Hướng dẫn clean code javascript
NguồnMình thấy bài viết hay quá nên đọc và viết lại, chủ yếu để mình và các bạn viết code có nguyên tắc, dễ đọc, dễ hiểu, dễ bảo trì và tái sử dụng code hơn, mình có tham khảo tại : Show
https://github.com/hienvd/clean-code-javascript/ https://github.com/ryanmcdermott/clean-code-javascript Giới thiệuNhững nguyên tắc kỹ thuật phần mềm, từ cuốn sách Clean Code của Robert C. Martin's, được áp dụng cho ngôn ngữ JavaScript. Đây không phải là một hướng dẫn về cách viết code Javascript mà là hướng dẫn về cách viết các đoạn code dễ đọc hiểu, tái sử dụng và tái cấu trúc được trong Javascript. Không phải mọi nguyên tắc ở đây phải được tuân thủ một cách nghiêm ngặt, và thậm chí chỉ có một ít trong số đó được sử dụng phổ biến. Ở đây, nó chỉ là một hướng dẫn - không hơn không kém, nhưng chúng được hệ thống hóa thông qua kinh nghiệm thu thập được qua nhiều năm của các tác giả của cuốn sách Clean Code Ngành kỹ thuật phần mềm chỉ phát triển được hơn 50 năm, và chúng ta vẫn đang học rất nhiều. Một khi kiến trúc phần mềm trở thành phổ biến, có lẽ sau đó chúng ta sẽ có thêm nhiều luật lệ khó hơn phải tuân theo. Còn giờ đây, hãy để những hướng dẫn này như là một tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng các đoạn code Javascript mà bạn và team của bạn tạo ra. Biết những hướng dẫn này thôi sẽ không thể ngay lập tức làm bạn trở thành một lập trình viên phần mềm tốt hơn được, và làm việc với chúng trong nhiều năm cũng không có nghĩa bạn sẽ không gặp bất cứ sai lầm nào. Mỗi đoạn code bắt đầu như một bản thảo đầu tiên, giống như đất sét được nặn nhào và cho tới cuối cùng thì nó sẽ lộ diện hình hài. Cuối cùng, chúng ta gọt tỉa những khuyết điểm khi chúng ta xem xét lại nó cùng với các đồng nghiệp. Đừng để bản thân bạn bị đánh bại bởi những bản thảo đầu tiên, thứ mà vẫn cần phải được chỉnh sửa. Thay vào đó hãy đánh bại những dòng code. Áp dụngBiếnSử dụng tên biến có nghĩa :
Sử dụng cùng từ vựng cho cùng loại biến :
Sử dụng các tên dễ hiểu và tìm kiếm được :Chúng ta sẽ đọc code nhiều hơn là viết chúng. Điều quan trọng là code chúng ta viết có thể đọc được và tìm kiếm được. Việc đặt tên các biến không có ngữ nghĩa so với chương trình, chúng ta có thể sẽ làm người đọc code bị tổn thương tinh thần. Hãy làm cho các tên biến của bạn có thể tìm kiếm được. Các công cụ như buddy.js và ESLint có thể giúp nhận ra các hằng chưa được đặt tên.
Theo mình thì nên có 1 folder ( thư mục ) để định nghĩa những hằng số dùng chung này. Sử dụng những biến có thể giải thích được :
Tránh hại não người khácTrước giờ, không riêng gì trong lập trình mà mọi vẫn đề trong cuộc sống, nếu rõ ràng thì tất nhiên nó vẫn sẽ dễ hiểu hơn.
Đừng thêm những ngữ cảnh không cần thiếtNếu tên của class ( lớp ), tên của Object đã nói lên điều gì đó, ít nhất nó là cái gì thì không cần phải lặp lại nó trong tên variable ( biến ).
