Hút thuốc là gì

I. KHÁI NIỆM:

Theo quy định của Luật Phòng chống tác hại thuốc lá:

- Thuốc lá là sản phẩm được sản xuất từ toàn bộ hoặc một phần nguyên liệu thuốc lá, được chế biến dưới dạng thuốc lá điếu, xì gà, thuốc lá sợi, thuốc lào hoặc các dạng khác.

- Việc Sử dụng thuốc lá là hành vi hút, nhai, ngửi, hít, ngậm sản phẩm thuốc lá.

II. THÀNH PHẦN VÀ ĐỘC TÍNH CỦA KHÓI THUỐC LÁ

Trong khói thuốc lá chứa hơn 7000 chất. Trong đó có hàng trăm loại có hại cho sức khỏe, 70 chất gây ung thư, bao gồm chất gây nghiện và các chất gây độc, chia ra làm 4 nhóm chính:

1.  Nicotine: Nicotine là một chất không màu, chuyển thành màu nâu khi cháy và có mùi khi tiếp xúc với không khí. Nicotine được hấp thụ qua da, miệng và niêm mạc mũi hoặc hít vào phổi. Người hút thuốc trung bình đưa vào cơ thể 1 đến 2 mg nicotine mỗi điếu thuốc hút. Hút thuốc lá đưa nicotine một cách nhanh chóng đến não, trong vòng 10 giây sau khi hít vào. Tác dụng gây nghiện của nicotine một cách nhanh chóng đến não, trong vòng 10 giây sau khi hít vào. Tác dụng gây nghiện của nicotine chủ yếu là trên hệ thần kinh trung ương với sự có mặt của các thụ thể nicotine trên các tế bào thần kinh tại “trung tâm thưởng” ở hệ viền não bộ, các hóa chất trung gian dẫn truyền thần kinh bao gồm dopamin, serotonine, noradrenaline được phóng thích. Chúng gây ra nhiều tác động tâm thần kinh như là cảm giác sảng khoái, tâm trạng vui vẻ, tăng chú ý, tăng hoạt động nhận thức và trí nhớ ngắn hạn.
Não bộ nhanh chóng nhận ra rằng có thể dùng thuốc lá để kích thích bài tiết dopamin và như vậy khởi động quá trình hút thuốc lá kéo dài nhiều năm tháng. Hiệu ứng tâm thần kinh đó”.

2. Monoxit carbon [khí CO]:

Khí CO có nồng độ cao trong khói thuốc lá và sẽ được hấp thụ vào máu, gắn với hemoglobine với ái lực mạnh hơn 210 lần oxy. Khí CO đi nhanh vào máu và chiếm chỗ của oxy trên hồng cầu. Ái lực của hemoglobine hồng cầu với CO mạnh gấp 210 lần so với O2 và như thế sau hút thuốc lá, một lượng hồng cầu trong máu tạm thời mất chức năng vận chuyển O2 vì đã gắn kết với CO.  Hậu quả là cơ thể không đủ oxy để sử dụng

3. Các phân tử nhỏ trong khói thuốc lá:

Khói thuốc lá chứa nhiều chất kích thích dạng khí hoặc dạng hạt nhỏ. Các chất kích thích này gây nên các thay đổi cấu trúc của niêm mạc phế quản dẫn đến tăng sinh các tuyến phế quản, các tế bào tiết nhầy và làm mất các tế bào có lông chuyển. Các thay đổi này làm tăng tiết nhày và giảm hiệu quả thanh lọc của thảm nhày-lông chuyển. Phần lớn các thay đổi này có thể hồi phục được khi ngừng hút thuốc.

4. Các chất gây ung thư:

Trong khói thuốc lá có khoảng 70 chất có tính chất gây ung thư, ví dụ như hợp chất thơm có vòng đóng, Benzopyrene hay các Nitrosamine. Các hoá chất này tác động lên tế bào bề mặt của đường hô hấp gây nên tình trạng viêm mạn tính, phá huỷ tổ chức, biến đổi tế bào dẫn đến dị sản, loạn sản rồi ác tính hoá.

