Khách có tâm trạng như thế nào khi đến với sông Bạch Đằng

Câu 3: Trang 7 sgk Ngữ văn 10 tập 2

Cảm xúc nhân vật " khách" trước khung cảnh thiên nhiên sông Bạch Đằng: Phấn khởi, tự hào? Buồn thương, nuối tiếc vì những giá trị vùi lấp vào quá khứ? Lí giải cách lựa chọn của anh chị. [ Lưu ý đặc điểm hình ảnh thiên nhiên và giọng văn trong đoạn " Qua cửa Đại Than... dấu vết luống còn lưu]


Cảm xúc của nhân vật khách trước khung cảnh:

Đứng trước khung cảnh thiên nhiên hùng tráng ấy nhân vật “khách” vừa vui vừa buồn. Hai thứ cảm xúc ấy cứ đan xen, xen kẽ vào với nhau. Nhưng cũng từ đó nhân vật bộc lộ niềm tự hào trước sự hùng vĩ của cảnh vật lại có chút tiếc nuối, cót xa cho những vị anh hùng đã xả thân bảo vệ đất nước quê hương, khung cảnh hùng vĩ này: ‘’ Thương nỗi anh hùng ….. luống còn lưu”. Giọng văn buồn man mát bâng khuông bày tỏ nỗi niềm giấu kín trong lòng “ khách”


Trắc nghiệm ngữ văn 10: bài Phú sông Bạch Đằng

Từ khóa tìm kiếm Google: câu 3 trang 7 văn 10 tập 2, soạn văn câu 3 trang 7 văn 10 tập 2, trả lời câu 3 trang 7 văn 10 tập 2, Phú sông Bạch Đằng Văn 10

Nhân vật Khách trong Phú sông Bạch Đằng cũng chính là đại diện cho Trương Hán Siêu. Những nỗi niềm mà nhân vật khách gửi gắm hay cũng chính là tiếng lòng của chính nhà thơ. Để nắm được ý nghĩa của hình tượng nhân vật khách này, Mobitool xin giới thiệu đến các em tài liệu Phân tích nhân vật khách trong Phú sông Bạch Đằng dưới đây. Chúc các em sẽ có được những bài văn thật hay nhé! Ngoài ra, để làm phong phú thêm kiến thức cho bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài giảng Phú sông Bạch Đằng.

Thuyết minh , Nghị luận , Cảm nhận Phân tích hình tượng nhân vật khách trong Phú sông Bạch Đằng

Dưới đây là hướng dẫn Sơ đồ tư duy về hình tượng nhân vật khách trong phú sông bạch đằng giúp các bạn hình dung rõ hơn về bài làm.

Sơ đồ tư duy về hình tượng nhân vật khách trong phú sông bạch đằng

Trương Hán Siêu đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật khách trong chuyến du ngoạn tìm hiểu những danh lam, thắng cảnh lịch sử, trong đó có sông Bạch Đằng, phân tích khái quát hình tượng nhân vật khách trong sông Phủ. Tìm hiểu Dàn ý chi tiết nhân vật khách trong phú sông bạch đằng dưới đây nhé :

Dàn ý chi tiết nhân vật khách trong phú sông bạch đằng

A. Mở bài:

– Giới thiệu về Trương Hán Siêu, tác phẩm Phú sông Bạch Đằng [hoàn cảnh ra đời của bài phú], giới thiệu về hình tượng nhân vật khách.

B. Thân bài:

– Hình tượng nhân vật khách: tư thế của một con người có tâm hồn khoáng đạt

  • Khách dạo chơi phong cảnh không chỉ để thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên mà còn nghiên cứu cảnh trí đất nước, bồi bổ tri thức.
  • Hoài bảo lớn lao: “Nơi có … chẳng biết”; “Đầm Vân Mộng chứa ……vẫn còn tha thiết”.

– Tráng chí của khách được gợi lên qua hai loại địa danh:

  • Địa danh trong điển cố Trung quốc: rong chơi bể lớn, Sông Nguyên, Tương, Vũ huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ,Tam Ngô, Bách Việt – những vùng đất nổi tiếng, khách đã đi qua bằng sách vở.
  • Địa danh thứ hai là những địa danh đất Việt, với không gian cụ thể: cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng là hình ảnh hiện tại mang tính đương đại hiện ra trước mắt
  • Cảnh sắc thiên nhiên hiện lên hùng vĩ hoành tráng “Bát ngát sóng kình muôn dặm – thướt tha đuôi trĩ một màu”.
  • Song cũng ảm đạm, hắt hiu “bờ lau san sát, bến lách đìu hiu – Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”.

=> Tâm hồn phong phú nhạy cảm, tâm trạng của khách vừa vui vừa tự hào trước cảnh sông hùng vĩ, thơ mộng “nước trời: một sắc , phong cảnh: ba thu”, tự hào trước dòng sông còn ghi bao chiến tích. Nhưng vừa buồn đau, tiếc nuối vì chiến trường xưa một thời oanh liệt nay trơ trọi, hoang vu, thời gian đã làm mờ bao dấu vết.

– Nghệ thuật: Lời văn linh hoạt, hình tượng nghệ thuật sinh động, vừa gợi hình sắc trực tiếp, vừa mang ý nghĩa khái quát, tính triết lý, ngôn từ trang trọng, hào hùng, vừa lắng đọng,gợi cảm.

