. Mỗi thời đại lịch sử cũng như mỗi chế độ xã hội đều sản sinh ra một loại gia đình, xây dựng một kiểu gia đình lí tưởng với chức năng xã hội của nó.

Ngoài ba chức năng cơ bản trên thì gia đình còn có chức năng thoả mãn nhu cầu tinh thần, tình cảm và chăm sóc sức khỏe. Đây là chức năng có ý nghĩa quan trọng trong việc chia sẻ tình yêu thương gắn bó giữa các thành viên của gia đình, đặc biệt là tình yêu hạnh phúc lứa đôi. Tổ ấm gia đình vừa là điểm xuất phát cho con người trưởng thành, vững tin bước vào cuộc sống xã hội, đồng thời cũng là nơi bao dung, an ủi cho mỗi cá nhân trước những rủi ro, sóng gió cuộc đời. Càng về cuối đời, con người càng trở nên thấm thía và khao khát tìm về sự bình ổn, thoả mãn nhu cầu cân bằng trạng thái tâm lý, tình cảm trong sự chăm sóc, đùm bọc của gia đình; chăm sóc sức khỏe, đảm bảo cho việc chăm sóc sức khỏe của các thành viên tron gia đình.

3. Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu xã hội học gia đình đối với lĩnh vực pháp luật

Xã hội học gia đình là ngành xã hội học chuyên biệt nghiên cứu hệ thống các nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài của của sự hoạt động, sự phát triển và sự thay đổi của gia đình với tư cách là hình thức hoạt động của con người, cơ cấu và các chức năng của gia đình trong những điều kiện kinh tế – xã hội và văn hóa cụ thể của xã hội.[7]

Xã hội học gia đình, với tư cách là lĩnh vực chuyên ngành của xã hội học, nghiên cứu các nhân tó bên trong của gia đình. Đó là những nhân tố như quan hệ hôn nhân nhân – huyết thống giữa các thành viên trong gia đình; tình cảm giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái; sự phân chia trách nhiệm và nghĩa vụ giữa các thành viên trong gia đình… Xã hội học gia đình cũng nghiên cứu các nhân tố bên ngài của gia đình. Chẳng hạn, mối quan hệ của gia đình với các lĩnh vực khác của xã hội như văn hóa, giáo dục, tôn giáo, kinh tế, với tổng thể các mối quan hệ xã hội.

Xã hội học gia đình bản thân nó là khoa học xã hội học chuyên biệt nghiên cứu về gia đình. Nó có những quy luật đặc thù riêng song cũng là bộ phận của xã hội học cho nên nó cũng đòi hỏi phải nghiên cứu gia đình một cách tổng thể trong mối quan hệ, sự tác động qua lại của các yếu tố cấu thành cơ cấu của gia đình, chức năng của gia đình đối với bản thân mối quan hệ nội tại của gia đình và mối quan hệ gia đình với mọi quan hệ của xã hội tổng thể.

Hiện thực xã hội luôn vận động, biến đổi và phát triển kéo theo sự biến đổi của các mỗi quan hệ xã hội. Pháp luật cũng phải vận động và phát triển tương ứng với từng giai đoạn lịch sử của xã hội. Nghiên cứu xã hội học gia đình nhằm có những căn cứ đúng đắn để đánh giá cơ cấu, thực trạng mức sống, nhu cầu, sự biến đổi trong cuộc sống của gia đình trong xã hội từ đó đưa ra các chính sách, điều luật phù hợp với xã hội thực tại. Ví dụ như về thời gian phụ nữ được nghỉ sau khi sinh là 4 tháng hay 6 tháng thì hợp lý? Các quy định ưu đãi cho hộ nghèo… Khía cạnh nghiên cứu này mang lại cho chủ thể của hoạt động xây dựng pháp luật sự hiểu biết đầy đủ, chân thực, khách quan về cơ cấu, tình hình thực tế, nguyên nhân của những mặt còn tồn tại… Thông qua việc nghiên cứu, các nhà làm luật sẽ tập hợp lại những nguyện vọng của nhân dân và thể hiện dưới những điều luật mang tính bắt buộc.

Đây cũng là hình thức thu thập thông tin, tài liệu lý luận và thực nghiệm phục vụ cho các dự án luật như: Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Lao Động, Luật Phòng Chống Bạo Lực Gia Đình,Luật Bình Đẳng Giới …và sau này có thể có thêm nhiều luật mới ra đời.

3.2.2 Ý nghĩa của xã hôi học gia đình đối với hoạt động thực hiện pháp luật

“Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho các quyết định của pháp luật đi vào thức tiễn của cuộc sống, trở thành hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật”[8] . Trong môi trường gia đình được giáo duc về việc thực hiện pháp luật các chủ thể sẽ có xử sự tích cực hơn trong việc thực hiện pháp luật

Gia đình là trường học đầu tiên của con người. Gia đình cũng cung cấp cho con mỗi thành viên dù ít dù nhiều những kiến thức cơ bản về pháp luật. Hiểu biết pháp luật thì sẽ thực hiện pháp luật và thiêú hiểu biết pháp luật thì sẽ thực hiện pháp luật. Nghiên cứu xã hội học gia đình để thấy được thực trạng bạo lực gia đình như thế nào, trẻ em có được đến trường không, có bị bóc lột sức lao động không…

3.2.3 Ý nghĩa của xã hôi học gia đình đối với hoạt động áp dụng pháp luật

Áp dụng pháp luật là hoạt động của các cá nhân có thẩm quyền nhằm cá biệt các quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể.

Gia đình ảnh hưởng trực tiếp đến ý thức pháp luật của những đứa con. Bố mẹ gương mẫu nghiêm chỉnh chấp hành luật lệ thì những đứa con cũng noi theo. Bố mẹ coi thường pháp luật thì những đứa con rất dễ bị ảnh hưởng.

3.3 Đối với ý thức pháp luật

“Ý thức pháp luật là thái độ, tình cảm của con người đối với pháp luật [pháp luật trong quá khứ hoặc hiện tai hay trong tương lai]. Nó giữ vai trò chi phối tất cả các quá trình điều chỉnh hành vi của con người, bao gồm:

Thứ nhất là về hệ tư tưởng pháp luật: Nghiên cứu xã hội học gia đình để tìm hiểu về sự giáo dục con cái về pháp luật từ đó đưa ra các biện pháp nâng cao hiểu biết của nhgười dân về hệ thống luật pháp không chỉ trong nước mà con trên thế giới. Ví dụ như ban hành các chính sách, qui định về giáo dục phải phù hợp với từng địa phương [miền núi ít người khác với đồng bằng, nông thôn].

Thứ hai là về tâm lý pháp luật: Nhờ vào việc nghiên cứu xã hội học gia đình, chúng ta biết được thái độ, tình cảm của người dân đối với hệ thống pháp luật hiện hành đối với cuộc sống gia đình.

Ý thức pháp luật cá nhân: thể hiện thế giới quan pháp lý, thái độ pháp lý của cá nhân. Sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật cá nhân là quá tình con người nhận thức, tích lũy những kiến thức về pháp luật và những hiện tượng pháp lý khác.Ý thức pháp luật bị chi phối bởi lập trường giai cấp, hệ tư tưởng thịnh hành trong xã hội, truyền thống dân tộc, điều kiện, hoàn cảnh sống.

Như vậy, những thói quen, tư tưởng trong gia đình tác động ít nhiều tới ý thức pháp luật mỗi cá nhân. Gia đình truyền thống nặng về tư tưởng nho giáo sẽ khó chấp nhận những điều luật hội nhập với thế giới. Đôi khi những suy nghĩ ấy lại có phần cổ hủ không theo kịp thời đại. Gia đình có lối sống theo kiểu phương đông phóng khoáng lại cảm thấy những điều luật thể hiện mặt truyền thống là rất bất cập và lạc hậu. Gia đình cũng dậy cho chúng ta biết ý thức đúng – sai và phải biết chịu trách nhiệm trước việc làm sai trái. Có thể thấy:”ý thức pháp luật của mỗi ca nhân được hình thành và phát triển trong môi trường sống của họ, qua sự giáo dục trong gia đình, nhà trường…”.

Ý thức pháp luật nhóm: được hình thành dựa trên quan điểm, tình cảm của một số các ca nhân có cùng thái độ, tình cảm với pháp luật, tuy nhiên ở đây gia đình cũng giữ một vai trò không nhỏ trong việc định hướng, hình thành ý thức pháp luật của cá nhân mỗi người.

Ý thức pháp luật xã hội: được hiểu là tổng thể những quan niện tư tưởng của xã hội đõ về pháp luật, trong một xã hội văn minh mà cơ sở là cac gia đình tiến bộ sẽ dẫn đến việc ý thức pháp luật tốt, việc thực hiện pháp luật được chấp hành cách nghiêm chỉnh. Điều này, phụ thuộc vào hiểu biết của mỗi cá nhân ở cả chiều rộng và chiều sâu,” hiểu được pháp luật càng đầy đủ, chính xác sẽ có điều kiện thực hiên chúng một cách nghiêm chỉnh…Ngược lại, không hiểu biết pháp luật, hiểu biết một cách không đầy đủ,không đúng đắn là một trong những nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật”.

Bất kì một xã hội nào muốn phát triển, ổn định và bền lâu thì rất cần có các gia đình – những tế bào nhỏ của xã hội ấm êm, hạnh phúc và phát triển cả về Đức – Trí – Thể – Mĩ. Nếu các chức năng của gia đình được các gia đình ý thức thực hiện một cách có hiệu quả thì chắc rằng đất nước sẽ ngày càng phát triển toàn diện hơn, nâng cao về đạo đức lối sống, trí tuệ của người Việt.

Xã hội học gia đình với các nghiên cứu thực tiễn từ các nhà khoa học đã khẳng định về vai trò, vị trí và chức năng của gia đình trong đời sống mỗi con người. Và việc nghiên cứu ấy có ý nghĩa thực tiễn đối với pháp luật và thể hiện rõ nhất ở ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Như vậy, xã hội học gia đình đóng góp một phần quan trọng vào nhận thức, ý thức và hành động của mỗi người từ đó hình thành nên hệ thống các tư duy một cách đúng đắn, mạch lạc mang lại một cuộc sống vui vẻ, hòa hợp và ý nghĩa

Chức Năng Gan Bảo Nguyên

Sản Phẩm Chức Năng Gan Bảo Nguyên Có Tốt Không? Giá Bao Nhiêu?

Chuyên Đề 10: Chức Năng Giao Tiếp

Khái Niệm Và Chức Năng Của Giao Tiếp

Câu 2: Phân Tích Các Chức Năng Và Tính Chất Của Giáo Dục?

Loại Arn Có Chức Năng Truyền Đạt Di Truyền Là:

Chức Năng Của Ẩn Dụ Đối Với Ngôn Ngữ Và Nhận Thức

Xét Nghiệm Máu Có Được Ăn Sáng Không?

Viết Một Bài Văn Nghị Luận Xã Hội Về Lợi Ích Của “bữa Ăn Sáng”

Có Nên ‘ăn Sáng Như Hoàng Đế’?

Mỗi gia đình là một tế bào của xã hội, là nơi con người ta sinh ra và lớn lên, là nơi nuôi dưỡng các thế hệ về cả thể chất, trí tuệ lẫn đạo đức, nhân cách để hội nhập vào cuộc sống cộng đồng – xã hội và hơn nữa là trở thành những con người lương thiện, sống có ích, có nghĩa, có tình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt”.Vậy gia đình có những chức năng gì? Tầm quan trọng của việc nghiên cứu xã hội học gia đình đồi với lĩnh vực pháp luật?

Để hiểu được những vấn đề trên trước hết trước hết ta phải hiểu được khái niệm gia đình là gì?

1. Khái niệm gia đình.

Gia đình là thiết chế xã hội, trong đó những người có quan hệ ruột thịt [hoặc đặc biệt cùng chung sống]. Gia đình là phạm trù biến đổi mang tính lịch sử và phản ánh văn hóa của dân tọc và thời đại. Gia đình là trường học đầu tiên có mối quan hệ biện chứng với tổng thể xã hội.[ ]

Gia đình – đơn vị xã hội [nhóm xã hội nhỏ], là hình thức tổ chức xã hội quan trọng nhất của sinh hoạt cá nhân dựa trên hôn nhân và các quan hệ huyết thống, tức là quan hệ vợ chồng, giữa cha và mẹ, giữa anh chị em và người thân thuộc khác cùng chung sống và có kinh tế chung.[ ]

“Gia đình là tế bào của xã hội, Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình.Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những công dân tốt. Con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ.Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con[3]

Khái niệm về gia đình mang tính pháp lý ở Việt Nam được ghi trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 [Điều 8. Giải thích từ ngữ ]: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau theo hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo qui định của Luật này”[4]

Tóm lại Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt của con người, là một thiết chế văn hóa xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển dựa trên các mối quan hệ như: quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục giữa các thành viên trong gia đình.

2. Các chức năng cơ bản của gia đình

“Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt”[5] Gia đình có ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội.

Gia đình đóng vai trò, vị trí hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của loài người. Gia đình được sinh ra, tồn tại và phát triển có sứ mệnh đảm đương những chức năng đặc biệt mà xã hội và tự nhiên đã giao cho, không thiết chế xã hội nào có thể thay thế được. Chức năng của gia đình là một khái niệm then chốt của xã hội học gia đình, các nhà nghiên cứu xã hội học gia đình trên cấp độ vi mô và cấp độ vĩ mô đều khẳng định những chức năng cơ bản của gia đình. Quan hệ giữa gia đình và xã hội cũng như quan hệ giữa các thành viên và các thế hệ trong gia đình thông qua việc thực hiện các chức năng của gia đình, do đó trở thành đối tượng nghiên cứu chủ yếu của xã hội học gia đình. Các nhà xã hội học đã nghiên cứu về gia đình trên các cấp độ cả vi mô và vĩ mô đã cho thấy gia đình có các chức năng cơ bản sau: chức năng kinh tế, chức năng tái sinh sản, duy trì nói giống và chức năng giáo dục.

Đây là chức năng cơ bản quan trọng của gia đình nhằm tạo ra của cải, vật chất, là chức năng đảm bảo sự sống còn của gia đình, đảm bảo cho gia đình được ấm no, giàu có làm cho dân giàu, nước mạnh như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “dân có giàu thì nước mới mạnh “. Chức năng này bao quát về nhu cầu ăn, ở, tiện nghi, là sự hợp tác kinh tế giữa các thành viên trong gia đình nhằm thỏa mãn nhu cầu của đời sống.