III. TÁC HẠI CỦA VIỆC HÚT THUỐC LÁ

Thuốc lá gây ra khoảng 25 căn bệnh khác nhau cho người hút thuốc, trong dó có nhiều bệnh nguy hiểm như ung thư, bệnh tim mạch, bệnh hô hấp và ảnh hưởng tới sức khoẻ sinh sản

1. Tác hại của thuốc lá đối với sức khỏe người hút thuốc như thế nào?

Thuốc lá gây ra khoảng 25 căn bệnh khác nhau cho người hút thuốc, trong dó có nhiều bệnh nguy hiểm như ung thư, bệnh tim mạch, bệnh hô hấp và ảnh hưởng tới sức khoẻ sinh sản. Hút thuốc ở phụ nữ mang thai gây các ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe của cả bà mẹ cũng như thai nhi. Các căn bệnh chính do thuốc lá gây ra như: ung thư phổi, khí phế thũng, rụng tóc, đục nhân mắt [hình minh họa].
Thuốc lá còn là một trong các nguyên nhân chính gây ra các bệnh không truyền nhiễm. Cụ thể, tính chung trên thế giới thuốc lá gây ra 90% các trường hợp ung thư phổi, 75% các trường hợp phổi tắc nghẽn mạn tính và 25% các trường hợp bệnh tim thiếu máu cục bộ. Theo ước tính ở Hoa Kỳ thuốc lá là nguyên nhân của khoảng 30% các trường hợp tử vong do bệnh ung thư.

2. Thế nào là hút thuốc thụ động, hút thuốc thụ động gây ra những bệnh gì?

Hút thuốc thụ động là hít phải [hay còn gọi là phơi nhiễm] khói thuốc từ đầu điếu thuốc đang cháy hoặc khói thuốc do người hút thuốc phả ra. Khói thuốc thụ động chừa hàng nghìn các hóa chất, trong đó ít nhất là 250 chất gây ung thư hay chất độc hại.

Hút thuốc thụ động có thể gây nên nhiều bệnh nguy hiểm ở cả người lớn và trẻ em.
Ở người lớn hút thuốc thụ động gây ung thư phổi, các bệnh về tim mạch, ung thư vú, bệnh động mạch vành, xơ vữa động mạch, gây các triệu chứng kích thích đường hô hấp, tăng nguy cơ đẻ non và trẻ nhẹ cân.

Ở trẻ em, hút thuốc thụ động có thể gây viêm đường hô hấp, hen, viêm tai giữa, đột tử ở trẻ sơ sinh [SID], kém phát triển chức năng phổi và làm tăng nguy cơ mắc nhiều loại bệnh khác.

IV. MỘT SỐ BỆNH LÝ DO THUỐC LÁ GÂY RA

1. Hút thuốc lá và các bệnh về phổi

a] Ung thư phổi

Hút thuốc được biết tới là tác nhân phổ biến nhất gây ra bệnh ung thư phổi và đây cũng là một trong nhiều bệnh ung thư mà người hút thuốc mắc phải.

 Những người hút thuốc có nguy cơ cao mắc các bệnh khí phế thũng, viêm cuống phổi, đây là hai dạng của bệnh viêm phổi tắc nghẽn mãn tính. Hút thuốc liên quan tới 90% của tổng số các ca mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính về phổi. Bên cạnh đó, hút thuốc cũng làm suy yếu hệ miễn dịch cảu cơ thể. Nguy cơ viêm đường hô hấp như viêm phổi, bệnh cúm ở người hút thuốc cao hơn so với người không hút thuốc.
Ở hầu hết các nước, thuốc lá là nguyên nhân gây hơn 90% ca tử vong vì ung thư phổi. Ung thư phổi không phổ biến ở người không hút thuốc. Thực tế ung thư phổi là căn bệnh hiếm thấy trước khi sử dụng thuốc lá trở nên phổ biến. Trong vòng 60 năm qua, tỷ lệ ung thư phổi tăng lên đáng kể cùng với số lượng người hút thuốc gia tăng. Trung bình người hút thuốc tăng nguy cơ liên quan tới ung thư phổi từ 5 đến 10 lần. Nhiều nghiên cứu đã xác định ba xu hướng quan trọng:

  1. Nguy cơ ung thư tăng với số lượng thuốc hút/số thuốc trong ngày
  2. Nguy cơ ung thư tăng với thời gian hút thuốc, đo lường theo năm
  3. Nguy cơ ung thư tăng với người bắt đầu hút thuốc khi còn trẻ.

b] Bệnh viêm phổi tắc nghẽn mãn tính: Khí phế thũng và viêm phế quản mãn tính

Bệnh viêm phổi tắc nghẽn mãn tính là sự phân loại bệnh để chỉ sự ảnh hưởng của phổi liên quan với sự cản trở đường dẫn khí. Hai dạng chính của bệnh viêm phổi tắc nghẽn mãn tính là viêm phế quản mãn tính và khí phế thũng. Hút thuốc là nguyên nhân chính gây cả hai bệnh trên. Mối liên quan giữa sử dụng thuốc và các bệnh viêm phổi tắc nghẽn mãn tính mạnh tương tự như mối liên quan giữa hút thuốc và ung thư phổi. Bởi vì người hút thuốc thường bị suy yếu chức năng niêm mạc phế quản hơn người không hút thuốc, họ bị ảnh hưởng nhiều hơn từ môi trường, lây nhiễm và các khói độc. Ước tính các bệnh viêm phổi tắc nghẽn mãn tính ở người hút thuốc cao hơn 10 lần so với  người không hút thuốc và sử dụng thuốc lá có thể liên quan tới hầu hết các ca tử vong các bệnh viêm phổi tắc nghẽn mãn tính.

Khí thũng hình thành trong thời gian dài khi tiếp xúc thường xuyên với các chất độc. Khí thũng sẽ phát bệnh khi phế nang trong phổi bị phá vỡ,  trở nên ít đàn hồi hơn và khả năng trao đổi ô xy kém hơn.  Bởi vì những ảnh hưởng tới phổi là không thể tránh khỏi, người có bệnh khí thũng thường nhờ vào sự bổ sung ô xy từ bình chứa ô xy. Một dạng bệnh khác của các bệnh mãn tính về phổi là viêm phế quản mãn tính.  Những triệu chứng đặc trưng của bệnh này là khó thở và nhiều đờm.

Trong một nghiên cứu theo dõi 40 năm của các bác sĩ nam giới ở Anh, so sánh tỷ lệ tử vong hàng năm của 100,000 nam giới về các bệnh mãn tính về phổi thì 10 người không hút thuốc, 57 người đã từng hút thuốc và 127 người hiện đang hút thuốc.

Ở người hút thuốc bệnh hen sẽ bị nặng hơn. Người mắc bệnh hen là người hút thuốc thì phải chịu như nhiều đờm, giảm hoạt động của lông mao, dễ bị nhiễm bệnh, dễ bị dị ứng và ảnh hưởng tới sự lưu thông khí ở các đường thở nhỏ. Một nghiên cứu về tỷ lệ tử vong vì bệnh hen trong số người đang hoặc đã từng hút thuốc là gấp đôi so với người không hút thuốc: 3,7 trên 100,000 so với 8,3 trên 100,000.

c] Viêm đường hô hấp

Hút thuốc làm suy yếu hệ miễn dịch của cơ thể.Nguy cơ viêm đường hô hấp như viêm phổi và bệnh cúm ở người hút thuốc cao hơn ở người không hút thuốc.  Người hút thuốc không chỉ phải chịu đựng mắc bệnh tật nhiều hơn mà họ phải chịu bệnh tật ở mức độ nặng hơn. Một nghiên cứu tiến hành trong sinh viên ốm vì cảm lạnh ở các trường trung cấp thấy rằng các sinh viên hút thuốc mắc các triệu chứng ho, nhiều đờm và thở khò khè nhiều hơn sinh viên không hút thuốc.