C. Kết bài:

  • Với hình tượng nhân vật khách, bài phú thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc, tự hào về truyền thống anh hùng và tư tưởng nhân văn cao đẹp. Sự hoài niệm về quá khứ là niềm tự hào về truyền thống dân tộc của tác giả.

Đề bài: Em hãy viết bài văn phân tích nhân vật Khách trong Phú sông Bạch Đằng. hãy theo dõi Hướng dẫn bài văn mẫu nhân vật khách trong phú sông bạch đằng dưới đây :

Hướng dẫn bài văn mẫu nhân vật khách trong phú sông bạch đằng

Người nghệ sĩ ra đi, nhưng tác phẩm anh để lại cho đời là bất tử. Và những tác phẩm lại sống trong lòng người đọc muôn thế hệ bằng những thông điệp nhân văn, bằng những hình tượng nghệ thuật giàu giá trị. Có thể nói, bài Phú Sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu đã xây dựng được một hình tượng nhân vật như thế trong dòng chảy lịch sử văn học Việt Nam. Hình tượng nhân vật khách.

Phú là một thể văn cổ, có những đặc điểm và quy phạm riêng, về mặt xây dựng nhân vật và hình tượng, thì trong bài phú nhân vật khách là một nhân vật được tác giả hư cấu, tưởng tượng, xây dựng theo hình thức đối đáp với một nhân vật nào đó [trong bài này là với các vị bô lão] Nhân vật khách trong bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu là hình tượng trung tâm của toàn bộ tác phẩm, mạch chảy mạch kết cấu của văn bản theo toàn bộ những dòng suy tưởng, đó là sự bộc bạch cái tráng chí bốn phương tha thiết và là nỗi niềm về cả một thời dĩ vãng oanh liệt của dân tộc năm xưa trên sông Bạch Đằng.

Mở đầu bài phú, nhân vật khách xuất hiện như một bậc tao nhân mặc khách với tráng chí bốn phương ngao du sơn thủy, lấp đầy tâm hồn mình bởi vẻ đẹp tráng lệ, hùng vĩ của thiên nhiên non sơn kỳ thú:

“Giương buồm giong gió chơi vơi,

Lướt bể chơi trăng mải miết.

Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,

Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt”

Các từ “chơi vơi”, “mải miết” tạo cho người đọc một cảm giác mới mẻ về nhân vật khách, một bậc tài tử lãng du cùng với thú vui sơn thủy, đắm chìm trong không gian rộng lớn, thơ mộng khoáng đạt. Thiên nhiên mây, gió, trăng bỗng trở thành người bạn của nhân vật khách với thú vui tao nhã. Cách liệt kê một loạt những địa điểm nổi tiếng cho thấy khả năng đi nhiều, biết nhiều và tráng chí bốn phương của nhân vật khách, gợi nên một tâm hồn phóng khoáng, thích ngao du và mang vẻ đẹp lộng gió như được hơi thở của thiên nhiên đằm vào điệu tâm hồn nhân vật.

Đoạn văn tiếp theo nói lên niềm vui thú của nhà thơ khi đến chơi sông Bạch Đằng. Trương Hán Siêu đã theo cái chí của người xưa “học Tử Trường” đi về phía Đông Bắc “buông chèo” cho thỏa chí “tiêu diêu”. Người xưa nói: “Muốn học cái văn của Tư Mã Tử Trường thì trước tiên phải học cái chơi của Tử Trường”. Tử Trường là Tư Mã Thiên, tác giả bộ “Sử ký” bất hủ, là nhà văn, nhà sử học tài ba đời Hán. Con người ấy vẫn được xem là nhà du lịch có một không hai thời xưa. Trương Hán Siêu với cánh buồm thơ lần theo sông núi:

“Qua cửa Đại than, ngược bến Đông triều,

Đến sông Bạch Đằng, bồng bềnh mái chèo

Bát ngát sóng kình muôn dặm”

Bạch Đằng giang, con sông oai hùng của Tổ Quốc Đại Việt. Sông rộng và dài, cuồn cuộn nhấp nhô sóng biếc.Cuối thu [ba thu] nước trời một màu xanh bao la “Bát ngát sóng kình muôn dặm – Thướt tha đuôi trĩ một màu- Nước trời: một sắc- Phong cảnh ba thu”.

Câu văn tả thực mượn một hình ảnh của Vương Bột trong bài “Đằng Vương các” “Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc” [Sông thu cùng với trời xa một màu]. Tả con sóng Bạch Đằng, vua Trần Minh Tông [1288-1356] viết: “Thuồng luồng nuốt thuỷ triều, cuộn làn sóng bạc… Trông thấy nước dòng sông rọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối- Lầm tưởng rằng máu người chết vẫn chưa khô” [Bạch Đằng giang – Dịch nghĩa]. Cảnh núi non, bờ bãi được miêu tả, đã tái hiện cảnh chiến trường rùng rợn một thời:

“Bờ lau san sát

Bến lách đìu hiu

Sông chìm giáo gãy

Gò đầy xương khô”

Bờ lau, bến lách gợi tả không khí hoang vu. hiu hắt. Núi gò, bờ bãi trập trùng như gươm giáo, xương cốt lũ giặc phương Bắc chất đống. Nét vẽ hoành tráng ấy, một thế kỷ sau Ức Trai cũng viết: “Ngạc chặt kình băm non lởm chởm – Giáo chìm gươm gãy bãi dăng dăng” [“Cửa Biển Bạch Đằng”].