Sử dụng những tham số mặc định còn hơn là đi kiểm tra
HàmĐối số của hàm (lý tưởng là ít hơn hoặc bằng 2)Số lượng param ( tham số ) truyền vào 1 hàm là điều cực kì quan trọng : Nó làm cho bạn ít nhất cũng dễ nhìn hơn, dễ test hơn, Trong trường hợp có nhiều hơn 3 params có thể khiến bạn phải test hàng tấn test case khác nhau với những đối số riêng biệt. 1 hoặc 2 param là lý tưởng cho 1 hàm, nhưng cũng có trường hợp bất khả kháng thì cũng đành chịu, tốt nhất là nên tránh truyền nhiều hơn 2 params, những trường hợp từ 3 params, chúng ta nên gộp lại. Thông thường thì việc truyền càng nhiều param cho hàm, hàm đó sẽ càng xử lý nhiều việc hơn. Kể từ khi Javascript cho phép tạo nhiều Object một cách nhanh chóng, mà không cần nhiều class có sẵn, bạn có thể sử dụng một Object nếu bạn cần truyền nhiều param. Để làm cho rõ ràng một hàm mong đợi những thuộc tính gì, bạn có thể sử dụng cấu trúc destructuring của ES6. Điều này có một số ưu điểm:
Hàm chỉ nên giải quyết một vấn đềĐây là quy định quan trọng nhất của kỹ thuật phần mềm. Khi một hàm thực hiện nhiều hơn 1 việc, chúng sẽ trở nên khó khăn hơn để viết code, test, và suy luận. Khi bạn có thể tách biệt một hàm để chỉ thực hiện một hành động, thì sẽ dễ dàng hơn để tái cấu trúc và code của bạn sẽ dễ đọc hơn nhiều. Nếu bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn này thôi mà không cần làm gì khác thì bạn cũng đã giỏi hơn nhiều developer khác rồi.
Tên hàm phải nói ra được những gì chúng làmNhìn vào tên hàm thôi mà chính bạn hoặc người khác cũng hiểu mục đích của hàm đó làm gì.
Hàm chỉ nên có một lớp trừu tượngKhi có nhiều hơn một lớp trừu tượng thì hàm của bạn đang làm quá nhiều. Chia nhỏ các hàm ra sẽ làm cho việc test và tái sử dụng dễ dàng hơn.
Tránh trùng lặp codeViệc có hai hàm xử lý cùng một chức năng như nhau thì là việc phải tránh, đó là code trùng lặp. code trùng lặp thì không tốt bởi vì nếu bạn cần thay đổi cùng một logic, bạn phải sửa ở nhiều hơn một nơi. Hãy tưởng tượng nếu bạn điều hành một nhà hàng và bạn theo dõi hàng tồn kho: bao gồm cà chua, hành tây, tỏi, gia vị, vv.... Nếu bạn có nhiều danh sách quản lý, thì tất cả chúng phải được thay đổi khi bạn phục vụ một món ăn có chứa cà chua. Nếu bạn chỉ có 1 danh sách, thì việc cập nhật ở một nơi thôi. Thông thường, bạn có những dòng code lặp lại bởi vì bạn có 2 hay nhiều hơn những thứ chỉ khác nhau chút ít, mà chia sẻ nhiều thứ chung, nhưng sự khác nhau của chúng buộc bạn phải có 2 hay nhiều hàm riêng biệt để làm nhiều điều tương tự nhau. Xóa đi những dòng code trùng có nghĩa là tạo ra một abstraction có thể xử lý tập những điểm khác biệt này chỉ với một hàm/module hay class. Có được một abstraction đúng thì rất quan trọng, đó là lý do tại sao bạn nên tuân thủ các nguyên tắc SOLID được đặt ra trong phần class. Những abstraction không tốt có thể còn tệ hơn cả những dòng code bị trùng lặp, vì thế hãy cẩn thận! Nếu bạn có thể tạo ra một abstraction tốt, hãy làm nó! Đừng lặp lại chính mình, nếu bạn không muốn đi cập nhật nhiều nơi bất cứ khi nào bạn muốn thay đổi một thứ gì đó.