2. Hút thuốc lá với các bệnh lý ung thư

Ở Mỹ có nhiều nghiên cứu về sự liên quan giữa sử dụng thuốc lá và ung thư đã được tiến hành, các nghiên cứu này ước tính rằng khoảng một phần ba trong tổng số người chết vì ung thư liên quan tới sử dụng thuốc lá

Thuốc lá gây ra xấp xỉ 90 % tổng số người chết vì ung thư phổi và hút thuốc lá còn gây ra ung thư ở nhiều các phần khác như họng, thanh quản, thực quản, tuyến tuỵ, tử cung, cổ tử cung, thận, bàng quang, ruột và trực tràng.

a] Ung thư phổi

Cách đây gần 50 năm Doll và Hill đã chỉ ra rằng hút thuốc lá gây ung thư phổi và tỷ lệ tử vong do ung thư phổi tăng theo số lượng thuốc hút. Trên thế giới tỉ lệ mắc ung thư phổi tăng khá nhanh trong vòng 60 năm qua, tăng hơn nhiều so với các loại ung thư chính khác và tỉ lệ này cho thấy có sự liên quan mật thiết với việc số người hút thuốc tăng lên. Tỷ lệ ung thư phổi thấp ở những quần thể dân cư không phổ biến hút thuốc lá.Hút thuốc là nguyên nhân chính gây ung thư phổi, khoảng 87% trong số 177,000 ca mới mắc ở Mỹ năm 1996 là do thuốc lá, còn lại là do các nguyên nhân khác như: ô nhiễm môi trường, bệnh nghề nghiệp, ăn uống, cơ địa và các yếu tố di truyền. 90% trong số 660.000 ca được chẩn đoán ung thư phổi hàng năm trên thế giới là người hút thuốc lá. Giả định nguy cơ của những người không hút thuốc lá bị ung thư phổi là 1 thì nguy cơ bị ung thư phổi của những người hút thuốc cao hơn gấp 10 lần so với những người không hút thuốc. Mức độ tăng nguy cơ khác nhau tuỳ theo loại tế bào ung thư, nguy cơ bị ung thư biểu mô tế bào vảy và ung thư biểu mô tế bào nhỏ ở những người hút thuốc tăng 5 đến 20 lần trong khi nguy cơ bị ung thư biểu mô tuyến và ung thư biểu mô tế bào lớn tăng 2 đến 5 lần so với những người không hút thuốc.

Mức độ nguy cơ sẽ tăng lên cùng với số năm hút thuốc lá, số lượng thuốc lá tiêu thụ hàng ngày và lứa tuổi lúc bắt đầu hút thuốc lá càng sớm càng nguy hiểm. Hút bao nhiêu thuốc thì tăng nguy cơ bị ung thư phổi? Người ta thấy rằng với bất kỳ lượng thuốc hút nào cũng gây tăng nguy cơ mắc ung thư phổi. Nói cách khác không có giới hạn dưới của của lượng thuốc hút cần thiết để gây ung thư phổi. Thời gian hút thuốc lá cũng rất quan trọng, thời gian hút càng dài thì tác hại càng lớn.
Những người không hút thuốc mà kết hôn với người hút thuốc, tỷ lệ chết vì ung thư phổi cao hơn 20% so với người kết hôn với người không hút thuốc và tỷ lệ chết vì ung thư phổi cũng tăng lên cùng với số lượng thuốc được hút bởi người vợ hoặc người chồng.

Chỉ khoảng 13% bệnh nhân ung thư phổi sống sót sau 5 năm. Tỉ lệ chết do ung thư phổi ở nam giới có hút thuốc cao gấp 22 lần so với nam giới không hút thuốc, còn ở nữ thì gấp khoảng 12 lần. Trong khi rất nhiều phụ nữ tin rằng ung thư vú là nguyên chính gây tử vong ở nữ thì đến năm 1988 ung thư phổi lại cao hơn nhiều so với ung thư vú trong các trường hợp tử vong ở phụ nữ.