Trương Hán Siêu miêu tả dòng sông Bạch Đằng bằng những đường nét, màu sắc gợi cảm. Những ẩn dụ và liên tưởng mới về dòng sông lịch sử hùng vĩ được miêu tả qua những cặp câu song quan và tứ tự tuyệt đẹp. Mấy chục năm sau trận đại thắng trên sông Bạch Đằng[1288] nhà thơ đến thăm dòng sông cảm thương xúc động:

“Buồn vì cảnh thảm

Đứng lặng giờ lâu

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”.

Một tâm trạng: “buồn, thương tiếc”, một cảm xúc “đứng lặng giờ lâu” của “khách” đều biểu lộ sự xúc động, lòng tiếc thương và biết ơn sâu sắc, vô hạn đối với anh hùng liệt sĩ đã đem xương máu bảo vệ dòng sông và sự tồn vong của dân tộc. Đó là tình nghĩa thuỷ chung “uống nước nhớ nguồn”

“Mà nhục quân thù khôn rửa nổi”

Các bô lão – nhân vật thứ hai xuất hiện trong bài phú. Từ miêu tả và trữ tình, nhà thơ chuyển sang tự sự, ngôn ngữ sống động biến hoá hẳn lên, Cảm hứng lịch sử mang âm điệu anh hùng ca dâng lên dào dạt như những lớp sóng trên sông Bạch Đằng vỗ. Khách và bô lão ngắm dòng sông, nhìn con sóng nhấp nhô như sống lại những năm tháng hào hùng oanh liệt của tổ tiên.

Trương Hán Siêu là một người có tính tình cương trực, học vấn uyên tâm, được các vua Trần tin cậy và tin dùng. Ông là một trong những danh sĩ nổi tiếng nhất đời Trần, nhưng số lượng tác phẩm để lại không nhiều. Nổi bật nhất là Bạch Đằng giang phú, với hình tượng nhân vật “khách” để lại nhiều dư âm, ấn tượng trong lòng bạn đọc. Nhân vật “khách” có thú du ngoạn bốn phương, tâm hồn tự do, phóng khoáng :

Giương buồm giong gió chơi vơi

Lướt bể chơi trăng mải miết …

Các địa danh được liệt kê liên tiếp: Nguyên Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô,… đây đều là những địa danh của Trung Quốc, thắng cảnh đẹp đẽ mà ai cũng mong muốn, mơ ước được một lần đặt chân đến. Nhân vật “khách” mượn những địa danh này để nói lên niềm đam mê, sở thích du ngoạn bốn phương của mình. Cách ông dùng từ đối lập: sớm – tối đã thể hiện rõ sở thích ngao du thiên hạ của bản thân. Qua sở thích đó còn thể hiện khát vọng tìm đến những vùng đất mới để khám phá và tìm hiểu văn hóa, lịch sử. Mặc dù nhân vật khách đã được đi nhiều nơi nhưng Mà tráng trí bốn phương vẫn còn tha thiết. Đằng sau đó, ta còn thấy nguyện vọng, mong muốn thật sự của nhân vật “khách” khi đi du ngoạn non sông là muốn học theo Tử Trường ngao du mọi nơi để tìm hiểu về lịch sử dân tộc.

Dưới con mắt của nhân vật “khách” bức tranh Bạch Đằng hiện lên vô cùng sống động. Cảnh sông nước Bạch Đằng bao la, bát ngát, hùng vĩ với bầu trời xanh ngắt: Bát ngát sóng kình muôn dặm/ Thướt tha đuôi trĩ một màu/ Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu. Nhưng bên cạnh đó còn là bức tranh ảm đạm, thê lương, hiu hắt với dấu vết của chiến tích xưa còn để lại: Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu/ Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô. Hai bên bờ hun hút chỉ có bờ lau nối tiếp bến lách. Hai từ láy tăng nghĩa, bổ trợ cho nhau để làm rõ sự hoang vu, vắng vẻ của không gian. Nhìn sông mà khiến nhân vật khách liên tưởng đáy sông đầy vũ khí bỏ lại sau những trận chiến, nhìn gì mà liên tưởng tới nấm mồ của bao nhiêu người đã bỏ mạng ở nơi đây. Câu thơ gợi nhắc ta nhớ đến bài Bạch Đằng hải khẩu của Nguyễn Trãi :

Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc

Qua trầm tích chiến ngạn tằng tằng

Sự xuất hiện của “khách” trong Bạch Đằng giang phú gắn với hình ảnh thiên nhiên thể hiện tâm hồn lãng mạn và lòng yêu quê hương đất nước của nhân vật hay cũng chính là của Trương Hán Siêu. Ở phần tiếp của bài ca, nhà văn đã để nhân vật “khách” đối thoại với các bô lão xung quanh chủ đề: cuộc chiến đấu và chiến thắng của quân đội nhà Trần trước quân Nguyên Mông. “Khách” được các bô lão kể về chiến tích Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã. Sau lời kể về trận chiến là lời bình luận và suy ngẫm của các bô lão về chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Trong cuộc đối thoại, nhân vật “khách” đóng vai trò là người lắng nghe câu chuyện, đồng thời là người nói lời cuối cùng, kết lại lời kể và bình luận của các bô lão:

Anh minh hai vị thánh quân,

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.