Thiết lập những đối tượng mặc định với Object.assign
Đừng sử dụng các cờ như đối số của hàmCác biến cờ cho người dùng của bạn biết rằng hàm thực hiện nhiều hơn một việc. hàm chỉ nên làm một nhiệm vụ. Vì vậy hãy tách hàm của bạn nếu chúng đang làm cho code rẽ nhánh dựa trên một biến boolean.
Đừng sử dụng các cờ như đối số của hàmMột hàm tạo ra ảnh hưởng phụ nếu nó làm bất kì điều gì khác hơn là nhận một giá trị đầu vào và trả về một hoặc nhiều giá trị. Ảnh hưởng phụ có thể là ghi một file, thay đổi vài biến toàn cục, hoặc vô tình đưa tất cả tiền của bạn cho một người lạ. Bây giờ, cũng có khi bạn cần ảnh hưởng phụ trong một chương trình. Giống như ví dụ trước, bạn cần ghi một file. Những gì bạn cần làm là tập trung vào nơi bạn sẽ làm nó. Đừng viết hàm và lớp riêng biệt để tạo ra một file cụ thể. Hãy có một service để viết nó. Một và chỉ một. Điểm chính là để tránh những lỗi chung như chia sẻ trạng thái giữa những đối tượng mà không có bất kì cấu trúc nào, sử dụng các kiểu dữ liệu có thể thay đổi được mà có thể được ghi bởi bất cứ thứ gì, và không tập trung nơi có thể xảy ra các ảnh hưởng phụ. Nếu bạn có thể làm điều đó, bạn sẽ hạnh phúc hơn so với phần lớn các lập trình viên khác đấy.
Tránh những ảnh hưởng phụ (phần 2)Trong JavaScript, các kiểu cơ bản được truyền theo giá trị và các đối tượng/mảng được truyền theo tham chiếu. Trong trường hợp các đối tượng và mảng, ví dụ nếu hàm của chúng ta tạo ra thay đổi trong một mảng giỏ mua hàng, ví dụ thêm một sản phẩm để mua, thì bất kì hàm khác mà sử dụng mảng 'giỏ hàng' sẽ bị ảnh hưởng bởi việc thêm này. Điều này có thể tốt, tuy nhiên nó cũng có thể trở nên tồi tệ. Hãy tưởng tượng trường hợp xấu sau: Người sử dụng nhấp chuột "Mua hàng", nút mua hàng sẽ gọi tới hàm mua, cái mà sinh ra một yêu cầu mạng và gửi mảng giỏ lên server. Do kết nối chậm, hàm mua có thể giữ việc thử lại yêu cầu. Bây giờ, nếu trong thời gian đó người sử dụng vô tình nhấn chuột vào nút "Thêm vào giỏ hàng" ở một sản phẩm mà họ không thực sự muốn trước khi mạng thực hiện yêu cầu? Nếu điều đó xảy ra và mạng bắt đầu gửi yêu cầu thì hàm mua sẽ vô tình thêm một sản phẩm vì nó có một tham chiếu đế mảng giỏ hàng mà hàm thêm sản phẩm vào giỏ hàng đã thay đổi bằng cách thêm một sản phẩm mà họ không muốn. Một giải pháp tốt là hàm thêm sản phẩm vào giỏ hàng luôn luôn tạo một bản sao của giỏ, thay đổi nó, và trả về bản sao đó. Điều này đảm bảo rằng không một hàm nào có nắm giữ tham chiếu của giỏ mua hàng bị ảnh hưởng bởi bất kì thay đổi. Hai lưu ý cho cách tiếp cận này:
Đừng ghi lên những hàm toàn cụcGây ảnh hưởng đến các biến toàn cục là một bad practice trong JavaScript vì bạn có thể xung đột với các thư viện khác và người dùng API của bạn sẽ không biết trước được cho đến khi cho một lỗi xảy ra trên sản phẩm. Hãy suy nghĩ ví dụ này: điều gì xảy ra nếu bạn muốn mở rộng phương thức của Array trong JavaScript native để có thể có một hàm
Ủng hộ lập trình hàm hơn là lập trình mệnh lệnhJavaScript không phải là ngôn ngữ lập trình hàm giống như là Haskell, nhưng nó có đặc trưng hàm của nó. Những ngôn ngữ lập trình hàm thì gọn gàng hơn và dễ test hơn. Hãy dùng cách lập trình này khi bạn có thể.