Hút thuốc thụ động cũng làm tăng nguy cơ mắc ung thư phổi với chỉ số nguy cơ tương đối khoảng từ 1,2 đến 1,5. Khi đồng thời hút thuốc và có tiếp xúc với yếu tố độc hại khác thì nguy cơ gây ung thư phổi sẽ tăng lên gấp nhiều lần.

b] Các loại ung thư ở các bộ phận thuộc đầu và cổ

Các loại ung thư các bộ phận thuộc đầu và cổ bao gồm ung thư thực quản, thanh quản, lưỡi, tuyến nước bọt, môi, miệng và họng. Những nguy cơ của các bệnh ung thư này sẽ tăng dần cùng với số lượng và thời gian hút thuốc. Hút thuốc lá và nghiện rượu là hai yếu tố mạnh nhất gây ung thư ở các bộ phận thuộc đầu và cổ. Nghiện rượu và các sản phẩm chế xuất từ thuốc lá cùng nhau tăng nguy cơ về lâu dài gây ung thư.- Ung thư thực quản. Nguy cơ phát bệnh ung thư thực quản của người hút thuốc lớn hơn 8 tới 10 lần người không hút thuốc. Những nguy cơ này sẽ bị tăng thêm từ 25 tới 50 phần trăm nếu người hút thuốc sử dụng nhiều rượu.- Ung thư thanh quản. Hút thuốc gây nên 80 % trong tổng số ung thư thanh quản.Người hút thuốc chịu nguy cơ mắc bệnh ung thư thanh quản lớn hơn 12 lần so với người không hút thuốc.- Ung thư miệng. Hút thuốc là nguyên nhân chủ yếu của các bệnh ung thư lưỡi, tuyến nước bọt, miệng và vòm họng. Những người nam giới hút thuốc có nguy cơ lớn gấp 27 lần phát triển các bệnh về ung thư miệng hơn những nam giới không hút thuốc.- Ung thư mũi. Về lâu dài người hút thuốc sẽ có nguy cơ cao gấp hai lần hơn người không hút thuốc trong phát bệnh ung thư mũi.

c] Ung thư thận và bàng quang

Người hút thuốc có nguy cơ mắc ung thư cả thận và bàng quang. Trong tổng số ca tử vong do ung thư bàng quang, thì ước tính khoảng 40 tới 70 % là vì sử dụng thuốc lá.

d] Ung thư tuyến tuỵ

Tuyến tuỵ là tuyến dễ bị ung thư vì khói thuốc vào cơ thể tới tuyến tuỵ qua máu và túi mật. Ước tính rằng thuốc lá là nguyên nhân của 30 % của tổng số ung thư tuyến tuỵ.

e] Ung thư bộ phận sinh dục

- Ung thư âm hộ: Ung thư âm hộ, là một phần của bộ phận sinh dục nữ thông thường hiếm gặp. Tuy nhiên phụ nữ mà hút thuốc có nguy cơ gấp đôi mắc ung thư âm hộ.- Ung thư tử cung: Sự liên quan giữa hút thuốc và ung thư tử cung chỉ mới được phát hiện gần đây. Có ít nhất 12 nghiên cứu đã thấy phụ nữ hút thuốc có tăng nguy cơ bị ung thư tử cung và nguy cơ tăng cùng với số lượng và thời gian sử dụng thuốc- Ung thư dương vật: Ung thư dương vật đã trở nên ngày càng phổ biến ở nam giới hút thuốc hơn là những người nam không hút thuốc.

f] Ung thư hậu môn và đại trực tràng

- Ung thư hậu môn. Bằng chứng mới đây đã phát hiện ra hút thuốc lá đóng vai trò tác nhân gây ung thư hậu môn và đại trực tràng. Cũng trong một nghiên cứu diện rộng được tiến hành ở Mỹ, đối với nam và nữ những người hút thuốc có nguy cơ mắc bệnh ung thư tăng từ 75 tới 100 %…so với những người cùng lứa tuổi không hút thuốc.

2. Hút thuốc lá và các bệnh về tim mạch

Trong tất cả các nguyên nhân gây bệnh về tim thì thuốc lá là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất và có thể ngăn chặn.