Giặc tan muôn thuở thăng bình,

Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.

Có thể nói tư tưởng nhân văn của Trương Hán Siêu được thể hiện đậm nét trong những câu ca này và chính “khách” là người phát ngôn thay cho tác giả. Lời ca của “khách” khẳng định vai trò, vị trí quyết định của yếu tố con người trong công cuộc trùng hưng đất nước. Theo Trương Hán Siêu, thắng giặc không cốt ở đất hiểm mà chủ yếu là đức lớn, là sức mạnh của con người. Không có con người thì những yếu tố “thiên thời, địa lợi” cũng không giúp con người chiến thắng. Lời ca của nhân vật “khách”, thể hiện rõ sự tôn kính đối với hai vị vua triều Trần [Trần Nhân Tông và Trần Thánh Tông]. Ngợi ca công lao nghìn năm tiết rỡ của con người là cách Trương Hán Siêu thể hiện cảm hứng mang giá trị nhân văn có tầm triết lí sâu sắc.

Như vậy, nhân vật “khách” xuất hiện trong tác phẩm cùng với những ý nghĩa quan trọng. Đây chính là hình ảnh trữ tình của nhà văn Trương Hán Siêu. “Khách”vừa là hình tượng nhân vật trong bài phú, vừa thể hiện lòng yêu quê hương đất nước, niềm tự hào dân tộc cũng như tinh thần nhân văn cao cả. Từ nhân vật này, ta có thể hình dung một cách rõ ràng về nội dung tư tưởng của sáng tác và tấm lòng yêu nước của Trương Hán Siêu.

Người nghệ sĩ đã qua đời, nhưng tác phẩm ông để lại là vĩnh hằng. Và tác phẩm sống và thổi hồn vào lòng người đọc nhiều thế hệ bằng một thông điệp nhân văn và hình tượng nghệ thuật giá trị. Có thể nói, bài “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu đã xây dựng một nhân vật như vậy trong dòng chảy lịch sử của văn học Việt Nam. Hình ảnh nhân vật khách mời.

Phú là một thể loại văn học cổ có những đặc điểm và quy luật riêng, về cách xây dựng và hình tượng nhân vật, nhân vật khách trong thơ là nhân vật được tác giả hư cấu, tưởng tượng và xây dựng dưới dạng nhân vật. Phản ứng của họ đối với một số nhân vật [cùng với các bô lão trong bài này] Trong Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu, nhân vật khách là hình tượng trung tâm của toàn bộ tác phẩm, là dòng chảy kết cấu của tác giả. Bài văn thể hiện quyết tâm tuyệt vọng về mọi hướng và nỗi niềm về quá khứ oanh liệt của những con người năm xưa trên sông Bakdang.

Mở đầu bài, nhân vật khách hiện lên như một người khách trong khí thế của một người anh hùng ngao du sơn thủy, tràn ngập tâm hồn trước vẻ đẹp hùng vĩ, hùng vĩ của thiên nhiên núi rừng kỳ thú.

“Hãy giương buồm và vui đùa với gió. Lướt sóng trong hồ bơi dưới ánh trăng. Gõ tàu đợi Nguyên Tường sớm,

Chiều thăm Vũ Hữu ”

Các điệp từ “chơi vơi”, “rộn rã” cho người đọc một cảm giác mới lạ khi được hòa mình vào một không gian khoáng đạt, thơ mộng, rộng lớn, với những nhân vật khách, tài tử phiêu bạt với thú vui sơn thủy. . Thiên nhiên mây, gió, trăng bỗng trở thành bạn của nhân vật khách với thú vui duyên dáng. Một loạt danh sách các địa điểm nổi tiếng cho thấy khả năng của khách mang lại vẻ đẹp như gió, như ham đi, biết nhiều, dũng cảm trên mọi phương diện, khơi dậy tinh thần tự do, thích du lịch và hít thở. của thiên nhiên đồng điệu với tâm hồn nhân vật.

Người đọc tiếp tục nhận thấy rằng trong nhiều truyện lịch sử chỉ nhắc đến chuyện Tử Trường, nhưng ở đây tác giả không nhấn mạnh đến việc nhân vật khách học ghi lịch sử. Để tìm hiểu sở thích du ngoạn sông nước của tài tử xưa. Nó không chỉ là một kỷ luật và học hỏi từ một chuyến đi đã qua, mà còn là sự suy ngẫm của các nhân vật khách. Có đầy đủ chiều sâu về các mốc lịch sử của đất nước. Cụ thể, trong những đoạn văn sau, khi một nhân vật khách mời nhớ lại quá khứ hào hùng và bi tráng của một đất nước.

“Tôi buồn vì cảnh tượng thương tâm. Đứng yên một lúc lâu. Sự vắng mặt của một anh hùng là điều đáng tiếc.

Thật không may, dấu vết của các rãnh vẫn còn ”.