2.2 Chức năng tái sinh sản, duy trì nòi giống

Chức năng này góp phần cung cấp sức lao động – nguồn nhân cho xã hội. Chức năng này sẽ góp phần thay thế những lớp người lao động cũ đã đến tuổi nghỉ hưu, đã hết khả năng lao động linh hoạt, năng động, sáng tạo. Việc thực hiện chức năng này vừa đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của xã hội vừa đáp ứng được nhu cầu về tâm sinh lí, tình cảm của chính bản thân con người. Ở mỗi quốc gia khác nhau thì việc thực hiện chức năng này là khác nhau. Ví dụ:

Ở Việt Nam, thực hiện kế hoạch hóa gia đình, mỗi gia đình chỉ có từ 1 đến 2 con vừa đảm bảo được sức khỏe cho mẹ lại đảm bảo được chất lượng về cuộc sống cho gia đình và có điều kiện chăm sóc, dạy bảo các con.

Ở Trung Quốc hiện nay tỉ lệ nam giới đang có sự chênh lệch lớn so với nữ giới, vì thế nên nhà nước đang thực hiện chính sách khuyến khích sinh con một bề là con gái. Đến năm 2010, tại Trung Quốc, SRB đạt 118 bé trai/100 bé gái, giảm so với 121 [năm 2008], 119 [năm 2005], 121 [năm 2004]. Tỷ số giới tính sẽ vẫn tiếp tục chênh lệch ở mức báo động 119 bé trai trên 100 bé gái vào những năm 2030.

Đây là chức năng hết sức quan trọng của gia đình, quyết định đến nhân cách của con người, dạy dỗ nên những người con hiếu thảo, trở thành người công dân có ích cho xã hội bởi gia đình là trường học đầu tiên và ở đó cha mẹ là những người thầy đầu tiên trong cuộc đời mỗi con người:” Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.. “[6] Mỗi gia đình đều hình thành tính cách của từng thành viên trong xã hội Gia đình là môi trường xã hội hóa đầu tiên của con người và là chủ thể của sự giáo dục. Như khoa học đã xác định rõ ràng, cơ sở trí tuệ và tình cảm cá nhân thường hình thành ngay từ thời thơ ấu. Gia đình trang bị cho đứa trẻ những ý niệm đầu tiên để lí giải thế giới sự vật, hiện tượng, những khái niệm về cái thiện và cái ác, dạy cho trẻ con hiểu rõ đời sống và con người, đưa trẻ con vào thế giới của những giá trị mà gia đình thừa nhận và thực hiện trong đời sống của nó.

Việt Nam là một quốc gia mang đậm nét đẹp truyền thống về đạo đức và lối sống thuần phong mĩ tục, vì thế nội dung giáo dục của gia đình cũng phải chú ý đến việc giáo dục toàn diện cả về phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm, lối sống, ý thức, cung cách cư xử trong cuộc sống và giáo dục cả về tri thức…

Chức năng giáo dục của gia đình chịu tác động trực tiếp của các yếu tố khách quan và chủ quan. Sự thay đổi lớn trong các chính sách kinh tế xã hội, những biến đổi trong lĩnh vực văn hóa, thông tin, lối sống, sự thiếu hụt kinh nghiệm, ý thức dạy con trong những gia đình trẻ… đó là những yếu tố ảnh hưởng đến chức năng giáo dục của gia đình.

Để chức năng này được thực hiện một cách có hiệu quả thì gia đình phải có phương pháp giáo dục, răn đe một cách đúng đắn. Ai sai thì nhận sai và sửa chữa chứ đừng vì cái tôi, cái sĩ diện và tính bảo thủ của mình mà cố chấp không thay đổi. Có nhiều gia đình dạy dỗ con cái bằng những trận đòn roi, những cái bạt tai đến tối mặt mũi.. Liệu đó có phải là biện pháp hiệu quả? Những biện pháp ấy chẳng những không đem lại tác dụng gì mà càng khiến con cái trở nên chai lì, tâm lí tiêu cực và mất đi tình cảm thân thiết, niềm tin vào những người trong cùng một mái nhà. Thay bằng những trận đòn roi đến nhừ người thì những bậc cha mẹ nên dạy dỗ, chỉ bảo con cái mình nhẹ nhàng, phân tích rõ đúng sai để con trẻ hiểu. Hơn nữa những bậc cha mẹ, ông bà nên là một tâm gương để thế hệ trẻ noi theo. Các thành viên trong gia đình sống thuận hòa, vui vẻ, cùng nhau chia sẻ những khó khăn trong cuộc sống.

Lại có nhiều những gia đình cha mẹ mải kiếm tiền mà không biết hài hòa giữa vật chất và tinh thần nên không có thời gian quan tâm sát sao đến con cái khiến chúng trở nên sống buông thả, bị cám dỗ vào những tệ nạn xã hội, có những hành vi đi ngược lại với thuần phong mĩ tục và truyền thống đạo đức của dân tộc…

Tuy việc giáo dục ở gia đình chỉ là một khía cạnh nhưng đó vẫn là cái gốc, con người sẽ trở nên hoàn thiện hơn khi có sự kết hợp giáo dục cả ở gia đình, nhà trường, xã hội và hơn nữa là ý thức tự giác tu dưỡng rèn luyện từ phía mỗi người…

Thông qua việc thực hiện chức năng giáo dục, gia đình thực sự trở thành cầu nối không thể thay thế được giũa xã hội và cá nhân.

Gia đình là phạm trù lịch sử, biến đổi theo thời gian. Mỗi thời đại lịch sử cũng như mỗi chế độ xã hội đều sản sinh ra một loại gia đình, xây dựng một kiểu gia đình lí tưởng với chức năng xã hội của nó.

Ngoài ba chức năng cơ bản trên thì gia đình còn có chức năng thoả mãn nhu cầu tinh thần, tình cảm và chăm sóc sức khỏe. Đây là chức năng có ý nghĩa quan trọng trong việc chia sẻ tình yêu thương gắn bó giữa các thành viên của gia đình, đặc biệt là tình yêu hạnh phúc lứa đôi. Tổ ấm gia đình vừa là điểm xuất phát cho con người trưởng thành, vững tin bước vào cuộc sống xã hội, đồng thời cũng là nơi bao dung, an ủi cho mỗi cá nhân trước những rủi ro, sóng gió cuộc đời. Càng về cuối đời, con người càng trở nên thấm thía và khao khát tìm về sự bình ổn, thoả mãn nhu cầu cân bằng trạng thái tâm lý, tình cảm trong sự chăm sóc, đùm bọc của gia đình; chăm sóc sức khỏe, đảm bảo cho việc chăm sóc sức khỏe của các thành viên tron gia đình.

Có một số ý kiến cho rằng các chưc năng của gia đình đang có sự biến đổi để phù hợp với cuộc sồng hiện tại.

3. Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu xã hội học gia đình đối với lĩnh vực pháp luật

3.1 Khái quát chung về xã hội học gia đình

Xã hội học gia đình là ngành xã hội học chuyên biệt nghiên cứu hệ thống các nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài của của sự hoạt động, sự phát triển và sự thay đổi của gia đình với tư cách là hình thức hoạt động của con người, cơ cấu và các chức năng của gia đình trong những điều kiện kinh tế – xã hội và văn hóa cụ thể của xã hội.[7]

Xã hội học gia đình, với tư cách là lĩnh vực chuyên ngành của xã hội học, nghiên cứu các nhân tó bên trong của gia đình. Đó là những nhân tố như quan hệ hôn nhân nhân – huyết thống giữa các thành viên trong gia đình; tình cảm giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái; sự phân chia trách nhiệm và nghĩa vụ giữa các thành viên trong gia đình… Xã hội học gia đình cũng nghiên cứu các nhân tố bên ngài của gia đình. Chẳng hạn, mối quan hệ của gia đình với các lĩnh vực khác của xã hội như văn hóa, giáo dục, tôn giáo, kinh tế, với tổng thể các mối quan hệ xã hội.

Xã hội học gia đình bản thân nó là khoa học xã hội học chuyên biệt nghiên cứu về gia đình. Nó có những quy luật đặc thù riêng song cũng là bộ phận của xã hội học cho nên nó cũng đòi hỏi phải nghiên cứu gia đình một cách tổng thể trong mối quan hệ, sự tác động qua lại của các yếu tố cấu thành cơ cấu của gia đình, chức năng của gia đình đối với bản thân mối quan hệ nội tại của gia đình và mối quan hệ gia đình với mọi quan hệ của xã hội tổng thể.

3.2 Đối với các hoạt động pháp luật.

3.2.1 . Ý nghĩa của xã hôi học gia đình đối với hoạt động xây dựng pháp luật.

Hiện thực xã hội luôn vận động, biến đổi và phát triển kéo theo sự biến đổi của các mỗi quan hệ xã hội. Pháp luật cũng phải vận động và phát triển tương ứng với từng giai đoạn lịch sử của xã hội. Nghiên cứu xã hội học gia đình nhằm có những căn cứ đúng đắn để đánh giá cơ cấu, thực trạng mức sống, nhu cầu, sự biến đổi trong cuộc sống của gia đình trong xã hội từ đó đưa ra các chính sách, điều luật phù hợp với xã hội thực tại. Ví dụ như về thời gian phụ nữ được nghỉ sau khi sinh là 4 tháng hay 6 tháng thì hợp lý? Các quy định ưu đãi cho hộ nghèo… Khía cạnh nghiên cứu này mang lại cho chủ thể của hoạt động xây dựng pháp luật sự hiểu biết đầy đủ, chân thực, khách quan về cơ cấu, tình hình thực tế, nguyên nhân của những mặt còn tồn tại… Thông qua việc nghiên cứu, các nhà làm luật sẽ tập hợp lại những nguyện vọng của nhân dân và thể hiện dưới những điều luật mang tính bắt buộc.

Đây cũng là hình thức thu thập thông tin, tài liệu lý luận và thực nghiệm phục vụ cho các dự án luật như: Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Lao Động, Luật Phòng Chống Bạo Lực Gia Đình,Luật Bình Đẳng Giới …và sau này có thể có thêm nhiều luật mới ra đời.

3.2.2 Ý nghĩa của xã hôi học gia đình đối với hoạt động thực hiện pháp luật

“Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho các quyết định của pháp luật đi vào thức tiễn của cuộc sống, trở thành hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật”[8] . Trong môi trường gia đình được giáo duc về việc thực hiện pháp luật các chủ thể sẽ có xử sự tích cực hơn trong việc thực hiện pháp luật

Gia đình là trường học đầu tiên của con người. Gia đình cũng cung cấp cho con mỗi thành viên dù ít dù nhiều những kiến thức cơ bản về pháp luật. Hiểu biết pháp luật thì sẽ thực hiện pháp luật và thiêú hiểu biết pháp luật thì sẽ thực hiện pháp luật. Nghiên cứu xã hội học gia đình để thấy được thực trạng bạo lực gia đình như thế nào, trẻ em có được đến trường không, có bị bóc lột sức lao động không…

3.2.3 Ý nghĩa của xã hôi học gia đình đối với hoạt động áp dụng pháp luật.

Áp dụng pháp luật là hoạt động của các cá nhân có thẩm quyền nhằm cá biệt các quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể.

Gia đình ảnh hưởng trực tiếp đến ý thức pháp luật của những đứa con. Bố mẹ gương mẫu nghiêm chỉnh chấp hành luật lệ thì những đứa con cũng noi theo. Bố mẹ coi thường pháp luật thì những đứa con rất dễ bị ảnh hưởng.

3.3 Đối với ý thức pháp luật.

“Ý thức pháp luật là thái độ, tình cảm của con người đối với pháp luật[9] [ pháp luật trong quá khứ hoặc hiện tai hay trong tương lai]. Nó giữ vai trò chi phối tất cả các quá trình điều chỉnh hành vi của con người, bao gồm:

Thứ nhất là về hệ tư tưởng pháp luật: Nghiên cứu xã hội học gia đình để tìm hiểu về sự giáo dục con cái về pháp luật từ đó đưa ra các biện pháp nâng cao hiểu biết của nhgười dân về hệ thống luật pháp không chỉ trong nước mà con trên thế giới. Ví dụ như ban hành các chính sách, qui định về giáo dục phải phù hợp với từng địa phương [miền núi ít người khác với đồng bằng, nông thôn].

Thứ hai là về tâm lý pháp luật: Nhờ vào việc nghiên cứu xã hội học gia đình, chúng ta biết được thái độ, tình cảm của người dân đối với hệ thống pháp luật hiện hành đối với cuộc sống gia đình.

Ý thức pháp luật cá nhân: thể hiện thế giới quan pháp lý, thái độ pháp lý của cá nhân. Sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật cá nhân là quá tình con người nhận thức, tích lũy những kiến thức về pháp luật và những hiện tượng pháp lý khác.Ý thức pháp luật bị chi phối bởi lập trường giai cấp, hệ tư tưởng thịnh hành trong xã hội, truyền thống dân tộc, điều kiện, hoàn cảnh sống. Như vậy, những thói quen, tư tưởng trong gia đình tác động ít nhiều tới ý thức pháp luật mỗi cá nhân. Gia đình truyền thống nặng về tư tưởng nho giáo sẽ khó chấp nhận những điều luật hội nhập với thế giới. Đôi khi những suy nghĩ ấy lại có phần cổ hủ không theo kịp thời đại. Gia đình có lối sống theo kiểu phương đông phóng khoáng lại cảm thấy những điều luật thể hiện mặt truyền thống là rất bất cập và lạc hậu. Gia đình cũng dậy cho chúng ta biết ý thức đúng – sai và phải biết chịu trách nhiệm trước việc làm sai trái. Có thể thấy:”ý thức pháp luật của mỗi ca nhân được hình thành và phát triển trong môi trường sống của họ, qua sự giáo dục trong gia đình, nhà trường…”[10]

Ý thức pháp luật nhóm: được hình thành dựa trên quan điểm, tình cảm của một số các ca nhân có cùng thái độ, tình cảm với pháp luật, tuy nhiên ở đây gia đình cũng giữ một vai trò không nhỏ trong việc định hướng, hình thành ý thức pháp luật của cá nhân mỗi người.