Bằng các cơ chế đa dạng, hút thuốc là nguyên nhân dẫn đến các bệnh tim mạch.  Trước tiên biểu hiện chứng xơ vữa động mạch, làm tăng sự kết dính tế bào máu, tăng chứng loạn nhịp tim; giảm sự luân chuyển ô xy, người hút thuốc gặp các nguy cơ này nhiều hơn người không hút thuốc.  Trong số các bệnh về tim người hút  thuốc có nguy cơ cao nhất mắc các bệnh cao huyết áp, bệnh về tim do suy yếu mạch vành, đau ngực, loạn nhịp tim và đau tim.

a] Cao huyết áp

Trong vòng vài phút hút thuốc, nhịp tim bắt đầu tăng.  Nhịp tim có thể tăng cao tới 30 phần trăm và trở lại bình thường trong 10 phút hút thuốc.  Để phản ứng lại sự kích thích này mạch máu co bóp lại buộc tim phải hoạt động nhiều hơn để luân chuyển ô xy.  Việc hút thuốc lặp lại không chỉ làm tăng huyết áp mà còn biến đổi huyết áp.  Khi huyết áp tăng thì bản thân hiện tượng này đã gây bệnh tim và nguy hiểm hơn là tăng huyết áp cao dẫn tới ảnh hưởng nghiêm trọng tới tim.

b] Bệnh tim do suy yếu mạch vành

Các bệnh tim do suy yếu động mạch vành chiếm khoảng hơn nửa các bệnh liên quan tới tim mà nguyên nhân là do hút thuốc.  Hút thuốc là nguy cơ tiềm tàng phát triển bệnh xơ vữa động mạch, dẫn tới bệnh tim. Chứng xơ vữa động mạch là do tích luỹ các chất béo trong động mạch và gây cản trở và làm hẹp các động mạch mà chính bộ phận này cung cấp máu cho hoạt động cơ tim.  Các chất bám lại động mạch sẽ làm giảm lượng máu chảy và có thể tăng huyết áp.  Hút thuốc tác động tới một số phần khác của bệnh tim vì vậy dù một ít thuốc lá mỗi ngày sẽ tăng nguy cơ mắc bệnh đáng kể.  Một nghiên cứu trên đối tượng y tá cho thấy những người hút 4 điếu thuốc mỗi ngày tăng 2,5 nguy cơ mắc bệnh suy yếu động mạch vành. Nguy cơ mắc bệnh tim là sự kết hợp của áp huyết cao và hàm lượng cholesteron cao trong máu.  Nhìn chung người hút thuốc có nguy cơ từ 2 tới 4 lần mắc các bệnh về tim và lớn hơn 70 phần trăm chết vì các căn bệnh này so với người không hút thuốc.

c] Đau thắt ngực và đau tim

Đau thắt ngực hay còn gọi là chứng thiếu máu cục bộ do giảm lượng máu cung cấp tới tim.  Hút thuốc thời gian dài gây tổn thương lớp nội mạc mạch máu, dẫn tới  sự co thắt mãn tính cho mạch máu. Mạch máu bị tác động sẽ dễ hình thành mảng bám.  Tạo điều kiện mảng bám hình thành các cục máu và cản trở động mạch và gây ra đau tim. Nếu cơ tim không nhận đủ khí ô xy trong suốt thời gian co bóp thì một phần cơ tim có thể tê liệt, kết quả là gây"đau tim". Người hút thuốc lâu năm sẽ phải chịu cơn đau thắt ngực và đau tim ở mức độ cao hơn người không hút thuốc. Người hút thuốc không chỉ phải chịu các cơn đau tim hơn người không hút thuốc mà họ còn phải chịu đựng các cơn đau tim xảy ra sớm và lặp lại nhiều lần trong cuộc đời. Theo ước tính hút thuốc lá làm tăng nguy cơ tái phát bệnh đau tim trong một năm từ 6,3 đến 12,5 phần trăm so với người không hút thuốc. Một nghiên cứu của Trần Văn Dương tại Viện Tim Mạch Việt Nam so sánh 165 bệnh nhân hút thuốc và chỉ số mắc bệnh đau tim. Tất cả các bệnh nhân có một số triệu chứng của đau tim ở cùng thời điểm nghiên cứu.  Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng nguy cơ nhồi máu cơ tim  của bệnh nhân hút thuốc cao hơn những bệnh nhân không hút thuốc[62,8 phần trăm và 18,2 phần trăm tương đương, p

Chủ Đề