Khác với không gian rộng rãi và khoáng đạt ở trên, khung cảnh hiện tại dường như đã trở nên u ám, nhuốm màu u buồn trải khắp toàn bộ bức tranh. Cũng là niềm tiếc thương khôn nguôi khi nghĩ đến những anh hùng, chiến sĩ đã hy sinh, ngã xuống, hóa thân hồn xác xuống trần gian này. Đó là khoảng lặng để tưởng nhớ và tri ân những đóng góp, hy sinh to lớn của họ. Dấu tích quá khứ là lời nhắc nhở về quá khứ vàng son của những dấu son, lịch sử dân tộc, đồng thời là đòn bẩy lịch sử để thế hệ mai sau noi gương và hoàn thiện mình.

Bằng cách đặt chữ tiếc ở đầu bài thơ, niềm xúc động sâu sắc của nhân vật khách, tức là nỗi buồn da diết của nhân vật khách khi chứng kiến ​​sự ăn mòn của thời gian, bộc lộ mạnh mẽ nỗi tiếc nuối mọi thứ đã không còn. Dấu vết mờ nhạt của một quá khứ hào hùng. Hóa ra nỗi bi thương, dồn nén dọc đường đã đẩy trái tim nhà thơ khát khao được sống lại giây phút hào hùng như thuở xưa. Trong lịch sử, Bak Danggang là nơi chứa đựng những chiến tích hào hùng, những trận đánh bại quân thù đầy nhục nhã, và giọng nói của ông là sự pha trộn giữa yếu tố hào hùng và lãng mạn, mang đến cho khán giả cảm giác say đắm lòng người. lãnh đạo. Người đọc đến từ hậu thế, nhưng vẫn cảm nhận một cách chân thực, sống động quá khứ lịch sử hào hùng của tiền nhân đi trước hòa cùng dòng chảy lịch sử oai hùng của thời đại. Mát lạnh.

Hồi ức về quá khứ đầy xót xa nhưng đau thương của nhân vật khách là biểu hiện của nét đẹp đạo lý truyền thống ngàn đời của dân tộc: uống nước nhớ nguồn, đi tìm thì nhớ về quá khứ. Quá khứ lịch sử là một cách để tri ân, tưởng nhớ và sửa mình đối với những hy sinh của tổ tiên.

Cũng như ngòi bút tài hoa của Trương Hán Siêu giúp người đọc bước vào thế giới lịch sử cổ đại, cùng cảm nhận về thành tích vinh hoa, mất mát qua dòng chảy của mạch cảm xúc của nhân vật khách. Sự hy sinh cao cả và khôn tả của một thế hệ ngã xuống. Và một lần nữa, hãy để chúng tôi hiểu m

Trương Hán Siêu là người có học, tận tụy, ngay thẳng, được vua Trần tín nhiệm. Ông là một trong những họa sĩ nổi tiếng nhất thời Trần, nhưng chỉ để lại một số tác phẩm. Đáng chú ý nhất là Bạch Đằng giang phú với hình tượng nhân vật “khách” để lại nhiều ấn tượng trong tâm trí người đọc.

Nhân vật “khách” thích du ngoạn bốn phương, tự do tự tại.

Đi thuyền với gió chơi

Lướt hồ bơi dưới ánh trăng …

Những địa danh được liệt vào hàng: Nguyên Tường, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, … Đây đều là những thắng cảnh, cảnh đẹp của Trung Quốc mà ai cũng mơ ước, ao ước và mơ ước. đã đi đến Nhân vật ‘Khách’ bày tỏ niềm đam mê và sở thích của mình là người đã thuê địa điểm này để đi du lịch khắp nơi. Cách anh ấy sử dụng từ trái nghĩa của mình: Buổi tối sớm cho thấy sở thích của anh ấy là đi du lịch khắp thế giới. Mong muốn khám phá và tìm hiểu văn hóa, lịch sử bằng cách tìm đến một vùng đất mới thông qua sở thích của anh cũng được bộc lộ. Nhân vật khách đã đến vài nơi, nhưng đồ trang trí vẫn còn đó. Đằng sau hậu trường, chúng ta có thể thấy được khát vọng, mong muốn thực sự của nhân vật “khách” khi đi du ngoạn sông nước là được đi khắp nơi dọc Tử Trường và tìm hiểu về lịch sử nước nhà.

Dưới con mắt của nhân vật ‘Khách’, những bức tranh của Bakdang hiện lên vô cùng sống động. Cảnh sông Bạch Đằng bao la, rộng lớn, hùng vĩ với trời xanh. Sóng lớn ngàn dặm. Nhưng bên cạnh đó là những bức tranh u ám, đìu hiu, hiu quạnh của những chiến công năm xưa. Những con đê sậy bị đóng, những cầu tàu / dòng sông cô đơn chìm những ngọn giáo gãy và những gò đất đầy xương khô. Hai bên sông chỉ có những bờ lau sậy dọc theo những bến nước tích trữ. Hai từ đồng nghĩa bổ sung cho nhau để làm rõ sự hoang vu, trống trải của không gian. Cảnh sông nước khiến khách liên tưởng đến lòng sông chứa đầy vũ khí còn sót lại sau trận chiến, còn quang cảnh gò đất gợi cho ta liên tưởng đến những ngôi mộ của hàng triệu người dân nơi đây. Câu thơ này làm em liên tưởng đến bài thơ Lối xuống biển Bạch Đằng của Nguyễn Trãi.