Ý thức pháp luật xã hội: được hiểu là tổng thể những quan niện tư tưởng của xã hội đõ về pháp luật, trong một xã hội văn minh mà cơ sở là cac gia đình tiến bộ sẽ dẫn đến việc ý thức pháp luật tốt, việc thực hiện pháp luật được chấp hành cách nghiêm chỉnh. Điều này, phụ thuộc vào hiểu biết của mỗi cá nhân ở cả chiều rộng và chiều sâu,” hiểu được pháp luật càng đầy đủ, chính xác sẽ có điều kiện thực hiên chúng một cách nghiêm chỉnh…Ngược lại, không hiểu biết pháp luật, hiểu biết một cách không đầy đủ,không đúng đắn là một trong những nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật”[11]

Bất kì một xã hội nào muốn phát triển, ổn định và bền lâu thì rất cần có các gia đình – những tế bào nhỏ của xã hội ấm êm, hạnh phúc và phát triển cả về Đức – Trí – Thể – Mĩ. Nếu các chức năng của gia đình được các gia đình ý thức thực hiện một cách có hiệu quả thì chắc rằng đất nước sẽ ngày càng phát triển toàn diện hơn, nâng cao về đạo đức lối sống, trí tuệ của người Việt.

Xã hội học gia đình với các nghiên cứu thực tiễn từ các nhà khoa học đã khẳng định về vai trò, vị trí và chức năng của gia đình trong đời sống mỗi con người. Và việc nghiên cứu ấy có ý nghĩa thực tiễn đối với pháp luật và thể hiện rõ nhất ở ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Như vậy, xã hội học gia đình đóng góp một phần quan trọng vào nhận thức, ý thức và hành động của mỗi người từ đó hình thành nên hệ thống các tư duy một cách đúng đắn, mạch lạc mang lại một cuộc sống vui vẻ, hòa hợp và ý nghĩa

1.Đại Học Luật Hà Nội, Giáo trình Lí Luận Chung Về Nhà Nước và Pháp Luật, nxb. Tư Pháp, Hà Nội, 2010.

2.Đại Học Luật Hà Nội, Tập Bài Giảng Xã Hội Học, nxb. CAND, Hà Nội, 2007.

3.Hiến Pháp 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001.

4.Luật Hôn Nhân và Gia Đình 2000.

5.Ts. Ngọ Văn Nhân, Xã Hội Học Pháp Luật, nxb. Tư Pháp, Hà Nội, 2010.

6.Ths. Nguyễn Văn Năm, Vai Trò Của Ý Thức Pháp Luật Đối Với Việc Thực Hiện Pháp Luật, Tạp Chí Luật Học số 3/2011.

Web Server Là Gì? Kháii Niệm Web Server. Cách Hoạt Động & Phân Loại

Hoạt Động Của Web Server [Máy Chủ Web]

Máy Chủ Web Là Gì? Ứng Dụng Web Server Trong Thời Đại Công Nghệ Cao

Mục Tiêu, Chức Năng Và Nguyên Tắc Hoạt Động Của Wto

Mục Tiêu Hoạt Động Và Chức Năng Của Wto

Đối Tượng Và Chức Năng Của Bảo Hiểm Xã Hội

Chức Năng Của Bảo Hiểm Xã Hội

Bản Chất Và Chức Năng Của Bảo Hiểm Xã Hội

#1 Bảo Hiểm Xã Hội Là Gì?

Giám Sát, Phản Biện Xã Hội: Chức Năng Quan Trọng Của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam Trong Thời Kỳ Mới

Câu hỏi: Phân tích những chức năng của gia đình dưới chủ nghiã xã hội? Các quan hệ cơ bản của gia đình

Đáp án: Gia đình có những mối quan hệ cơ bản sau đây:

Quan hệ hôn nhân: hôn nhân là một nhu cầu sinh lý nhằm sản xuất ra con người để duy trì nòi giống. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, hôn nhân cũng có lịch sử của nó. Nếu như trong chế độ cộng sản nguyên thủy, hình thức hôn nhân chủ yếu là quần hôn [hôn nhân tập thể] thì trong các chế độ tư hữu, hôn nhân được xây dựng trên cơ sở lợi ích của những người chủ sở hữu và chịu sự chi phối của các quan hệ kinh tế – chính trị của chế độ xã hội đó. Vì vậy, hôn nhân trong bất cứ thời đại nào cũng cần được xã hội thừa nhận cả về mặt chuẩn mực văn hóa và truyền thống trong cộng đồng và pháp luật của chế độ đương thời.

Quan hệ huyết thống: do nhu cầu duy trì và phát triển nòi giống, con người đã sáng tạo ra một thiết chế gia đình, trong đó quan hệ huyết thống được coi là một quan hệ cơ bản nhất. Tuy nhiên, mối quan hệ này cũng có những thay đổi theo sự chi phối của các điều kiện kinh tế, văn hóa, chính trị của xã hội. Nếu như trong chế độ cộng xã nguyên thủy, huyết thống về bên mẹ được coi là chuẩn mực để tính quan hệ thân tộc xa gần thì đến chế độ tư hữu huyết thống được coi về đằng cha. Sự phân biệt này chỉ khi nào không còn chế độ tư hữu.

Quan hệ quần tụ trong một mái ấm gia đình: xuất phát từ nhu cầu tự nhiên, quan hệ lứa đôi cần phải có một nơi cư trú, thời nguyên thủy người ta chỉ cần một không gian là một hang đá, hốc cây, về sau là một túp lều tranh đơn sơ, một mái nhà. Mái ấm gia đình là nơi thiêng liêng sẽ không thay đổi, dù cho mai sau khoa học hiện đại có khám phá sáng tạo ra không gian sinh tồn mới, nhưng quan niệm về mái ấm gia đình cũng sẽ không mất đi. Trái lại nó càng được củng cố tăng cường nhờ được trang bị đầy đủ những tiện nghi hiện đại nhằm tạo thuận lợi hơn.

Quan hệ nuôi dưỡng: nuôi dưỡng là một trách nhiệm, đồng thời còn là một quyền lợi thiêng liêng của các thành viên trong gia đình đối với nhau. Nuôi dưỡng bao gồm cả việc các bậc cha mẹ, ông bà nuôi dưỡng con cháu, con cháu chăm sóc nuôi dưỡng cha mẹ, ông bà lúc già, cũng như việc quan tâm của những người khỏe mạnh đối với các thành viên gặp khó khăn. Tình cảm thiêng liêng này không thể thay thế được bằng bất kỳ hình thức nào.

Gia đình có những chức năng cơ bản sau đây:

Chức năng tái sản xuất ra con người: sinh sản là một nhu cầu tự nhiên. Nếu không có hoạt động này thì xã hội loài người sẽ bị diệt vong. Nhưng sinh bao nhiêu là vừa, là đủ. Vấn đề này nó còn tùy thuộc vào trình độ phát triển của mỗi giai đoạn lịch sử, tùy theo mỗi dân tộc, mỗi quốc gia mà có chiến lược phát triển dân số phù hợp. Nếu như vào đầu thời kì đồ đá mới [khoảng mười ngàn năm trước đây] các bộ lạc nguyên thủy chỉ xấp xỉ khoảng 1 triệu người được phân bố rải rác trên các lục địa. Đầu công nguyên dân số trên trái đất có chừng 150 – 200 triệu người. Năm 1000 sau công nguyên đã có gần 300 triệu người. Đến nay dân số trên thế giới đã lên đến con số báo động trên 6 tỷ người. Ở nhiều nước, tốc độ tăng dân số đến chóng mặt, nhất là ở các nước chậm phát triển, số sinh ra vượt quá mức so với sức sản xuát lương thực, về điều kiện nhà ở, về điều kiện y tế, giáo dục, về phúc lợi v..v… Theo báo cáo của Liên hợp quốc thì hiện nay có khoảng 40 triệu người đang sống trên miệng hố của sự chết đói, nhiều nước Á, Phi, Mĩ La tinh tuổi thọ thấp [trung bình 35 tuổi] sự thay thế của các thế hệ xảy ra nhanh. Tình hình đó ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của xã hội. Vì vậy, vấn đề bùng nổ dân số đang là vấn đề gay gắt đang được đặt ra không chỉ ở mỗi nước, mà còn là vấn đề chung của toàn nhân loại. Ở nước ta, để khắc phục tình trạng dân số tăng nhanh, trong khi nền kinh tế đang còn thấp, do đó chúng ta phải coi nhiệm vụ kế hoạch hóa dân số và giải quyết việc làm cho người lao động là nhiệm vụ hàng đầu trong chính sách xã hội. Theo thống kê 2004 người ta tính cứ 1 phút có 3 em bé chào đời, thì một năm tăng 1,2 triệu người, nếu so sánh giữa tăng trưởng kinh tế và mức độ tăng dân số như hiện nay đang là một vấn đề bức xúc. Vì vậy việc phấn đấu hạ thấp tỷ lệ tăng dân số kết hợp với việc tổ chức lại lao động, đất đai, ngành nghề làm cho mọi người lao động đều có việc làm đó là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa là nhiệm vụ lâu dài nhằm đảm bảo sự phát triển cân đối về kinh tế – xã hội đem lại cuộc sống văn minh, hạnh phúc cho nhân dân.

Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống của gia đình: trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mỗi gia đình đều có thể trở thành một đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh, mọi gia đình, mọi cá nhân đều có thể làm giàu chính đáng bằng sản xuát kinh doanh theo quy định của pháp luật. Đối với các gia đình công nhân viên chức cũng được khuyến khích tuy các loại gia đình này không trực tiếp kinh doanh, nhưng cũng có vai trò tác động đến sản xuất qua lĩnh vực tiêu dùng.

Chức năng giáo dục: nội dung giáo dục trong gia đình bao gồm cả về vật chất lẫn tinh thần, nó là trách nhiệm của các bậc cha mẹ và được thực hiện ở mọi chu trình sống của con người. Từ lúc còn ẵm ngữa, giai đoạn tuổi thơ, khi đã trưởng thành, lúc già cả…Ở từng chu trình ấy phải có những nội dung và hình thức giáo dục phù hợp. Nếu ở giai đoạn tuổi thơ là lời ru của mẹ, tấm gương sống và làm việc của người thân, những lời nhắn nhủ của cha mẹ, giảng giải của ông bà và ngay cả trong sinh hoạt tình dục, sinh hoạt tiêu dùng cũng phải được giáo dục…” học ăn, học nói, học gói, học mở” ” ăn trông nồi ngồi trông hướng…” Trong chủ nghĩa xã hội, giáo dục của gia đình có vai trò rất quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực trẻ, xây dựng con người mới có đạo đức, văn hóa có trí thức. Do đó, giáo dục con người phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường, xã hội.

Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý tình cảm: có nhiều vấn đề tâm, sinh lý chỉ có thể bộc lộ và giải quyết trong phạm vi gia đình với những người thân. Do đó sự hiểu biết tâm sinh lý, sở thích của nhau để phù hợp với mỗi thành viên là rất cần thiết.

Tóm lại, gia đình là thiết chế đa chức năng. Thông qua việc thực hiện những chức năng trên mà có sự tác động đến sự tiến bộ chung của xã hội. Các chức năng được thực hiện trong sự thúc đẩy hỗ trợ lẫn nhau, nhưng việc phân chia các chức năng cũng chỉ là tương đối. Nhiều khi, các chức năng được thực hiện tổng hợp trong một công việc hoặc nhiều hoạt động của gia đình. Ở từng nơi và các giai đoạn khác nhau, nội dung và vị trí của mỗi chức năng có sự biến đổi, nhưng dù ở đâu thời đại nào thì vai trò của người phụ nữ, mà trước hết là người vợ, người mẹ phải là trung tâm của tình cảm gia đình. Phụ nữ góp công sức nhiều nhất cho công việc của gia đình, giàu tình yêu và có ý thức hơn vì hạnh phúc gia đình. Tuy nhiên trên thực tế vẫn còn hiện tượng đối xử không bình đẳng đã làm cho người phụ nữ phải gánh vác những công việc nặng nhọc trong gia đình và công việc xã hội.

Bệnh Viện Phải Có Phòng Hoặc Tổ Công Tác Xã Hội Để Hỗ Trợ Người Bệnh

Giới Thiệu Phòng Công Tác Xã Hội

Bệnh Viện Phụ Sản Trung Ương

Phòng Công Tác Xã Hội

Khoa Học Và Nghệ Thuật

Vai Trò Của Bác Sĩ Gia Đình Trong Hệ Thống Cơ Sở Khám Chữa Bệnh

Tiểu Luận Sự Biến Đổi Chức Năng Gia Đình

Gia Đình Và Vai Trò, Chức Năng Của Gia Đình Trong Quá Trình Phát Triển Của Xã Hội

Soạn Gdcd 10 Bài 12: Công Dân Với Tình Yêu, Hôn Nhân Và Gia Đình

Các Loại Máy Hàn Điện Tử Đa Chức Năng

Phòng khám bác sĩ gia đình được thành lập và hoạt động theo quy định và sự kiểm soát chặt chẽ theo quy định của pháp luật, người bệnh cần nhận biết những nhiệm vụ cơ bản của mô hình phòng khám bác sĩ gia đình để được thăm khám và điều trị một cách an toàn và hiệu quả nhất.

NGUYÊN TẮC VÀ NHIỆM VỤ CHÍNH CỦA BÁC SĨ GIA ĐÌNH

Nguyên tắc hoạt động của bác sĩ gia đình: Bác sĩ gia đình hoạt động trên nguyên tác chăm sóc sức khỏe liên tục, toàn diện, lồng ghép, phối hợp, dự phòng, hướng tới gia đình và cộng đồng. Bác sĩ gia đình xây dựng và duy trì mối quan hệ tin cậy và lâu dài với cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng.

Chức năng, nhiệm vụ của bác sĩ gia đình được quy định Điều 4 Thông tư 16/2014/TT-BYT hướng dẫn thí điểm về bác sĩ giai đình và phòng khám bác sĩ gia đình do Bộ Y Tế ban hành như sau:

Bác sĩ có chức năng khám bệnh, chữa bệnh, quản lý, bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe toàn diện cho cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng.

Bác sĩ gia đình có các nhiệm vụ sau đây:

– Quản lý sức khỏe toàn diện, liên tục cho cá nhân, cho hộ gia đình và cộng đồng.

– Sàng lọc, phát triển sớm các loại bệnh tật.

– Cấp cứu, khám bệnh, phục hồi chức năng cho cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng phù hợp với phạm vi chuyên môn được ghi trong chứng chỉ hành nghề.

– Tư vấn về sức khỏe, phòng chống nguy cơ đối với sức khỏe nằng nâng cao năng lực của cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng trong việc chủ động bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe.

– Các nhiệm vụ phù hợp với pháp vi hành nghề được ghi trong chứng chỉ hành nghề.