Đóng gói các điều kiện
Tránh điều kiện tiêu cực
Tránh điều kiệnĐây dường như là một việc bất khả thi.Khi nghe điều này đầu tiên, hầu hết mọi người đều nói, "Làm sao tôi cần phải làm gì mà không có mệnh đề if?" Câu trả lời là bạn có thể sử dụng tính đa hình để đạt được công việc tương tự trong rất nhiều trường hợp. Câu hỏi thứ hai thường là "Đó là điều tốt nhưng tại sao tôi lại muốn làm điều đó?" Câu trả lời là khái niệm mà ta đã học ở phần trước: một hàm chỉ nên thực hiện một việc. Khi bạn có nhiều lớp và hàm mà có nhiều mệnh đề
Tránh kiểm tra kiểu (phần 1)JavaScript không định kiểu, có nghĩa hàm của bạn có thể nhận bất kì đối số kiểu nào. Đôi khi bạn bị cám dỗ bởi sự tự do này và dễ dẫn đến việc đi kiểm tra kiểu trong hàm của mình. Có nhiều cách để tránh phải làm điều này. Điều đầu tiên là xem xét sử dụng các API nhất quán.
Tránh kiểm tra kiểu (phần 2)Nếu bạn làm việc với các kiểu cơ bản như chuỗi, số nguyên và mảng, và bạn không thể sử dụng đa hình nhưng bạn vẫn cảm thấy cần phải kiểm tra kiểu, bạn nên xem xét sử dụng TypeScript. Nó là một phương pháp thay thế tuyệt vời cho JavaScript thường, vì nó cung cấp kiểu tĩnh ngoài cú pháp JavaScript chuẩn. Vấn đề với việc kiểm tra kiểu thủ công là để làm tốt việc này đòi hỏi nhiều sự dài dòng mà "kiểu an toàn" giả này không thay thế được cho việc mất đi tính dễ đọc của code. Hãy giữ code JavaScript của bạn sạch sẽ, viết test tốt và có reviews code tốt. Nếu không thì thực hiện tất cả những điều đó nhưng với TypeScript (giống như tôi đã nói, đó là sự thay thế tốt!).
Đừng quá tối ưuNhững trình duyệt hiện đại làm rất nhiều tối ưu hóa bên dưới trong thời gian chạy. Rất nhiều lần, nếu bạn đang tối ưu thì bạn đang làm tốn thời gian của chính mình. Xem ở đây để biết khi nào việc tối ưu hóa là thiếu. Hãy thực hiện những tối ưu đó và cho đến khi chúng được sửa nếu có thể.
Xóa code chết (dead code)Dead code cũng tệ như code trùng lặp. Không có lý do gì để giữ chúng lại trong codebase của bạn. Nếu nó không được gọi nữa, hãy bỏ nó đi! Nó vẫn sẽ nằm trong lịch sử phiên bản của bạn nếu bạn vẫn cần nó.
Đối tượng và Cấu trúc dữ liệuSử dụng getter và setterJavaScript không có Đây là một danh sách các lí do tại sao:
Làm cho các đối tượng có thành viên privateĐiều này có thể được thực hiện thông qua closures (cho ES5 và cũ hơn).