Chiêm ngưỡng tác phẩm điêu khắc khoa học vẽ song

Thông qua các tiền gửi chiến tranh vô tận

Cả hai tác phẩm đều nhấn mạnh cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên vĩ đại của dân tộc ta trong cảnh hiu quạnh, hoang vắng. Chúng tôi cũng xin gửi lời chia buồn đến những người đã thiệt mạng tại đây.

Nhân vật ‘khách’ đứng trước không gian choáng ngợp, sung sướng, mãn nguyện khi được ngắm nhìn khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ của đất nước. Nhân vật “Khách” đã tả cảnh ngụ tình bằng những từ ngữ, hình ảnh đẹp nhất, nhưng ngỡ ngàng nhận ra đằng sau vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của nó là dòng sông Bạch Đằng. Tôi ghi dấu những chiến thắng trong quá khứ. Đoạn văn này thể hiện sự chuyển biến cảm xúc mạnh mẽ của nhân vật khách. Từ người háo hức, say mê và tự do tự tại đến người trầm ngâm, buồn bã, tiếc nuối: cánh đồng lau sậy khép kín, bến tàu. Lá lách uể oải / Sông êm ngọn giáo gãy, gò chôn đầy xương khô. Đằng sau một trạng thái cảm xúc như vậy, người đọc có thể hình dung ra chân dung đầy đủ của một nhân vật “khách” hay chính tác giả. Tôi yêu đất nước.

Hình ảnh nhân vật ‘khách’ được tái hiện một lần nữa ở cuối tác phẩm như một lời tri ân tương xứng với lời khen ngợi của các bô lão. Nhân vật khách là hiện thân cho chân lý của đàn anh kể trên. Kẻ ác diệt vong / Chỉ muôn ngàn anh hùng mưu lợi. Hai vị anh hùng được nhắc đến là Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông sẽ mãi lưu danh, tiếng thơm còn mãi. Không chỉ vậy, Người ca ngợi sông Bạch Đằng đã ghi dấu những chiến công hào hùng trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước. Mượn ý thơ Đỗ Phủ, “Ngây ngô lau giáp chiến trường chi độc” [rửa vũ khí dùng mãi không hết] thể hiện khát vọng sống độc lập, thanh bình. Đây cũng là mục đích của cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Đặc biệt, anh nhấn mạnh đến yếu tố con người, đặc biệt là lòng nhân ái. Giặc bình yên muôn đời / Đất còn đâu hiểm nguy? Thắng lợi chúng ta giành được không chỉ ở sức mạnh hùng dũng mà yếu tố quyết định dẫn đến thắng lợi của chúng ta chính là đức tính của con người. Đoạn thơ đã thể hiện giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm.

Sông Nướng Đăng đã khơi nguồn cảm hứng cho biết bao thi nhân, là địa danh quen thuộc, là nhân chứng lịch sử để lại nhiều mốc son chói lọi trong lịch sử vẻ vang của đất nước. Nhà văn, cho ra đời những tác phẩm khá nổi tiếng. Bạch Đằng giang từ Trần Minh Tông, Bạch Đằng giang phú từ Nguyễn Mộng Tuân hay Bạch Đằng giang từ Nguyên Xương. Trong số đó, những tác phẩm thuộc thể loại phong phú rất phổ biến trong văn học. Nghiên cứu trung đại Việt Nam đó là bài thơ “Phú sông Bạch Đằng” của tác giả Trương Hán Siêu. Phần đầu của tác phẩm thể hiện hình ảnh và cảm xúc của nhân vật ‘khách’, toàn bộ tác phẩm bắt đầu bằng phản ứng ‘chủ – khách’.

“Buồn vì cảnh thảm đứng lặng giờ lâu

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”

Trương Hán Siêu [? -1354] quê ở huyện Yên Ninh, thành phố Ninh Bình ngày nay, là nhà văn hóa kiệt xuất thời Trung đại, nhà chính trị kiệt xuất thời Trần. Ông vốn là thượng khách của Trần Hưng Đạo, luôn giữ các chức vụ quan trọng trong thời vua Trần thứ 4. Ông cũng đóng góp rất nhiều trong các cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ lần thứ 2 và thứ 3. Hiện nay còn lưu giữ được 17 bài thơ và 2 tác phẩm văn xuôi. Trương Hán Siêu được các vua Trần hết sức tôn kính gọi là Thạc chứ không gọi bằng tên, khi mất được truy tặng là Thái bảo, Thái phó Văn miếu.

Phú sông Bạch Đằng là tác phẩm xuất sắc nhất trong sự nghiệp của Trương Hán Siêu, được coi là tác phẩm tinh hoa của văn học yêu nước thời Lý Trần, là đỉnh cao nghệ thuật của một thể loại trung đại phong phú. Tác phẩm này cũng được chọn là áng thiên cổ hùng văn trong lịch sử văn học Việt Nam. Không rõ năm xây dựng, nhưng một số nghiên cứu cho rằng, trụ được xây dựng khoảng 50 năm sau chiến thắng quân Mông – Nguyên của nhà Trần, bắt đầu có dấu hiệu suy tàn.