BÁC SĨ TẠI PHÒNG KHÁM CHẨN ĐOÁN HÌNH ẢNH – CHỢ RẪY M&C THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ NHƯ THẾ NÀO?

Phòng Khám Chuẩn Đoán Hình Ảnh – Chợ Rẫy M&C – ngoài việc thực hiện nghiêm chỉnh các nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Phòng Khám Chuẩn Đoán Hình Ảnh – Chợ Rẫy M&C C còn thực hiện quản lý sức khỏe cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng theo nguyên lý Y học gia đình, thực hiên chuyển tuyến khám bệnh và chữa bệnh theo quy đinh. Tùy theo tình hình bệnh tật của người bệnh bác sĩ gia đình có thể chuyển đến bệnh viện tỉnh hoặc bệnh viện Trung ương vẫn coi là đúng tuyến.

Phòng Khám Chuẩn Đoán Hình Ảnh – Chợ Rẫy M&C còn tham gia tuyên truyền thông, giáo dục sức khỏe để góp phần nâng cao nhận thức của người dân về phòng bệnh tích cực và chủ động, phòng ngừa các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đên sức khỏe và bệnh tật.

Phòng Khám Chuẩn Đoán Hình Ảnh – Chợ Rẫy M&C thành lập nhiều chuyên khoa khác nhau như: tim mạch, hô hấp, tiêu hóa,… cùng với nhiều dịch vụ chăm sóc đa dạng như: Vật lý trị liệu giúp bệnh nhân hồi phục chức năng, tiêm truyền tại nhà,… tạo điều kiện thuận lợi để bệnh nhân được thăm khám và điều trị toàn diện, liên tục, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống.

Sự Biến Đổi Chức Năng Của Gia Đình

Giới Thiệu Về Bác Sĩ Gia Đình

Bác Sĩ Gia Đình Là Ai

Vị Trí, Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Phòng Khám Bác Sĩ Gia Đình Trong Hệ Thống Cơ Sở Khám Bệnh, Chữa Bệnh

Những Nhiệm Vụ Và Quyền Lợi Của Bác Sĩ Gia Đình Ở Việt Nam

Bài 1: Cấu Trúc Và Chức Năng Của Gia Đình

Trắc Nghiệm Sinh 11 Bài 16 [Có Đáp Án]: Tiêu Hóa Ở Động Vật [Tiếp Theo].

Chức Năng Nào Sao Đây Không Đúng Với Răng Của Thú Ăn Cỏ?

Đề Kiểm Tra Môn Sinh Học Lớp 11

Trắc Nghiệm Sinh Học Lớp 11 Bài 16

Gia đình là nơi “chôn rau cắt rốn”, là chốn dừng chân của mỗi cá nhân sau một ngày làm việc mệt mỏi. Nơi ấy chứa đựng biết bao tình cảm thiêng liêng và sâu sắc mà chắc hẳn sẽ không ai quên. ” Mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh” tuy khác nhau nhưng gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình có vững mạnh thì xã hội mới văn minh. Không ai có thể phủ nhận được vai trò của gia đình đối với cá nhân và xã hội. chính vì những lí do đó nên em xin chon đề tài: “phân tích chức năng cơ bản của gia đình? Thực tiễn của việc nghiên cứu xã hội học gia đình đối với lĩnh vực pháp luật?” cho bài học kỳ lần này.

Do thời gian và điều kiện không cho phép, kiến thức của em còn hạn chế nên bài làm chắc hẳn sẽ còn thiếu sót. Vì vậy rất mong có sự đóng góp ý kiến từ quý thầy [cô] để bài làm được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

I. CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH

Từ lâu người ta đã coi gia đình là tế bào của xã hội. Tế bào gia đình khỏe mạnh, xã hội sẽ lành mạnh, mọi người đều có cơ hội phát triển và hưởng hạnh phúc. Tế bào gia đình lỏng nẻo, không đảm đương tốt các vai trò và chức năng của mình, xã hội có nguy cơ xáo động ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống vật chất và tinh thần của mọi thành viên trong xã hội. Củng cố nền tảng gia đình luôn là mối quan tâm của các quốc gia trên thế giới.

Ngay từ thời nguyên thủy cho tới hiện nay, không phụ thuộc vào cách kiếm sống, gia đình luôn tồn tại và là nơi để đáp ứng những nhu cầu cơ bản cho các thành viên trong gia đình. Song để đưa ra được một cách xác định phù hợp với khái niệm gia đình, một số nhà nghiên cứu xã hội học đã đưa ra sự so sánh giữa gia đình loài người với cuộc sống lứa đôi của động vật, gia đình loài người luôn luôn bị ràng buộc theo các điều kiện văn hóa xã hội của đời sống gia đình ở con người. Gia đình ở loài người luôn bị ràng buộc bởi các quy định, các chuẩn mực giá trị, sự kiểm tra và sự tác động của xã hội; vì thế theo các nhà xã hội học, thuật ngữ gia đình chỉ nên dùng để nói về gia đình loài người.

Thực tế, gia đình là một khái niệm phức hợp bao gồm các yếu tố sinh học, tâm lý, văn hóa, kinh tế,… khiến cho nó không giống với bất kỳ một nhóm xã hội nào. Từ mỗi một góc độ nghiên cứu hay mỗi một khoa học khi xem xét về gia đình đều có thể đưa ra một khái niệm gia đình cụ thể, phù hợp với nội dung nghiên cứu phù hợp và chỉ có như vậy mới có cách tiếp cận phù hợp đến với gia đình.

Đối với xã hội học, gia đình thuộc về phạm trù cộng đồng xã hội. Vì vậy, có thể xem xét gia đình như một nhóm xã hội nhỏ, đồng thời như một thiết chế xã hội mà có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xã hội hóa con người. Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của mỗi thành viên cũng như để thực hiện tính tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người. [8.wikipedia]

Theo TS Ngọ Văn Nhân trong cuốn “tập bài giảng Xã hội học” cho biết:

Dưới góc độ là một thiết chế xã hội: ” Gia đình là thiết chế xã hội, trong đó những người có quan hệ ruột thịt [hoặc đặc biệt cùng chung sống]. Gia đình là phạm trù biến đổi mang tính lịch sử và phản ánh văn hóa của dân tộc và thời đại. Gia đình là trường học đầu tiên có mối quan hệ biện chứng với tổng thể xã hội”

Dưới góc độ là một nhóm xã hội nhỏ [đơn vị xã hội]: “gia đình là hình thức tổ chức xã hội quan trọng nhất của sinh hoạt cá nhân dựa trên hôn nhân và các quan hệ huyết thống, tức là quan hệ vợ chồng, giữa cha và mẹ, giữa anh chị em và người thân thuộc khác cùng chung sống và có kinh tế chung”

Gia đình là yếu tố cấu thành cơ bản của cơ cấu xã hội tổng thể, gia đình phản ánh chân thực mối quan hệ xã hội đa dạng và phức tạp. Gia đình lúc đầu như Mac và Ăng ghen nói, ” là quan hệ xã hội duy nhất” gia đình là cộng đồng lao động và cộng đồng sinh hoạt, là khuôn khổ tồn tại và là thế giới của con người. Nếu xem xét gia đình như một thiết chế xã hội thì cần hướng tới các chức năng, việc định hướng giá trị và nghĩa vụ mà gia đình phải giải quyết với tư cách là một đơn vị xã hội đặc biệt. gia đình được sinh ra tồn tại và phát triển chính là do nó sứ mệnh được đảm đương những chức năng đặc biệt mà xã hội và tự nhiên đã trao cho, không thiết chế xã hội nào có thể thay thế được. Gia đình có những chức năng cơ bản sau:

– Chức năng kinh tế: Gia đình là một đơn vị sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Hơn thế nữa nó cũng là đơn vị tiêu dùng chủ yếu các sản phẩm do nền kinh tế sản xuất ra, do vậy nó là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.

Đặc điểm: Chức năng kinh tế của gia đình Việt Nam truyền thống có những đặc điểm sau:

+ Gia đình Việt Nam truyền thống là một đơn vị kinh tế độc lập, tự sản tự tiêu

+ Người chồng, người cha trong gia đình đóng vai trò là trụ cột kinh tế, họ đồng thời nắm toàn bộ quyền kiểm soát về kinh tế gia đình

+ Sự trì trệ, máy móc và bảo thủ trong hoạt động kinh tế gia đình luôn biểu hiện cùng cơ chế tổ chức và quản lý mang tính gia trưởng

– Chức năng sinh sản: Chức năng này vốn dĩ nó tồn tại một cách tự nhiên, vì xã hội chỉ tồn tại được khi hành vi sinh sản vẫn còn được duy trì. Chức năng này được coi là một giá trị của gia đình mà từ cổ chí kim loài người phải thừa nhận. Bản thân F. Engel, một nhà duy vật vĩ đại cũng cho rằng theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử suy cho cùng là… sự tái sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống. Chức năng sinh sản của gia đình là một giá trị trường tồn.

Đặc điểm: Chức năng tái sản xuất xã hội của gia đình Việt Nam truyền thống có đặc điểm là

+ Đông con là một giá trị cơ bản của gia đình và xã hội truyền thống, Từ xa xưa, con người Việt Nam đã đề cao việc duy trì nòi giống gia đình. “đông con hơn nhiều của”, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, “con gái là con người ta”. Con cái là thứ đáng giá hơn hết trong gia đình..

– Chức năng thỏa mãn tình cảm giữa các thành viên trong gia đình [chức năng tình cảm]:

Thoả mãn tình cảm tinh thần và thể xác giữa hai vợ chồng; thỏa mãn tình cảm giữa cha mẹ và con cái [sống vì nhau], tình cảm giữa anh chị em trong gia đình [thương yêu, đùm bọc lẫn nhau]. Phần đông mọi người trong xã hội đều coi gia đình là “tổ ấm”, nơi người ta đi về, nơi người ta chia sẻ với nhau về niềm vui, nỗi buồn, tức là nơi tình cảm của con người được thỏa mãn.

Đặc điểm: Chức năng tình cảm, tâm lí của gia đình Việt Nam truyền thống có đặc điểm:

+ Đề cao vai trò của các giá trị đạo đức và các giá trị đó chi phối hầu hết các mối quan hệ của gia đình.

+ Sự thương yêu, chăm sóc con cái hết lòng của cha mẹ đối với con cái, sự hiếu thảo của con cái với cha mẹ; sự gắn bó và yêu thương nhau giữa anh chị em, sự thuỷ chung, hoà thuận trong tình nghĩa vợ chồng

+ Những tình cảm đối với gia đình cũng là cội nguồn của tình làng xóm quê hương và xa hơn là tình yêu đất nước: “cáo chết ba năm quay đầu về núi”. Gia đình là nơi sẻ chia, cảm nhận, của mỗi thành viên trong gia đình. Là nơi dừng chân sau một ngày làm việc mệt mỏi. Là sự gắn kết yêu thương của con người.

– Chức năng xã hội hóa – giáo dục:

+ Chức năng giáo dục: Theo lý thuyết gia đình là “tế bào của xã hội, là yếu tố đầu tiên và cơ bản của quá trình giáo dục”. Gia đình là nơi đại bộ phận trẻ em được người lớn thường xuyên giáo dục: “Dạy con từ thưở còn thơ”. Trong môi trường gia đình, trẻ bắt đầu hình thành nhân cách, lối sống và đặc biệt là nhân sinh quan. Các bậc phụ huynh, nhất là các bà, các mẹ có ảnh hưởng rất lớn tới tương lai của đứa trẻ: Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà.

+ Chức năng xã hội hoá: Có thể coi gia đình là một xã hội thu nhỏ. Mỗi thành viên là một tính cách. Việc va chạm các tính cách khác nhau trong một gia đình là môi trường đầu tiên để trẻ em học cách hoà hợp với cộng đồng.

Đặc điểm: Chức năng xã hội hóa – giáo dục của gia đình truyền thống Việt Nam có đặc điểm sau:

+ Nhắc đến nhiều nhất trong nội dung giáo dục của gia đình là đạo đức và cách sống làm người

+ Sự đánh giá của xã hội với gia đình luôn lấy tiêu chí nhìn vào con cái

+ Mục đích giáo dục trong gia đình truyền thống khác nhau theo loại hình gia đình, những nhà nghèo khó vẫn cố gắng cho con học đến nơi đến chốn

+ Người cha thường giáo dục bằng sự nghiêm khắc, người mẹ thường giáo dục bằng sự nhân từ, “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”

“con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”

Có thể tóm lại rằng, gia đình có 2 chức năng cơ bản nhất, là 2 sứ mệnh lịch sử vĩnh hằng được xã hội trao cho, đó là: sứ mệnh tái tạo ra một thế hệ mới [bao gồm chức năng sinh sản và chức năng và giáo dục đào tạo của gia đình]; sứ mệnh nuôi dưỡng, chăm sóc các thành viên trong gia đình [bao gồm 2 chức năng: chức năng kinh tế,và chức năng thoả mãn những nhu cầu tâm – sinh lý tình cảm]. Hai sứ mệnh cũng là 2 chức năng cơ bản này chi phối toàn bộ các chức năng khác của gia đình như: chức năng giao tiếp tinh thần; Chức năng tổ chức thời gian rỗi; Chức năng thu nhận các phương tiện; Chức năng giáo dục bảo trợ; Chức năng đại diện; Chức năng nghỉ ngơi, giải trí…

Gia đình là một thực thể xã hội. Sự tồn tại của nó được xã hội thừa nhận. Như vậy bản thân gia đình đã mang một giá trị xã hội. Chính các chức năng của gia đình mới đem lại cho nó một giá trị đích thực. Cho đến nay các chức năng cơ bản của gia đình vẫn còn giữ nguyên giá trị. Sự thừa nhận các chức năng của gia đình tức là đã thừa nhận gia đình là một giá trị trong xã hội

Nhiều người cho rằng, các chức năng gia đình đang chuyển từ môi trường nhỏ sang môi trường lớn hơn. Cũng nhiều nhà nghiên cứu về gia đình đã phải thừa nhận rằng: khi xã hội có những thay đổi thì gia đình luôn có sự thích nghi, có thể là chậm hơn, thể hiện sự thủ cựu và tân tiến của nó

II. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI LĨNH VỰC PHÁP LUẬT

Xã hội học gia đình là một nhánh của xã hội học chuyên biệt; xã hội học gia đình là bộ môn khoa học nghiên cứu sự sinh ra, phát triển và sự hoạt động của gia đình như là một trong những hạt nhân đầu tiên của xã hội trong các điều kiện văn hóa, kinh tế – xã hội cụ thể, cũng như nghiên cứu về cơ cấu của chức năng gia đình trong xã hội; là một bộ môn xã hội học nghiên cứu về gia đình với tư cách là một thiết chế xã hội và một nhóm nhỏ. [ //vi.wikipedia.org]

Gia đình là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau như tâm lí học, dân tộc học, dân só học, luật học…. Tuy nhiên khi nghiên cứu về gia đình thì các ngành khoa học có tác động tới đối tượng chung này ở những khía cạnh khác nhau, có sự tác động bổ sung và làm phong phú cho nhau. Trong đó, xã hội học cũng là một trong những ngành khoa học nghiên cứu về gia đình. Xã hội học gia đình chú ý đến tất cả các sự kiện hiện tượng, các vấn đề xảy ra xung quanh đời sống gia đình hiện đại, nghiên cứu những sự kiện hiện đại được lặp đi lặp lại mang tính quy luật có khuynh hướng. Đó là những sự kiện hiện tượng, những vấn đề mang tính xã hội. Như vậy, đối tượng nghiên cứu của xã hội học gia đình chính là những vấn đề xã hội của gia đình hiện đại.