LớpƯu tiên lớp ES2015/ES6 hơn các chức năng thuần ES5Rất khó khăn để có thể đọc được lớp thừa kế, lớp khởi tạo, và các định nghĩa phương thức trong các lớp ES5 cổ điển. Nếu bạn cần kế thừa (và lưu ý rằng bạn có thể không), tốt hơn là nên sử dụng lớp. Tuy nhiên ưu tiên sử dụng những hàm nhỏ hơn là lớp cho đến khi bạn cần những đối tượng lớn và phức tạp hơn.
Sử dụng các hàm liên tiếp nhauĐây là một pattern rất hữu ích trong JavaScript và bạn thấy nó trong rất nhiều thư viện chẳng hạn như jQuery và Lodash. Nó cho phép code của bạn có tính truyền tải và ngắn gọn. Vì lý do đó, theo tôi, sử dụng phương
pháp các hàm liên tiếp nhau và hãy xem code của bạn sẽ sạch sẽ như thế nào. Trong các hàm của lớp, đơn giản là trả về
Ưu tiên thành phần hơn là kế thừaNhư đã được nhấn mạnh nhiều trong Design Patterns của Gang of Four, bạn nên sử dụng cấu trúc thành phần hơn là thừa kế nếu có thể. Có rất nhiều lý do tốt để sử dụng kế thừa cũng như sử dụng thành phần. Điểm nhấn cho phương châm này đó là nếu tâm trí của bạn đi theo bản năng thừa kế, thử nghĩ nếu thành phần có thể mô hình vấn đề của bạn tốt hơn. Trong một số trường hợp nó có thể. Bạn có thể tự hỏi, "khi nào tôi nên sử dụng thừa kế?" Nó phụ thuộc vào vấn đề trong tầm tay của bạn, nhưng đây là một danh sách manh nha khi kế thừa có ý nghĩa hơn thành phần:
SOLIDNguyên lí đơn trách nhiệm (Single Responsibility Principle)Như đã được nói đến trong cuốn Clean Code, "Chỉ có thể thay đổi một lớp vì một lí do duy nhất". Thật là hấp dẫn để nhồi nhét nhiều chức năng vào cho một lớp, giống như là khi bạn chỉ có thể lấy một chiếc vali cho chuyến bay vậy. Vấn đề là lớp của bạn sẽ không được hiểu gắn kết về mặt khái niệm của nó và sẽ có rất nhiều lí do để thay đổi. Việc làm giảm thiểu số lần bạn cần phải thay đổi một lớp là một việc quan trọng. Nó quan trọng bởi vì nếu có quá nhiều chức năng trong một lớp và bạn chỉ muốn thay đổi một chút xíu của lớp đó, thì có thể sẽ rất khó để hiểu được việc thay đổi đó sẽ ảnh hưởng đến những module khác trong codebase của bạn như thế nào.
Nguyên lí đóng mở (Open/Closed Principle)Betrand Meyer đã nói "có thể thoải mái mở rộng một module, nhưng hạn chế sửa đổi bên trong module đó". Điều đó nghĩa là gì? Nguyên tắc này cơ bản nhấn mạnh rằng bạn phải cho phép người dùng thêm các chức năng mới mà không làm thay đổi các code đang có.
Nguyên lí thay thế Liskov (Liskov Substitution Principle)Đây là một thuật ngữ đáng sợ cho một khái niệm rất đơn giản. Nó được định nghĩa một cách chính thức là: "Nếu S là một kiểu con của T, thì các đối tượng của kiểu T có thể được thay thế bằng các đối tượng của kiểu S (ví dụ các đối tượng của kiểu S có thể thay thế các đối tượng của kiểu T) mà không làm thay đổi bất kì thuộc tính mong muốn nào của chương trình đó (tính chính xác, thực hiện tác vụ, ..). Đó thậm chí còn là một định nghĩa đáng sợ hơn. Sự giải thích tốt nhất cho nguyên lí này là, nếu bạn có một lớp cha và một lớp con, thì lớp cơ sở và lớp con có thể được sử dụng thay thế cho nhau mà không làm thay đổi tính đúng đắn của chương trình. Có thể vẫn còn hơi rối ở đây, vậy hãy xem cái ví dụ cổ điển hình vuông-hình chữ nhật (Square-Rectangle) dưới đây. Về mặt toán học, một hình vuông là một hình chữ nhật, tuy nhiên nếu bạn mô hình hoá điều này sử dụng quan hệ "is a" thông qua việc kế thừa, bạn sẽ nhanh chóng gặp phải rắc rối đấy.