Trong bài, hình ảnh nhân vật “khách” xuất hiện đầu tiên với hai kiểu chuyến đi mang tính bước ngoặt. Đầu tiên là chuyến tham quan các địa danh nổi tiếng trong kinh điển Trung Hoa như Nguyên, Tượng, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hổ, Tam Ngô, Bạch Đằng. Việt Nam. Tất cả đều là những cảnh đẹp và rộng lớn của đất nước Trung Hoa, tác giả đã du ngoạn qua sách vở và trí tưởng tượng. Thứ hai, tác giả đã đi đến các địa danh của Việt Nam như Cửa Đại Thành, Bến tàu Đông Triều và sông Bạch Đằng, nơi bao la và tuyệt đẹp, đặc biệt là những địa danh đã từng đánh dấu sự ra đời của họ. trong lịch sử. Chúng hiện ra trước mắt Trương Hán Siêu với hai nét lớn. Đầu tiên là một vần thơ hùng vĩ “Sóng mênh mông ngàn dặm”, dưới con mắt của tác giả, sóng sông Bạch Đằng nối tiếp nhau trải dài đến tận chân trời. Từ “vô cùng” cùng với từ “vô cùng” dễ khiến người ta liên tưởng đến sự bao la, hùng vĩ của cảnh sông nước.

“Cái đuôi chim trĩ đẹp đơn sắc” gợi hình ảnh con thuyền xuôi ngược trên sông, gợi sự mênh mông của dòng sông Bạch Đằng vốn đã hùng vĩ nay lại mềm mại, thanh tao, thướt tha. Ngoài sự nên thơ và hùng vĩ, nhân vật ‘Khách’ cảm thấy lạnh lẽo, cô đơn không một bóng người, giống như hình ảnh ‘Bờ sậy san sát, bến tàu hiu quạnh’. Sông chìm gươm giáo gãy, gò đống xương khô.

Qua những chuyến du hành như thế này, nhân vật ‘khách’ là một nhân vật có dũng khí và tâm hồn thơ mộng. Sẵn sàng, say mê, tích cực, ‘dùng kiếm’ ung dung ở đây mà không có sự ràng buộc bên ngoài. Nhân vật “khách” có nhiều mục đích, trước hết là thưởng ngoạn cảnh sông núi tuyệt vời, sau đó là nghiên cứu cảnh sắc non nước để làm giàu thêm vốn kiến ​​thức mà “khách” học được. Theo nhà sử học nổi tiếng Trung Quốc Sama Chen. Có thể thấy hình tượng “khách” được tác giả xây dựng ở đầu bài là sự tái hiện của tác giả, trong bóng khách ta có thể thấy bóng dáng của Trương Hán Siêu.

Nhân vật “khách” đứng trước một thắng cảnh của Việt Nam mang nhiều tâm trạng, nhiều cảm xúc. Hơn hết là niềm vui trước vẻ đẹp của dòng sông hùng vĩ, thơ mộng và đó cũng là niềm tự hào không thể giấu được trước dòng sông đã lập nên chiến công hiển hách trong lịch sử dân tộc. Hơn nữa, người nghệ sĩ còn trực tiếp bộc lộ nỗi xót xa, tiếc nuối khi đứng trước chiến trường oanh liệt năm xưa giờ chỉ còn lại đất hoang và sự hiu quạnh khôn tả, người anh hùng biến mất chỉ còn lại dấu tích.

“Ta khách” trong “Bạch Đằng giang phú” là nhân vật trữ tình Trương Hán Siêu. Nhân vật “hiệp khách” trong Hiệp sĩ thời xưa không quá xa lạ. Truyện “Ngọc liên phú tỉnh” [truyện sen giếng ngọc] của Mạc Đĩnh Chi [? -1346] cũng có nhân vật là “khách”. … “Chúng ta có khách. Về nhà, giữa trưa hè nóng nực. Ao trong vắt, nhìn nước trong vắt, âm nhạc bao trùm cả Vịnh Phố Đông.” “Khách” ở đây là Mạc Đĩnh Chi, người thể hiện tấm lòng, chí khí, tài năng và khí phách cao cả của một bậc nho sĩ bao đời.

Chúng ta biết rằng Trương Hán Siêu là một danh sĩ thời Trần với tính cách lương thiện và tâm hồn tự do. Chín câu đầu cho thấy “khách” là người “chơi” với rượu và thơ dưới cánh buồm, làm bạn với trăng gió qua mọi miền sông biển. Hãy lên đường để sống với thiên nhiên và thăm thú mọi danh lam thắng cảnh gần xa. “Chơi hết mình với trăng” vào ban đêm, ban ngày:

“Gõ thuyền sớm đợi Nguyên Tường.

Chiều thăm Vũ Huyệt ”,…

Khách đã đi nhiều, biết nhiều. Những danh lam thắng cảnh như Nguyên Tượng, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,… đều nằm trong đất Trung Hoa rộng lớn, ở đây chỉ mang ý nghĩa tượng trưng thể hiện tính cách, tâm hồn. Yêu thiên nhiên say đắm. , hãy tự hào về thói quen “gypsy” của anh ấy và biến việc đi du lịch trở thành một thú vui trong cuộc sống.

“Mọi người đi đâu

Tôi không biết ở đâu ”.