Xã hội học nghiên cứu gia đình những hiện tượng xã hội trên hai phương diện:

Một là, các mối quan hệ bên trong gia đình. Bao gồm quan hệ giữa các thành viên và quan hệ giới tính.

Hai là, các mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa gia đình và xã hội. Bao gồm có quan hệ gia đình với họ hàng, làng xã, các tổ chức sản xuất, các tổ chức chính trị và các tổ chức văn hóa….

Nghiên cứu xã hội học gia đình không những có ý nghĩa đối với việc xây dụng pháp luật mà còn có vai trò lớn trong việc thực hiện pháp luật trong thực tế.

Xã hội học gia đình là môn koa học nghiên cứu về những sự kiện mang tính chất xã hội của gia đình như mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, quan hệ giữa gia đình với xã hôi…. đó cũng là những đối tượng nghiên cứu của ngành luật học. Dựa trên những mối quan hệ đó, pháp luật đưa ra những quy phạm điều chỉnh hành vi của con người trong các mối quan hệ nêu trên, đưa ra quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ và con cái, giữa anh, chị em trong gia đình, giữa vợ và chồng…

Kinh tế của gia đình là một trong những nguồn quan trọng để pháp luật điều chỉnh. Ngay trong thời kì đất nước còn chiến tranh, việc nghiên cứu xã hội học gia đình có vai quan trọng trong những chính sách pháp luật của nhà nước ta: Chiến tranh làm cho cơ cấu và quy mô gia đình thay đổi, hầu hết nam nữ thanh niên ra chiến trường đánh giặc bảo vệ tổ quốc. Trước thực trạng đó, chính sách kinh tế của Đảng chủ trương nền kinh tế bao cấp, làm ăn tập thể, các gia đình hình thành nên các hợp tác xã….ngoài mục đích tạo ra hậu phương vững chắc cho tiền tuyến thì còn nhằm làm cho các chiến sỹ ngoài mặt trận yên tâm chiến đấu. Không phải lo lắng về cuộc sống gia đình ở quê..

Sau khi chiến tranh kết thúc, vai trò hậu phương của gia đình không còn quan trọng như xưa, nhiêm vụ quan trọng của đất nước không phải là chống ngoại xâm mà là phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, cơ chế bao cấp không còn phù hợp với nền kinh tế hiện nay. Kinh tế gia đình ngày càng có vai trò quan trọng. Vì vậy, Nhà nước ta chủ động đưa ra những chính sách nhằm phát triển kinh tế cá thể, chính sách khoán 10, khoán 100… được áp dụng triệt để. Như vậy, dựa vào chức năng của gia đình trong những điều kiên cụ thể mà pháp luật đưa ra những chính sách phù hợp nhất.

Gia đình là hạt nhân của xã hội, để xã hội phát triển thì gia đình phải giàu mạnh và văn minh. Kinh tế có tác động quan trọng tới lợi ích và do đó tác động đến tư tưởng, thái độ, niềm tin của nhân dân đén pháp luật. Kinh tế là nền tảng của sự nhận thức hiểu biết pháp luật nên có tác động mạnh mẽ tới hoạt động thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật. Cụ thể: khi kinh tế phát triển thì con người có điều kiện mua sắm các điều kiện nghe, nhìn có điều kiện thỏa mãn các nhu cầu thông tin pháp luật đa dạng và cập nhật. các chương trình phổ biến giáo dục sẽ dễ dàng đến với người dân, đến với mỗi gia đình. Từ đó nhu cầu tìm hiểu pháp luật trở thành nhu cầu tự giác, thường trực trong suy nghĩ và hành động của con người.

Vai trò giáo dục gia đình có vai trò quan trọng trong việc hình thành thói quen thực hiện pháp luật trong mỗi con người. “Dạy con từ thuở lên ba” Trẻ em là những mần non tương lai của đất nước. Việc dạy dỗ con trẻ phụ thuộc nhiều vào gia đình. Đây cũng là yếu tố thúc đẩy việc tự giác thực hiên pháp luật trong thực tế nếu gia đình có phương pháp dạy tốt.

Ngoài ra, văn hóa – lối sống cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật. những hành vi, cách sử sự của cá nhân đối với cá nhân trong gia đình, cá nhân với xã hội, giữa gia dình với xã hội… là những thành phần hình thành nên các phong tục tập quán, lối sống, đạo đức của con người, xã hội. Đó là nguồn để xây dựng pháp luật mà cũng là những hành vi trực tiếp thực hiện pháp luật hoặc là vi phạm pháp luật.

Gia đình là một cộng đồng người sống chung và gắn bó với nhau bởi các mối quan hệ tình cảm, quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và hoặc quan hệ giáo dục. Gia đình có lịch sử từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Thực tế, gia đình có những ảnh hưởng và những tác động mạnh mẽ đến xã hội.

Phân Tích Chức Năng Cơ Bản Của Gia Đình Thực Tiễn Của Việc Nghiên Cứu Xã Hội Học Gia Đình Đối Với Lính Vực Pháp Luật

Bài Giảng Chương 8: Chức Năng Kiểm Sóat

Chuong 7 Chuc Nang Kiem Tra

4 Mẹo Cần Thiết Để Quản Lý Ribbon Excel

Hộp Thoại Font & Nhóm Font Trên Thanh Ribbon

Đề Thi +Đáp Án Hp Khoa Học Qlgd

Quản Lý Giáo Dục Mầm Non Thời Kì Cách Mạng 4.o

Ý Thức Đạo Đức Phản Ánh Lĩnh Vực Nào Của Đời Sống Xã Hội

Đánh Giá Trong Giáo Dục Đại Học

Đo Lường Và Đánh Giá Trong Giáo Dục

Lý thuyết, Trắc nghiệm môn Giáo dục công dân 10

Lưu ý: Nếu bạn muốn Tải bài viết này về máy tính hoặc điện thoại, vui lòng kéo xuống cuối bài viết

Bài: Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình

A/ Lý thuyết môn GDCD 10 bài 12

– Tình yêu là sự rung cảm và quyến luyến sâu sắc giữa hai người khác giới. Ở họ có sự phù hợp về nhiều mặt … làm cho họ có nhu cầu gần gũi, gắn bó với nhau, tự nguyện sống vì nhau và sẵn sàng hiến dâng cho nhau cuộc sống của mình.

– Tình yêu chân chính là tình yêu trong sáng và lành mạnh, phù hợp với các quan niệm đạo đức tiến bộ của xã hội.

– Biểu hiện của tình yêu chân chính:

+ Có tình cảm chân thật, sự quyến luyến, gắn bó giữa một nam và một nữ.

+ Có sự quan tâm sâu sắc đến nhau không vụ lợi.

+ Có sự chân thành, tin cậy và tôn trọng từ cả hai phía.

+ Có lòng vị tha và sự thông cảm.

– Yêu đương quá sớm.

– Yêu một lúc nhiều người, yêu để chứng tỏ khả năng chinh phục bạn khác giới hoặc yêu vì mục đích vụ lợi.

– Có quan hệ tình dục trước hôn nhân.

– Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn.

– Thứ 1: Hôn nhân tự nguyện và tiến bộ.

+ Hôn nhân tự nguyện và tiến bộ là hôn nhân dựa trên tình yêu chân chính.

+ Tự nguyện trong hôn nhân thể hiện qua việc cá nhân được tự do kết hôn theo luật định.

+ Hôn nhân tiến bộ là hôn nhân bảo đảm về mặt pháp lý.

+ Hôn nhân tự nguyện và tiến bộ còn thể hiện ở việc bảo đảm quyền tự do li hôn. Li hôn chỉ được coi là việc bất đắc dĩ, vì li hôn gây nhiều hậu quả xấu cho cả hai người, đặc biệt là đối với con cái.

– Thứ 2: Hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.

+ Hôn nhân dựa trên tình yêu chân chính là hôn nhân một vợ một chồng. Bởi vì, tình yêu là không thể chia sẻ được .

+ Bình đẳng trong quan hệ vợ chồng là nguyên tắc cơ bản trong gia đình mới .Sự bình đẳng không phải là sự cào bằng, chia đôi, mà là vợ chồng có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trong mọi mặt của đời sống gia đình.

3/ Gia đình, chức năng của gia đình, các mối quan hệ gia đình

– Gia đình là một cộng đồng người chung sống và gắn bó với nhau bởi hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống.

– Chức năng duy trì nòi giống

– Chức năng kinh tế

– Chức năng tổ chức đời sống gia đình

– Chức năng nuôi dưỡng và giáo dục con cái

– Quan hệ giữa vợ và chồng: Vợ chồng phải có trách nhiệm chung thủy, yêu thương, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.

– Quan hệ giữa cha mẹ và con cái

+ Cha mẹ: Yêu thương, nuôi dưỡng, giáo dục con cái

+ Con cái: có nghĩa vụ yêu quí, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, vâng lời cha mẹ, phụng dưỡng, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình.

– Quan hệ giữa ông bà và các cháu

+ Ông bà: Có trách nhiệm yêu thương, chăm sóc, giáo dục con cháu, làm gương cho con cháu noi theo.

+ Con cháu: Có bổn phận yêu thương, kính trọng phụng dưỡng ông bà.

– Quan hệ giữa anh, chị, em: Có trách nhiệm yêu thương, đùm bọc, tôn trọng, bảo ban, chăm sóc và giúp đỡ nhau trong cuộc sống.

B/ Trắc nghiệm môn GDCD 10 bài 12

Câu 1: Tình yêu đích thực diễn biến theo ba giai đoạn nào?

Câu 2: Những điều nào cần tránh trong tình yêu?

Câu 3: Để xây dựng một gia đình hạnh phúc các thành viên cần

Câu 4: Chức năng của gia đình là

Câu 5: Biểu hiện của tình yêu chân chính

Câu 6: Điều 37, Luật Hôn nhân và gia đình có nêu: Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hòa thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt; phối hợp chặt chẽ với nhà trường và các tổ chức xã hội trong việc giáo dục con. Nội dung đó nói đến chức năng nào của gia đình?

Câu 7: Gia đình được xây dựng dựa trên mối quan hệ nào?

Câu 8: Ngày nay, trong xã hội xuất hiện thuật ngữ LGBT là nói đến tình yêu của những đối tượng nào?

Câu 9: Đối với tình yêu cá nhân, xã hội có trách nhiệm là?

Câu 10: Độ tuổi đủ tuổi kết hôn của nam và nữ là?

Với nội dung bài Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình các bạn học sinh cùng quý thầy cô cần nắm vững kiến thức về khái niệm về tình yêu, hôn nhân và gia đình, đặc điểm và quyền, nghĩa vụ của công dân đối với tình yêu và hôn nhân…

Như vậy là chúng tôi đã giới thiệu cho các bạn bài Các bạn học sinh một số tài liệu tham khảo như: Lý thuyết GDCD lớp 10 12: Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình. Giải bài tập GDCD 10, Giải bài tập GDCD 10 ngắn nhất, Tài liệu học tập lớp 10.

Tai Lieu Tap Huan 2012

Đề Tự Luận Thi Giáo Viên Dạy Giỏi Cấp Tiểu Học

Sách Giáo Dục Toàn Diện Cho Thanh Niên, Học Sinh

Tài Liệu Lý Thuyết Thi Giáo Viên Dạy Giỏi

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ở Trường Trung Học Cơ Sở Thuộc Thành Phố Cà Mau, Tỉnh Cà Mau Hiện Nay

Các Loại Máy Hàn Điện Tử Đa Chức Năng

Máy Hàn Điện Tử, Hàn Inox, Co2, Hàn Tig, Hàn Mig

Máy Hàn 3 Chức Năng Que

Máy Hàn Điện Tử Legi Tig

Hậu Quả Của Việc Không Thực Hiện Kế Hoạch Hóa Gia Đình

A. Kiến thức trọng tâm

a. Tình yêu là gì?

Tình yêu là sự rung cảm và quyến luyến sâu sắc giữa hai người khác giới, phù hợp nhau về nhiều mặt, có nhu cầu gắn bó và tự nguyện hiến dâng cho nhau cuộc sống của mình.

Tính xã hội của tình yêu:

Tình yêu phụ thuộc vào quan niệm xã hội

Kết quả tình yêu dẫn tới những vấn đề xã hội phải quan tâm.

Tình yêu cùng với sự phát triển xã hội sẽ càng thoát khỏi ham mê bản năng.

b. Thế nào là một tình yêu chân chính?

Tình yêu chân chính là tình yêu trong sáng, lành mạnh, phù hợp với quan điểm đạo đức, tiến bộ xã hội.

Biểu hiện:

Chân chất, quyến luyến, cuốn hút, gắn bó.

Sự quan tâm sâu sắc đến nhau, không vụ lợi

Sự chân thành, tin cậy và tôn trọng từ hai phía

Lòng vị tha thông cảm.

c. Một số điều cần tránh trong tình yêu nam nữ thanh niên.

Yêu đương quá sớm, nhầm lẫn tình bạn với tình yêu

Yêu một lúc nhiều người, hoặc vụ lợi trong tình yêu.

Có quan hệ tình dịc trước hôn nhân.

2. Hôn nhân a. Hôn nhân là gì?

Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn.

b. Chế độ hôn nhân ở nước ta hiện nay Thứ nhất: Hôn nhân tự nguyện và tiến bộ

Hôn nhân tự nguyện và tiến bộ là hôn nhân dựa trên tình yêu chân chính.