Nguyên lí phân tách interface (Interface Segregation Principle)JavaScript không có interface vì vậy nguyên lí này không áp dụng một cách chặt chẽ như các nguyên lí khác. Tuy nhiên, nó cũng quan trọng và liên quan ngay cả với hệ thống thiếu định kiểu của JavaScript. Nguyên lí phân tách interface nhấn mạnh rằng "Người dùng không nên bị bắt buộc phải phụ thuộc vào các interfaces mà họ không sử dụng." Interface là những ràng buộc ẩn trong JavaScript bởi vì duck typing. Một ví dụ tốt để minh hoạ cho nguyên lí này trong JavaScript là các lớp mà yêu cầu cài đặt các đối tượng lớn. Việc không yêu cầu người dùng thiết lập một số lượng lớn các tuỳ chọn là một ích lợi, bởi vì đa số thời gian họ không cần tất cả các cài đặt. Làm cho chúng trở thành tuỳ chọn giúp tránh được việc có một "fat interface".
Nguyên lí đảo ngược dependency (Dependency Inversion Principle)Nguyên lí này khẳng định hai điều cần thiết sau:
Điều này có thể khó hiểu lúc ban đầu, nhưng nếu bạn đã từng làm việc với Angular.js, bạn đã thấy một sự hiện thực của nguyên lí này trong dạng của Dependency Injection (DI). Khi chúng không phải là các khái niệm giống nhau, DIP giữ cho module cấp cao không biết chi tiết các module cấp thấp của nó và thiết lập chúng. Có thể đạt được điều này thông qua DI. Một lợi ích to lớn của DIP là nó làm giảm sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các module. Sự phụ thuộc lẫn nhau là một kiểu mẫu không tốt, vì nó làm cho việc tái cấu trúc code trở nên khó khăn. Như đã khẳng định ở trước, JavaScript không có interface vì vậy các abstraction mà bị phụ thuộc là những ràng buộc ẩn. Đó là để nói, các phương thức và thuộc tính mà một đối tượng/lớp làm phơi bày đối tượng/lớp khác. Trong ví dụ bên dưới, sự ràng buộc ẩn là bất cứ module Request cho một InventoryRequester sẽ có một phương thức requestItems.
TestingTesting thì quan trọng hơn shipping. Nếu bạn không có test hoặc không đủ, thì mỗi lần ship code bạn sẽ không chắc là mình có làm hư hại thứ gì không. Việc quyết định những gì để tạo thành số lượng test đủ là do team của bạn, nhưng việc có 100% độ bao phủ (tất cả các câu lệnh và rẽ nhánh) là cách để bạn đạt được sự tự tin cao. Điều này có nghĩa ngoài việc có được một framework để test tốt, bạn cũng cần sử dụng một công cụ bao phủ tốt. Không có lí do gì để không viết test. Có rất nhiều framework test JS tốt, vì thế hãy tìm một framework mà team bạn thích. Khi đã tìm được một cái thích hợp với team của mình, hãy đặt mục tiêu để luôn luôn viết test cho mỗi tính năng hoặc module mới của bạn. Nếu phương pháp test ưa thích của bạn là Test Driven Development (TDD), điều đó thật tuyệt, nhưng điểm quan trọng là phải chắc chắn bạn đạt được mục tiêu về độ bao phủ trước khi launch một tính năng hoặc refactor một tính năng cũ nào đó. Một khái niệm duy nhất cho mỗi đơn vị test
Xử lí đồng thờiHãy dùng Promise, đừng dùng callbackCallback thì không được 'sạch sẽ' cho lắm, chúng gây ra quá nhiều đoạn code lồng nhau (callback hell). Từ ES2015/ES6, Promise đã được đưa vào Javascript. Hãy sử dụng chúng!