Tự nguyện trong hôn nhân thể hiện qua việc cá nhân được tự do kết hôn theo luật định.

Hôn nhân tiến bộ là hôn nhân bảo đảm về mặt pháp lí.

Hôn nhân tự nguyện và tiến bộ còn thể hiện ở việc đảm bảo quyền tự do li hôn.

Thứ hai: Hôn nhân một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng

Hôn nhân dựa trên tình yêu chân chính là hôn nhân một vợ một chồng, tình yêu là không thể chia sẻ được.

Bình đẳng trong quan hệ vợ chồng là nguyên tắc cơ bản trong gia đình mới. Sự bình đẳng không phải là sự cào bằng, chia đôi…

3. Gia đình, chức năng của gia đình, các mối quan hệ gia đình và trách nhiệm của các thành viên.

a. Gia đình là gì?

Gia đình là một cộng đồng chung sống và gắn bó với nhau bởi hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống.

b. Chức năng của gia đình:

Chức năng duy trì nòi giống

Chức năng kinh tế

Chức năng tổ chức đời sống gia đình

Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục con cái

c. Mối quan hệ và trách nhiệm của mỗi thành viên trong gia đình. Quan hệ giữa cha mẹ và con cái:

Cha mẹ: Có trách nhiệm yêu thương, nuôi dưỡng, giáo dục và tạo điều kiện chocon học hànhcon cài trở thành công dân có ích cho xã hội.

Con cái: Có bổn phận kính trọng,hiếu thảo, giữ gìn danh dự và truyền thống gia đình.

Quan hệ giữa ông bà và con cháu:

Ông bà thương yêu,quan tâm chăm sóc, gương mẫu trong giáo dục các cháu.

Cháu kinh trọng, hiếu thảo, yêu thương ông bà.

Quan hệ giữa anh, chị em:

Thương yêu, tôn trọng, đùm bọc, bảo ban, giúp đỡ nhau trong cuộc sống.

Gia Đình Và Vai Trò, Chức Năng Của Gia Đình Trong Quá Trình Phát Triển Của Xã Hội

Tiểu Luận Sự Biến Đổi Chức Năng Gia Đình

Vai Trò Của Bác Sĩ Gia Đình Trong Hệ Thống Cơ Sở Khám Chữa Bệnh

Nhiệm Vụ Cơ Bản Của Bác Sĩ Gia Đình

Sự Biến Đổi Chức Năng Của Gia Đình

Chức Năng Cơ Bản Của Gia Đình, Thực Tiễn Nghiên Cứu Xã Hội Học Gia Đình Đối Với Lĩnh Vực Pháp Luật

Bài 1: Cấu Trúc Và Chức Năng Của Gia Đình

Trắc Nghiệm Sinh 11 Bài 16 [Có Đáp Án]: Tiêu Hóa Ở Động Vật [Tiếp Theo].

Chức Năng Nào Sao Đây Không Đúng Với Răng Của Thú Ăn Cỏ?

Đề Kiểm Tra Môn Sinh Học Lớp 11

Xã Hội Học Đại Cương

MỤC LỤC

A. Mở bài…………………………………………………………………………………………..2

B. Nội dung………………………………………………………………………………………..2

I. Khái niệm…………………………………………………………………………………..2

1. Xã hội học là gì?……………………………………………………………………….2

2. Xã hội học gia đình là gì?…………………………………………………………..3

3. Gia đình là gì?…………………………………………………………………………..3

II.

Chức năng của gia đình……………………………………………………………5

1] Tái tạo ra một thế hệ mới bao gồm cả việc sinh đẻ và giáo dục đào

tạo:………………………………………………………………………………………………..5

2, nuôi dưỡng và chăm sóc các thành viên trong gia đình…………………….7

III.

Ý nghĩa của việc nghiên cứu xã hội học gia đình đối với lĩnh vực

pháp luật:

Lo Văn Dương

Xã Hội Học Đại Cương

2.

Xã hội học gia đình là gì?

o Định nghĩa:

Xã hội học gia đình là một nhánh của xã hội học chuyên biệt; xã hội

học gia đình là bộ môn khoa học nghiên cứu sự sinh ra, phát triển và sự hoạt

động của gia đình như là một trong những hạt nhân đầu tiên của xã hội trong

các điều kiện văn hóa, kinh tế – xã hội cụ thể, cũng như nghiên cứu về cơ cấu

của chức năng gia đình trong xã hội; là một bộ môn xã hội học nghiên cứu

về gia đình với tư cách là một thiết chế xã hội và một nhóm nhỏ.

Các lĩnh vực nghiên cứu của xã hội học gia đình:

 Nghiên cứu sự sinh ra, quá trình phát triển liên tục của gia đình trong các chế

độ xã hội đã qua.

 Nghiên cứu về mối quan hệ giữa gia đình và xã hội

 Nghiên cứu các mối quan hệ trong gia đình

 Nghiên cứu về các chức năng của gia đình .

theo “tập bài giảng Xã hội học” của ts Ngọ Văn Nhân cho biết: Dưới góc độ

là một thiết chế xã hội: ” Gia đình là thiết chế xã hội, trong đó những người

Lo Văn Dương

Xã Hội Học Đại Cương

Lo Văn Dương

Xã Hội Học Đại Cương

Đặc điểm: Chức năng tái sản xuất xã hội của gia đình Việt Nam truyền

thống có đặc điểm là: Đông con là một giá trị cơ bản của gia đình và xã hội

truyền thống, Từ xa xưa, con người Việt Nam đã đề cao việc duy trì nòi

giống gia đình. “đông con hơn nhiều của”, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết

vô”, “con gái là con người ta”. Con cái là thứ đáng giá hơn hết trong gia

đình..

Lo Văn Dương

Xã Hội Học Đại Cương

2, Nuôi dưỡng và chăm sóc các thành viên trong gia đình

Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình

Hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống vật chất là một chức năng cơ

bản của gia đình. Hoạt động kinh tế, hiểu theo nghĩa đầy đủ gồm có hoạt

động sản xuất kinh doanh và hoạt động tiêu dùng để thoả mãn các yêu cầu ăn

mặc, ở, đi lại của mỗi thành viên và của gia đình.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiều gia đình có điều kiện

[có sở hữu hoặc tham gia sở hữu tư liệu sản xuất] đều có thể trở thành một

đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Để có thể phát huy mọi tiềm

năng sáng tạo trong kinh tế, đảng và nhà nước đề ra và thực hiện các chính

sách sao cho mọi gia đình, mọi cá nhân có thể làm giàu chính đáng bằng hoạt

động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật.

Cùng với sản xuất kinh doanh, các gia đình và hộ gia đình công nhân

viên chức, cán bộ hành chính sự nghiệp, giáo viên, nhà khoa học, trí thức văn

nghệ sỹ… cũng được khuyến khích trong lao động sáng tạo, tăng thu nhập

chính đáng từ lao động sáng tạo của mình. Các loại gia đình này tuy không

trực tiếp thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh, nhưng cũng thực hiện

một nội dung quan trọng của hoạt động kinh tế: bảo đảm hoạt động tiêu dùng

đáp ứng các nhu cầu vật chất cơ bản của con người, qua đó kích thích sự

phát triển hoạt động kinh tế của xã hội.

Thực hiện tốt chức năng kinh tế sẽ tạo ra tiền đề và cơ sở vật chất vững

chắc cho tổ chức đời sống của gia đình. Đương nhiên, ngoài cơ sở kinh tế,

Lo Văn Dương

Xã Hội Học Đại Cương

thì còn nhiều yếu tố khác mới đảm bảo cho một gia đình trở nên văn minh,

hạnh phúc.

Lo Văn Dương

Xã Hội Học Đại Cương

Đặc điểm: Chức năng tình cảm, tâm lí của gia đình Việt Nam truyền

thống có đặc điểm:

Đề cao vai trò của các giá trị đạo đức và các giá trị đó chi phối hầu hết

các mối quan hệ của gia đình.

Sự thương yêu, chăm sóc con cái hết lòng của cha mẹ đối với con cái, sự

hiếu thảo của con cái với cha mẹ; sự gắn bó và yêu thương nhau giữa anh chị

em, sự thuỷ chung, hoà thuận trong tình nghĩa vợ chồng

Những tình cảm đối với gia đình cũng là cội nguồn của tình làng xóm

quê hương và xa hơn là tình yêu đất nước: “cáo chết ba năm quay đầu về

núi”. Gia đình là nơi sẻ chia, cảm nhận, của mỗi thành viên trong gia đình.

Là nơi dừng chân sau một ngày làm việc mệt mỏi. Là sự gắn kết yêu thương

của con người.

Lo Văn Dương

Xã Hội Học Đại Cương

a, Đối với việc xây dựng pháp luật:

Xã hội học gia đình là môn koa học nghiên cứu về những sự kiện mang

tính chất xã hội của gia đình như mối quan hệ giữa các thành viên trong gia

đình, quan hệ giữa gia đình với xã hôi…. đó cũng là những đối tượng nghiên

cứu của ngành luật học. Dựa trên những mối quan hệ đó, pháp luật đưa ra

những quy phạm điều chỉnh hành vi của con người trong các mối quan hệ

nêu trên, đưa ra quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ và con cái, giữa anh, chị em

trong gia đình, giữa vợ và chồng…

Kinh tế của gia đình là một trong những nguồn quan trọng để pháp luật

điều chỉnh. Ngay trong thời kì đất nước còn chiến tranh, việc nghiên cứu xã

hội học gia đình có vai quan trọng trong những chính sách pháp luật của nhà

nước ta: Chiến tranh làm cho cơ cấu và quy mô gia đình thay đổi, hầu hết

nam nữ thanh niên ra chiến trường đánh giặc bảo vệ tổ quốc. Trước thực

trạng đó, chính sách kinh tế của Đảng chủ trương nền kinh tế bao cấp, làm ăn

tập thể, các gia đình hình thành nên các hợp tác xã….ngoài mục đích tạo ra

hậu phương vững chắc cho tiền tuyến thì còn nhằm làm cho các chiến sỹ

ngoài mặt trận yên tâm chiến đấu. Không phải lo lắng về cuộc sống gia đình

ở quê..

Sau khi chiến tranh kết thúc, vai trò hậu phương của gia đình không

còn quan trọng như xưa, nhiêm vụ quan trọng của đất nước không phải là

chống ngoại xâm mà là phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, cơ chế bao cấp

không còn phù hợp với nền kinh tế hiện nay. Kinh tế gia đình ngày càng có

vai trò quan trọng. Vì vậy, Nhà nước ta chủ động đưa ra những chính sách

nhằm phát triển kinh tế cá thể, chính sách khoán 10, khoán 100… được áp

dụng triệt để. Như vậy, dựa vào chức năng của gia đình trong những điều

kiên cụ thể mà pháp luật đưa ra những chính sách phù hợp nhất.

Lo Văn Dương

Xã Hội Học Đại Cương

Xã Hội Học Đại Cương

Xã Hội Học Đại Cương

Lo Văn Dương

Bài Giảng Chương 8: Chức Năng Kiểm Sóat

Chuong 7 Chuc Nang Kiem Tra

4 Mẹo Cần Thiết Để Quản Lý Ribbon Excel

Hộp Thoại Font & Nhóm Font Trên Thanh Ribbon

Tìm Hiểu Menu Ribbon Trong Microsoft Word 2010

Download Bai Giang Quan Ly Nha Nuoc Ve Van Hoa

Văn Hóa Là Gì? Hiểu Về Văn Hóa Sao Cho Đơn Giản, Dễ Hiểu Nhất

Chuyên Đề Thực Trạng Thu, Chi Và Các Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Thu, Chi Bảo Hiểm Xã Hội Tại Bhxh Huyện Tứ Kỳ

#1 Địa Chỉ Trung Tâm Bảo Hiểm Xã Hội Huyện Kim Thành

Hội Khuyến Học Tỉnh Yên Bái

BÀI TẬP LỚN 1 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦẦU…………………………………………………………………………………………………2 NỘI DUNG……………………………………………………………………………………………………3 I. KHÁI QUÁT CHUNG……………………………………………………………………………….3 1. Xã hội học gia đình…………………………………………………………………………….3 2. Gia đình……………………………………………………………………………………………3 II. CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH……………………………………………………….5 1. Chức năng kinh tếế………………………………………………………………………………6 2. Chức năng tái sinh – duy trì nòi giốếng…………………………………………………..8 3. Chức năng giáo dục……………………………………………………………………………8 4. Sự hình thành và biếến đổi chức năng của gia đình……………………………….11 III. Ý NGHĨA THỰC TIỄỄN CỦA VIỆC NGHIỄN CỨU XÃ HỘI HỌC GIA ĐÌNH ĐỐỐI VỚI PHÁP LUẬT………………………………………………………………………………………..12 1. Đối với việc xây dựng pháp luật………………………………………………………..12 2. Đối với ý thức pháp luật……………………………………………………………………12 3. Thực hiện pháp luật………………………………………………………………………….13 KỄỐT LUẬN…………………………………………………………………………………………………..13 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………..14 PHỤ LỤC………………………………………………………………………………………………….15 NGUYỄN THU THÚY – 380315 BÀI TẬP LỚN 2 LỜI MỞ ĐẦU Có một câu nói nổi tiếng của nhà viết kịch Euripide mà đến ngày nay vẫn được nhiều người chia sẻ đó là: “Duy chỉ có gia đình, người ta mới tìm được chốn nương thân để chống lại tai ương của số phận” Sống trên đời ai cũng muốn có một Mái Ấm Gia Đình. Nơi đó mọi người yêu thương nhau, chia sẽ cho nhau niềm vui, nỗi buồn. Cho dù cuộc sống có đổi thay mỗi thành viên rời xa gia đình thì nơi họ nhớ nhất muốn về nhất vẫn là Mái Ấm Gia Đình. Mỗi gia đình là một tế bào của xã hội, là nền tảng và là nơi vun đắp cho tương lai của cá nhân và xã hội. Mỗi thành viên trong gia đình cần đồng lòng gắn kết, chăm sóc yêu thương nhau cùng xây đắp một Mái Ấm Gia Đình hạnh phúc, ấm no”Gia đình là tế bào căn bản của đời sống xã hội, là xã hội tự nhiên, nơi đó, người nam và người nữ được mời gọi tận hiến cho nhau trong tình yêu và trong việc thông truyền sự sống. Quyền bính, sự ổn định và đời sống tương giao nơi gia đình là nền tảng cho tự do, an ninh và tình huynh đệ của xã hội. Gia đình là cộng đoàn, nơi đó từ thời thơ ấu, con người được học biết tôn trọng những giá trị luân lý, tôn thờ Thiên Chúa và biết sử dụng tự do. Đời sống gia đình chuẩn bị cho đời sống xã hội.”[1] [1] [Giáo lý Hội Thánh Công Giáo số 2207. NGUYỄN THU THÚY – 380315 BÀI TẬP LỚN 3 NỘI DUNG I. KHÁI QUÁT CHUNG 1. Xã hội học gia đình Xã hội học gia đình là nghành xã hội học chuyên biệt nghiên cứu hệ thống các nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài của sự hoạt động, sự phát triển và sự thay đổi của gia đình với tư cách là hình thức hoạt động của con người, cơ cấu và chức năng của gia đình trong những điều kiện kinh tế – xã hội và văn hóa cụ thể của xã hội. Xã hội học gia đình bản thân nó là khoa học xã hội học chuyên biệt nghiên cứu về gia đình. Nó có những quy luật đặc thù riêng song cũng là bộ phận của xã hội học cho nên nó cũng đòi hỏi phải nghiên cứu gia đình một cách tổng thể trong mối quan hệ, sự tác động qua lại của các yếu tố cấu thành cơ cấu gia đình, chức năng của gia đình đối với bản thân mối quan hệ nội tại của gia đình và mối quan hệ gia đình với mọi quan hệ của xã hội tổng thể. Xã hội học nghiên cứu gia đình như hiện tượng xã hội trên hai phương diện:  Một là các mối quan hệ bên trong gia đình [quan hệ giữa các thành viên và quan hệ giới tính]  Hai là các mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa gia đình và xã hội [quan hệ gia đình và họ hàng, làng xã, các tổ chức sản xuất, các tổ chức chính trị và các tổ chức văn hóa…][1] 2. Gia đình Gia đình là một cộng đồng người sống chung và gắn bó với nhau bởi các mối quan hệ tình cảm, quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng hoặc quan hệ giáo dục. Gia đình có lịch sử từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Gia đình có những ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến xã hội. [1] Tập bài giảng Xã hội học, trường Đại học Luật Hà Nội, chủ biên TS.Ngọ Văn Nhân, NXB Công an Nhân dân, trang 333. NGUYỄN THU THÚY – 380315 BÀI TẬP LỚN 4 Từ thời nguyên thủy cho tới nay, không phụ thuộc vào cách kiếm sống, gia đình luôn tồn tại và là nơi đáp ứng cơ bản nhu cầu của các thành viên trong gia đình. Song để đưa ra được một cách xác định phù hợp với khái niệm gia đình, một số nhà nghiên cứu xã hội học đã đưa ra sự so sánh giữa gia đình loài người với cuộc sống lứa đôi của động vật, gia đình loài người luôn luôn bị ràng buộc theo các điều kiện văn hóa xã hội của đời sống gia đình ở con người. Gia đình ở loài người luôn bị ràng buộc bởi các quy định, các chuẩn mực giá trị, sự kiểm tra và sự tác động của xã hội; vì thế theo các nhà xã hội học, thuật ngữ gia đình chỉ nên dùng để nói về gia đình loài người. Thực tế, gia đình là một khái niệm phức hợp bao gồm các yếu tố sinh học, tâm lý, văn hóa, kinh tế,… khiến cho nó không giống với bất kỳ một nhóm xã hội nào. Từ mỗi một góc độ nghiên cứu hay mỗi một khoa học khi xem xét về gia đình đều có thể đưa ra một khái niệm gia đình cụ thể, phù hợp với nội dung nghiên cứu phù hợp và chỉ có như vậy mới có cách tiếp cận phù hợp đến với gia đình. Đối với xã hội học, gia đình thuộc về phạm trù cộng đồng xã hội. Vì vậy, có thể xem xét gia đình như một nhóm xã hội nhỏ, đồng thời như một thiết chế xã hội mà có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xã hội hóa con người. Có nhiều định nghĩa gia đình khác nhau như:  Gia đình là thiết chế xã hội, trong đó những người có quan hệ ruột thịt [hoặc đặc biệt cùng chung sống]. Gia đình là phạm trù biến đổi mang tính lịch sử và phản ánh văn hóa của dân tộc và thời đại. Gia đình là trường học đầu tiên có mối quan hệ biện chứng với tổng thể xã hội.  Gia đình – đơn vị xã hội [nhóm xã hội nhỏ], là hình thức tổ chức xã hội quan trọng nhất của sinh hoạt cá nhân dựa trên hôn nhân và các quan hệ huyết thống, tức là quan hệ vợ chồng, giữa cha và mẹ, giữa anh chị em và người thân thuộc khác cùng chung sống và có kinh tế chung.[1] [1] Tập bài giảng Xã hội học, trường Đại học Luật Hà Nội, chủ biên TS.Ngọ Văn Nhân, NXB Công an Nhân dân, trang 336. NGUYỄN THU THÚY – 380315 BÀI TẬP LỚN 5 Chuẩn mực của gia đình Việt Nam hiện nay gồm 4 yếu tố sau [1]: – No ấm: Biểu hiện sự phát triển kinh tế của gia đình nhằm đáp ứng các nhu cầu về vật chất và tinh thần của các thành viên. – Bình đẳng: Biểu hiện các thành viên trong gia đình tôn trọng lẫn nhau và được hưởng mọi quyền lợi về học tập, lao động, nghỉ ngơi, giải trí, chăm sóc sức khoẻ. Đặc biệt quan tâm đến phụ nữ, trẻ em gái, người cao tuổi. – Tiến bộ: Biểu hiện các thành viên trong gia đình luôn có ý thức rèn luyện, phấn đấu vươn lên về mọi mặt để có kiến thức, trình độ, năng lực; có đạo đức, lối sống lành mạnh phù hợp với truyền thống văn hoá dân tộc và xu thế phát triển của thời đại. – Hạnh phúc: Biểu hiện các thành viên trong gia đình gắn bó, thương yêu, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, tạo ra môi trường trong sạch, ngăn chặn tệ nạn xã hội. Chức năng của gia đình: gia đình có rất nhiều chức năng song có 3 chức năng chính chi phối toàn bộ các chức năng còn lại: Chức năng kinh tế; Chức năng tái sinh – duy trì nòi giống; Chức năng giáo dục II. CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH Từ lâu gia đình đã được coi là tế bào của xã hội. Tế bào gia đình khỏe mạnh, xã hội sẽ lành mạnh, mọi người đều có cơ hội phát triển và hưởng hạnh phúc. Nếu tế bào gia đình lỏng nẻo, không đảm đương tốt các vai trò chức năng của mình thì xã hội có nguy cơ bị xáo động làm ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống tinh thần và vật chất của mọi thành viên trong xã hội. Vì thế để củng cố nền tảng gia đình thì cần phải thực hiện tốt các chức năng cơ bản và đó luôn là mối quan tâm của các quốc gia trên thế giới. Để thực hiện tốt thì chúng ta cần hiểu rõ trong xã hội, gia đình có chức năng cơ bản như thế nào? [1] Theo trang web Liên đoàn Lao động tỉnh Thanh Hóa //www.congdoanthanhhoa.org.vn/index.php/tin-hoat-dong-cong-doan/cong-tac-nu-cong/19tin-hoat-dong-cong-doan/24-cong-tac-nu-cong/558-van-hoa-gia-dinh-trong-thi-ki-cnh-hdh-vahi-nhp-kinh-t-quc-t NGUYỄN THU THÚY – 380315 BÀI TẬP LỚN 6 1. Chức năng kinh tế Đây là chức năng đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mỗi gia đình, góp phần vào sự phát triển của toàn xã hội. Lao động của mỗi thành viên trong gia đình hoặc hoạt động kinh tế của gia đình nhằm tạo ra nguồn lợi đáp ứng nhu cầu đời sống vật chất [ăn, ở, đi lại] lẫn nhu cầu tinh thần [học hành tiếp cận thông tin, vui chơi giải trí]. Gia đình còn là đơn vị tiêu dùng, việc tiêu dùng sản phẩm hàng hóa dịch vụ trong xã hội đã tác động vào sản xuất, tiền tệ, thúc đẩy kinh tế phát triển. Sự ổn định về kinh tế cũng là một điều kiện đảm bảo hôn nhân gia đình bền vững và hạnh phúc. Trong khi nhiều bạn trẻ chỉ đặt mục tiêu là hai người yêu thương nhau thật sự và rồi tiến tới hôn nhân thì một số bạn nữa khác lại thực tế đưa ra điều kiện đòi hỏi chồng tương lai phải có thu nhập cao, nhà sang, xe xịn…Tuy nhiên tiền bạc dù có nhiều như nước hay nhà cao cửa rộng rồi cũng sẽ tiêu tan nếu bản thân các bạn chưa nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế trong đời sống gia đình và thiếu kỹ năng tổ chức quản lý kinh tế. Để cuộc hôn nhân thật sự bền vững và hạnh phúc, không nên đặt tiền bạc lên các giá trị khác. Vợ chồng cũng cần rành mạch nhưng thống nhất và tin tưởng trong chi tiêu gia đình đồng thời ghi chép các khoản thu chi. Bên cạnh đó cha mẹ cũng cần dạy con cái cách quản lý về tiền bạc và thói quen chi tiêu sao cho tiết kiệm. Chức năng kinh tế biểu hiện trên cả hai phương diện: sản xuất và tiêu dùng. Tức là mỗi gia đình vừa là một đơn vị sản xuất của xã hội, vừa là nơi tiêu thụ sản phẩm nền kinh tế của xã hội. Trong điều kiện hiện nay, nhiều gia đình có thành viên làm ở các công ty, nhà nước… chính vì vậy, chức năng kinh tế của gia đình được giảm nhẹ ở khâu tổ chức, sản xuất, nhưng với tư cách là đơn vị tiêu dùng thì tính toán thu chi hàng tháng, hàng năm vẫn là nỗi lo của các chủ gia đình. Như đã nói ở trên, mỗi gia đình là một đơn vị sản xuất của xã hội. Chính vì vậy, sự phát triển của xã hội phụ thuộc trực tiếp vào sự phát triển kinh tế mỗi hộ gia đình. Vì vậy sự phân hóa giàu nghèo luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Theo báo cáo của Tổng cục thống kê thì trong tháng Hai năm 2012, cả NGUYỄN THU THÚY – 380315 BÀI TẬP LỚN 7 nước có 53,9 nghìn hộ thiếu đói, giảm 62,4% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng với 214,7 nghìn nhân khẩu thiếu đói, giảm 63,4%. Theo một số liệu thống kê khác thì trong 2 năm [2006 – 2007], hộ nghèo tiếp tục giảm bình quân trên 300.000 hộ/năm, năm 2006 tỷ lệ hộ nghèo còn 15,5%, năm 2007 còn 14,8% [giảm được 7,2% so với cuối năm 2005]. Một số địa phương cơ bản xóa hết số hộ nghèo theo chuẩn quốc gia và áp dụng chuẩn mới của địa phương cao hơn từ 1,5 – 2 lần so với chuẩn nghèo quốc gia như thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và tỉnh Bình Dương. Chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn giảm từ 2,3 lần năm 1999 xuống còn 2,09 lần năm 2004 và 2 lần năm 2008, đến năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo còn khoảng 10%. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, của xã hội. Cùng với sự giảm hộ nghèo là sự tăng trưởng GDP hằng năm của nước ta. Năm 2011 GDP nước ta đạt 5.89%. Trung bình tăng trưởng GDP những năm gần đây của Việt Nam đạt 7%. Điều đó có được kể từ sau chính sách “Đổi mới” năm 1986 của nước ta. Trước năm 1986, xã hội Việt Nam chìm đắm trong chế độ quan lieu bao cấp, người dân luôn trong tâm lý ỷ nại, trông chờ tập thể, chức năng kinh tế của gia đình bị xã hội tước đoạt. Mỗi gia đình thụ động làm việc trong hợp tác xã một cách lười nhác, thụ động. Chính vì vậy thu nhập không cao, đất nước chìm trong đói nghèo. Sau khi mở cửa hội nhập với quốc tế, các gia đình hào hứng làm việc hơn, chăm chỉ hơn, sáng tạo hơn. Việt Nam bắt đầu hồi phục và đang trên đà phát triển. Nền kinh tế thị trường phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho chức năng kinh tế của gia đình: giảm bớt tỉ lệ thất nghiệp, điều kiện làm việc tốt hơn, thu nhập tốt hơn[1]… Cho đến nay, Việt Nam đã thoát khỏi ngưỡng nghèo và đang phấn đấu trở thành một nước công nghiệp. [1] Theo trang web : Tiếng nói dân chủ //tiengnoidanchu.wordpss.com/2011/09/13/phan-hoa-giau-ngheo-%E1%BB%9F-n %C6%B0%E1%BB%9Bc-ta-hi%E1%BB%87n-nay/ NGUYỄN THU THÚY – 380315 BÀI TẬP LỚN 8 2. Chức năng tái sinh – duy trì nòi giống Gia đình là nơi tái sản sinh còn người, cung cấp thành viên, nguồn nhân lực cho gia đình và xã hội. theo dòng văn hóa, ở mỗi thời đại, việc sinh sản của gia đình có những hệ quả nhận thức khác nhau về giới tính, số lượng con người. Mặt khác sự sinh sản trong gia đình giúp cho việc xác định nguồn cội của con người, từ đó tránh nạn quần hôn, góp phần tạo nên tôn ty gia đình, trật tự xã hội, đảm bảo các điều kiện cho nòi giống phát triển. Ngày nay, khoa học sinh sản phát triển cao nhưng sinh sản tự nhiên trong gia đình vẫn là ưu thế bởi đó là điều kiện cơ bản để bảo vệ nòi giống người, là cơ sở, nền tảng cho mỗi người tham gia vào đời sống xã hội vì sự phát triển. Nhà giáo dục nổi tiếng V.A. Xukhômlinxki có viết: “Có hàng chục, hàng trăm nghành nghề, công việc khác nhau…, nhưng công việc phổ biến nhất, phức tạp nhất và cao quý nhất giống nhau đối với mọi gia đình, đồng thời lại có tính đặc thù và không lặp lại, đó là sự sáng tạo ra con người. Sáng tạo ra con người là sự nỗ lực cao nhất của tất cả sức mạnh tinh thần của bạn. Đó là sự khôn ngoan, là tài nghệ, là nghệ thuật trong cuộc sống của bạn”. Tác phẩm vĩ đại nhất của tạo hóa đó là con người, song đây cũng là sản phẩm khó kiến tạo nhất trong một gia đình. Vậy mà một số bạn trẻ do chưa hiểu biết được và không nhận thấy được sự thiêng liêng của việc tạo ra một sinh linh, một con người. Hiện tượng nạo hút thai hiện nay đã rất phổ biến và đặc biệt là trong các bạn trẻ có lối sống không lành mạnh hiện nay dẫn đến suy giảm khả năng sinh con. Hãy nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của việc sinh con. Đứa trẻ sinh ra phải là đứa trẻ được đợi chờ, chào đón ra đời. Đừng tạo ra những đứa trẻ khi mà chưa chuẩn bị toàn tâm, toàn ý. 3. Chức năng giáo dục Có thể nói đây là chức năng rất quan trọng, quyết định nhân cách con người. Gia đình là cái nôi của mỗi con người, là nơi dưỡng dục về thể chất, tinh thần, hình thành nhân cách cho mỗi con người trong xã hội. Từ cái nôi này, mỗi cá nhân được trang bị cho mình kiến thức, kỹ năng sống để có thể thích ứng, hòa nhập vào cộng NGUYỄN THU THÚY – 380315 BÀI TẬP LỚN 9 đồng. Như khoa học đã xác định rõ ràng, cơ sở trí tuệ và tình cảm cá nhân thường hình thành ngay từ thời ấu thơ. Gia đình trang bị cho đứa trẻ những ý niệm đầu tiên để lý giải thế giới sự vật, những ý niệm về cái thiện và cái ác, dạy cho con trẻ hiểu rõ đời sống và con người, đưa trẻ con vào thế giới của những giá trị mà gia đình thừa nhận và thực hiện trong đời sống của nó. Nêu gương là cách giáo dục tốt nhất trong mỗi gia đình [cha mẹ yêu thương chân thành,tôn trọng, giúp đỡ nhau; cha mẹ, ông vào vừa yêu thương nhưng cũng vừa yêu thương, bao dung với con cháu]. Nêu gương cũng là cách tốt để dạy con người cách ứng xử với họ hàng, láng giềng và cộng đồng [trọng nhân nghĩa, làm điều thiện, sống chan hòa, ghét thói giant ham, điều giả dối] qua đó giúp con cháu tiếp thu một cách tự nhiên, nhẹ nhàng những bài học cuộc đời nhưng lại tác động mạnh mẽ đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Mỗi gia đình đều hình thành tính cách của từng thành viên trong xã hội. Giáo dục gia đình chủ yếu được thực hiện bằng tình cảm và đó là nền giáo dục vừa toàn diện, vừa cụ thể và mang tính cá biệt cao. Toàn diện là bởi giáo dục gia đình hướng tới thúc đẩy sự phát triển đầy đủ mọi phẩm chất con người. Cụ thể là vì giáo dục gia đình không mang tính chung chung, trừu tượng mà nhằm vào mỗi cá nhân cụ thể và nhằm xây dựng, phát triển những phẩm chất, năng lực cụ thể của từng người. Giáo dục gia đình mang tính cá biệt là do đối tượng là những cá thể đặc thù, riêng biệt. Đối với mỗi cá nhân cụ thể đó thì phải có phương pháp, cách thức và nội dung giáo dục riêng, cụ thể, cá biệt mới phù hợp và chỉ có như thế mới mang lại hiệu quả của giáo dục gia đình. Như thế, có thể nói giáo dục gia đình là một dạng giáo dục đặc biệt của xã hội loài người.[1] Chức năng giáo dục của gia đình cũng chịu sự tác động trực tiếp từ các yếu tố chủ quan và khách quan. [1] Theo trang web báo Đồng Nai //www.baodongnai.com.vn/vanhoa/201108/Gia-dinh-Viet-Nam-voi-chuc-nang-giao-ductrong-boi-canh-toan-cau-hoa-2092346/ NGUYỄN THU THÚY – 380315 BÀI TẬP LỚN 10 Yếu tố khách quan: + chính sách của nhà nước + văn hóa, xã hội + điều kiện vật chất + các hiện tượng xã hội + sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình … Yếu tố chủ quan: + phương pháp giáo dục của mỗi gia đình + tầm hiểu biết của cha mẹ + kinh nghiệm nuôi dậy con + lối sống của bố mẹ … Đứa con là hình thưởng hay hình phạt cho cha mẹ là tùy thuộc vào sự giáo dục của họ. Thông qua việc thực hiện chức năng giáo dục, gia đình thực sự trở thành cầu nối không thể thay thế được giữa gia đình và cá nhân. Song hiện nay có nhiều bậc cha mẹ chỉ quan tâm đến việc cho con ăn no, ăn ngon, mặc đẹp hợp thời trang hơn là việc giáo dục tính cách cho con cái mình. Họ phó mặc sự giáo dục đó cho nhà trường, cho ông bà hay người giúp việc. Có những ông bố bà mẹ cấm không cho con tham gia hoạt động gì, không được chơi với ai, không được làm việc gì khác ngoài việc học và học, bắt con cái họ học đến phát bệnh. Đến khi thấy con cái vô lễ, hư hỏng, không hiếu thảo với ông bà cha mẹ, sống ích kỷ thì lại than thân trách phận mình vô phước và mắng chửi con cái. Thật ra tất cả đều có nguyên nhân của nó, gia đình muốn hạnh phúc thì cha mẹ cần bỏ thời gian, công sức, tiền bạc để giáo dục con em mình, đừng phó mặc trách nhiệm giáo dục cho kẻ khác. NGUYỄN THU THÚY – 380315 BÀI TẬP LỚN 11 4. Sự hình thành và biến đổi chức năng của gia đình Gia đình lúc đầu chức năng của nó chỉ đơn giản là kiếm sống và duy trì nòi giống. Về sau, khi dân số tăng lên, sinh ra những yêu cầu mới và khi nhu cầu của con người phát triển, nảy sinh những quan hệ xã hội mới làm cho gia đình từ chỗ “là quan hệ xã hội duy nhất” đã trở thành “quan hệ phụ thuộc”. Việc chuyển gia đình từ chỗ “là quan hệ duy nhất” trở thành bộ phận của xã hội rộng lớn hơn có lẽ đã trải qua những thời kỳ lịch sử lâu dài, không phải lúc nào, ở đâu cũng rõ nét. Trong các xã hội thị tộc, bộ lạc, sự đối lập giữa gia đình và xã hội hết sức mờ nhạt. Sự đối lập đó chỉ có thể trở thành “quan hệ phổ biến” với sự phát triển hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mà việc tách ra gia đình ra khỏi sản xuất như là quá trình công nghiệp hóa – đô thị hóa. Gia đình đang biến đổi chức năng của nó cùng với quá trình xã hội hóa sức lao động. Sự biến đổi chức năng của gia đình biểu hiện ở hai khuynh hướng chủ yếu: một là thay đổi tính chất và nội dung của cùng một chức năng, hai là sự thay thế chức năng. Gia đình dần trở thành nơi nghỉ ngơi, vui thú, tổ chức các tiêu dùng vật chất sau giờ lao động xã hội. Trong những điều kiện như vậy chức năng của gia đình có biến đổi căn bản – chuyển trọng tâm từ sản xuất sang các chức năng tình cảm, tâm lý. Sự biến đổi chức năng của gia đình thể hiện ở sự giải thể của một số chức năng truyền thống, sự biến đổi về chất của chức năng truyền thống khác và sự tăng cường chức năng hiện đại. Có thể thấy, chức năng sinh đẻ là chức năng cố hữu của gia đình, không một thiết chế xã hội nào có thể thay thế được. Trước đây, giáo dục gia đình thường đồng nhất với giáo dục xã hội. Còn hiện nay thì nội dung của giáo dục gia đình trước được chuyển một phần sang cho tổ chức xã hội thực hiện. Giáo dục xã hội không phủ nhân hay thủ tiêu giáo dục gia đình mà kết hợp giữa hai nền giáo dục đó. Chức năng kinh tế của gia đình cũng đã thay đổi không còn là đơn vị sản xuất. Đó là nhu cầu về ăn, ở, tiện nghi là sự hợp tác kinh tế giữa các thành viên trong gia đình nhằm thỏa mãn nhu càu của đời sống.[1] [1] Tập bài giảng Xã hội học, trường Đại học Luật Hà Nội, chủ biên TS.Ngọ Văn Nhân, NXB Công an Nhân dân, trang 354 – 356. NGUYỄN THU THÚY – 380315 BÀI TẬP LỚN 12 III. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT 1. Đối với việc xây dựng pháp luật Hiện thực xã hội luôn vận động, biến đổi và phát triển kéo theo sự biến đổi của các mỗi quan hệ xã hội. Pháp luật cũng phải vận động và phát triển tương ứng với từng giai đoạn lịch sử của xã hội. Nghiên cứu xã hội học gia đình nhằm có những căn cứ đúng đắn để đánh giá cơ cấu, thực trạng mức sống, nhu cầu, sự biến đổi trong cuộc sống của gia đình trong xã hội từ đó đưa ra các chính sách, điều luật phù hợp với xã hội thực tại. Ví dụ như về thời gian phụ nữ được nghỉ sau khi sinh là 4 tháng hay 6 tháng thì hợp lý? Các quy định ưu đãi cho hộ nghèo… Khía cạnh nghiên cứu này mang lại cho chủ thể của hoạt động xây dựng pháp luật sự hiểu biết đầy đủ, chân thực, khách quan về cơ cấu, tình hình thực tế, nguyên nhân của những mặt còn tồn tại… Thông qua việc nghiên cứu, các nhà làm luật sẽ tập hợp lại những nguyện vọng của nhân dân và thể hiện dưới những điều luật mang tính bắt buộc. Đây cũng là hình thức thu thập thông tin, tài liệu lý luận và thực nghiệm phục vụ cho các dự án luật như Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Lao động…và sau này có thể có thêm nhiều luật mới ra đời. 2. Đối với ý thức pháp luật Thứ nhất là về hệ tư tưởng pháp luật: Nghiên cứu xã hội học gia đình để tìm hiểu về sự giáo dục con cái về pháp luật từ đó đưa ra các biện pháp nâng cao hiểu biết của nhgười dân về hệ thống luật pháp không chỉ trong nước mà con trên thế giới. Ví dụ như ban hành các chính sách, qui định về giáo dục phải phù hợp với từng địa phương [miền núi ít người khác với đồng bằng, thôn quê khác với thành thị…] để các học sinh được tích lũy và tiếp thu dần những hiểu biết về luật pháp. Thứ hai là về tâm lý pháp luật: Nhờ vào việc nghiên cứu xã hội học gia đình, chúng ta biết được thái độ, tình cảm của người dân đối với hệ thống pháp luật hiện hành đối với cuộc sống gia đình. NGUYỄN THU THÚY – 380315 BÀI TẬP LỚN 13 Ý thức pháp luật thể hiện thế giới quan pháp lý, thái độ pháp lý của cá nhân. Sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật cá nhân là quá tình con người nhận thức, tích lũy những kiến thức về pháp luật và những hiện tượng pháp lý khác.Ý thức pháp luật bị tri phối bởi lập trường giai cấp, hệ tư tưởng thịnh hành trong xã hội, truyền thống dân tộc, điều kiện, hoàn cảnh sống. Như vậy, những thói quen, tư tưởng trong gia đình tác động ít nhiều tới ý thức pháp luật mỗi cá nhân. Gia đình truyền thống nặng về tư tưởng nho giáo sẽ khó chấp nhận những điều luật hội nhập với thế giới. Đôi khi những suy nghĩ ấy lại có phần cổ hủ không theo kịp thời đại. Gia đình có lối sống theo kiểu phương đông phóng khoáng lại cảm thấy những điều luật thể hiện mặt truyền thống là rất bất cập và lạc hậu. Gia đình cũng dậy cho chúng ta biết ý thức đúng – sai và phải biết chịu trách nhiệm trước việc làm sai trái. 3. Thực hiện pháp luật Gia đình là trường học đầu tiên của con người. Gia đình cũng cung cấp cho con mỗi thành viên dù ít dù nhiều những kiến thức cơ bản về pháp luật. Hiểu biết pháp luật thì sẽ thực hiện pháp luật và thiêu hiểu biết pháp luật thì sẽ không thực hiện pháp luật. Nghiên cứu xã hội học gia đình để thấy được thực trạng bạo lực gia đình như thế nào, trẻ em có được đến trường không, có bị bóc lột sức lao động không… Gia đình ảnh hưởng trực tiếp đến ý thức pháp luật của những đứa con. Bố mẹ gương mẫu nghiêm chỉnh chấp hành luật lệ thì những đứa con cũng noi theo. Bố mẹ coi thường pháp luật thì những đứa con rất dễ bị ảnh hưởng. KẾT LUẬN Gia đình là một thực thể xã hội. Sự tồn tại của nó được xã hội thừa nhận. Như vậy bản thân gia đình đã mang một giá trị xã hội. Chính các chức năng của gia đình mới đem lại cho nó một giá trị đích thực. Cho đến nay các chức năng cơ bản của gia đình vẫn còn giữ nguyên giá trị. Sự thừa nhận các chức năng của gia đình tức là đã thừa nhận gia đình là một giá trị trong xã hội. NGUYỄN THU THÚY – 380315 BÀI TẬP LỚN 14 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Tập bài giảng xã hội học, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2010. 2. TS. Ngọ Văn Nhân, Xã hội học pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010. NGUYỄN THU THÚY – 380315 BÀI TẬP LỚN 15 PHỤ LỤC NGUYỄN THU THÚY – 380315 BÀI TẬP LỚN 16 Một số hình ảnh về gia đình NGUYỄN THU THÚY – 380315 BÀI TẬP LỚN 17 NGUYỄN THU THÚY – 380315

Chức Năng, Vai Trò Của Triết Học Mác

Triết Học Và Vai Trò Của Nó Trong Đời Sống Xã Hội

Vai Trò Của Nhân Viên Công Tác Xã Hội Trong Một Số Lĩnh Vực Hoạt Động

Công Tác Xã Hội Trường Học

Phân Tích Các Tính Chất Cơ Bản Của Dư Luận Xã Hội, Cho Ví Dụ Minh Họa Ở Từnng Tính Chất? Tác Động Của Dư Luận Xã Hội Đối Với Ý Thức Pháp Luật?

Chủ Đề