Async/Await thì 'sạch sẽ' hơn PromisePromise là một sự thay thế 'sạch sẽ' cho callback, nhưng ES2017/ES8 giới thiệu async và await, đó thậm chí còn là một giải pháp tốt hơn Promise nữa. Những gì bạn cần phải làm là một hàm có tiếp đầu ngữ là từ khoá async, và bạn có thể viết các lệnh logic mà không cần một chuỗi then của các hàm. Hãy sử dụng điều này nếu bạn có thể tận dụng các tính năng của ES2017/ES8 ngay hôm nay!
Xử lí lỗiĐừng bỏ qua những lỗi đã bắt đượcNếu không làm gì với lỗi đã bắt được, bạn sẽ không thể sửa hoặc phản ứng lại được với lỗi đó. Ghi lỗi ra
Đừng bỏ qua những promise bị lỗi (rejected)Cùng nguyên nhân với phần trên.
Định dạngViệc định dạng code mang tính chủ quan. Giống như nhiều quy tắc được trình bày trong tài liệu này, không có quy tắc nào cứng nhắc và nhanh chóng mà bạn bắt buộc phải tuân theo. Điểm chính của phần này là ĐỪNG BAO GIỜ TRANH CÃI về việc định dạng code như thế nào. Có hàng tá công cụ để tự động hoá việc này. Hãy sử dụng một công cụ nào đó! Thật tốn thời gian và tiền bạc chỉ để tranh cãi về vấn đề định dạng code. Đối với những thứ không thuộc phạm vi của việc tự động định dạng code (thụt đầu dòng, tab và space, nháy đơn và nháy kép,..) hãy xem một số hướng dẫn ở đây. Sử dụng thống nhất cách viết hoaJavascript là một ngôn ngữ không định kiểu, vì vậy việc viết hoa sẽ nói lên rất nhiều về các biến, hàm,.. của bạn. Những quy tắc này thì mang tính chủ quan, vì thế team bạn có thể chọn quy tắc nào họ muốn. Tuy nhiên điều quan trọng là dù bạn chọn cách viết như thế nào, thì cũng hãy sử dụng thống nhất nó trong codebase của bạn.
Các hàm gọi và hàm được gọi nên nằm gần nhauNếu một hàm gọi một hàm khác, hãy giữ những hàm này nằm gần theo chiều dọc trong file. Lí tưởng là, hãy giữ cho hàm gọi ở trên hàm được gọi. Chúng ta có xu hướng đọc code từ trên xuống, giống như đọc báo vậy. Do đó, hãy làm cho code của chúng ta cũng được đọc theo cách đó.
Viết chú thíchChỉ nên viết chú thích cho những thứ có logic phức tạp.Các chú thích thường là lời xin lỗi, chứ không phải là yêu cầu. Những đoạn code tốt thì đa số tự nó đã là tài liệu rồi.
Đừng giữ lại những đoạn code bị chú thích trong codebase của bạn.Những công cụ quản lí phiên bản sinh ra để làm nhiệm vụ của chúng. Hãy để code cũ của bạn nằm lại trong dĩ vãng đi.
Đừng viết các chú thích nhật ký.Hãy
nhớ, sử dụng công cụ quản lí phiên bản! Chúng ta không cần những đoạn code vô dụng, bị chú thích và đặc biệt là những chú thích dạng nhật ký... Sử dụng
Tránh những đánh dấu vị tríChúng thường xuyên làm nhiễu code. Hãy để những tên hàm, biến cùng với các định dạng thích hợp tự tạo thành cấu trúc trực quan cho code của bạn.
Kết bàiTài liệu này cũng có sẵn ở các ngôn ngữ sau: |