Những nơi cổ kính không chỉ đẹp, chúng còn ám chỉ những khoảng đất rộng lớn, và chỉ những người có tham vọng và ‘kỹ thuật điêu luyện ở khắp mọi nơi’ mới có thể ‘chèo thuyền … lướt sóng’. Đầm Vân Mộng là tiêu biểu cho tất cả các thắng cảnh. Tuy nhiên, những “vị khách” đã đến thăm nhiều lần cho biết “tàu có hàng trăm người” và đã thưởng thức nhiều cảnh đẹp tương tự. Vẫn chưa bằng lòng, vẫn “liều mạng” vái tứ phương.

“Phá Vân Mộng có trăm cái trong bụng, nhiều lắm.

Nhưng bản lĩnh về mọi phía thì vẫn còn đó ”.

Phần đầu của bài viết đưa bạn đến với trái tim của học giả. Nhân hòa với thiên nhiên, lấy chữ nhàn làm trọng, gián tiếp phủ định những lợi ích, công danh tầm thường. “qua cổng Đại Than … ra sông Bạch Đằng”. Đoạn văn sau nói về niềm vui của nhà thơ khi được thăm sông Bạch Đằng. Trương Hán Siêu đi về phía đông bắc “bỏ chèo” để “học Tử Trường” và thỏa mãn “khẩu phục” theo di chúc cổ nhân. Người xưa nói: “Muốn tìm hiểu các vở tuồng của Sảm Tử Trường thì trước hết phải học các vở tuồng của Tử Trường”. Tử Trường tự là Tư Mã Thiên, tác giả của Bất Tử “Sử ký”, một nhà văn, nhà sử học tài ba thời nhà Hán. Người vẫn được coi là du khách độc nhất vô nhị xưa nay. Trương Hán Siêu theo sông núi với cánh buồm thơ mộng:

“Qua bến Đông qua cổng Đại Thần,

Về với sông Bakdang, mái chèo nổi “

“Sóng bát ngát ngàn dặm”.

Con sông lớn của đất mẹ Đại Việt, Bạch Đằng giang. Con sông rộng và dài, uốn lượn, nhấp nhô. Vào cuối mùa thu [Sam-Autumn], bầu trời có một màu xanh rộng lớn.

“Con thuyền sóng dài ngàn dặm.

– Đuôi hình trĩ đẹp một màu

– Trời: màu đặc

– Phong cảnh ba mùa thu ”.

Câu văn miêu tả mượn hình ảnh Vương Bột trong bài “Đằng Vương Các” “Thu thủy chung một sắc thiên” [Mùa thu sông trời một màu]. Vua Trần Minh Tông [1288-1356], người tả sóng Bạch Đằng, đã viết: vẫn còn sống Trời chưa khô ”[Bạch Đằng Giang – dịch]. Cảnh núi non và bãi biển được miêu tả làm sống lại sự khủng khiếp của những gì đã từng có trên chiến trường.

“Bờ biển gần lau sậy.

bến tàu buồn tẻ

Dòng sông làm dịu ngọn giáo gãy

Một gò đất đầy xương khô “

Những cánh đồng lau sậy và cầu tàu tạo nên một bầu không khí hoang dã. lặng lẽ. Núi, đồi, bãi như gươm giáo, xương máu kẻ thù phương bắc chất thành đống. Bức tranh hoành tráng ấy, một thế kỷ sau, Ức Trai cũng đã viết: “Cắt thủy tinh răng cưa diệu kỳ – thương chìm dao xẻ bãi” [“Cửa biển Bạch Đằng”].

Phân tích nhân vật khách trong Phú sông Bạch Đằng

[rule_3_plain]

Nhân vật Khách trong Phú sông Bạch Đằng cũng chính là đại diện cho Trương Hán Siêu. Những nỗi niềm mà nhân vật khách gửi gắm hay cũng chính là tiếng lòng của chính nhà thơ. Để nắm được ý nghĩa của hình tượng nhân vật khách này, Học247 xin giới thiệu đến các em tài liệu Phân tích nhân vật khách trong Phú sông Bạch Đằng dưới đây. Chúc các em sẽ có được những bài văn thật hay nhé! Ngoài ra, để làm phong phú thêm kiến thức cho bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài giảng Phú sông Bạch Đằng.

1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý

2. Dàn bài chi tiết

a. Mở bài:

– Giới thiệu về Trương Hán Siêu, tác phẩm Phú sông Bạch Đằng [hoàn cảnh ra đời của bài phú], giới thiệu về hình tượng nhân vật khách.

b. Thân bài:

– Hình tượng nhân vật khách: tư thế của một con người có tâm hồn khoáng đạt

+ Khách dạo chơi phong cảnh không chỉ để thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên mà còn nghiên cứu cảnh trí đất nước, bồi bổ tri thức.

+ Hoài bảo lớn lao: “Nơi có … chẳng biết”; “Đầm Vân Mộng chứa ……vẫn còn tha thiết”.

– Tráng chí của khách được gợi lên qua hai loại địa danh:

+ Địa danh trong điển cố Trung quốc: rong chơi bể lớn, Sông Nguyên, Tương, Vũ huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ,Tam Ngô, Bách Việt – những vùng đất nổi tiếng, khách đã đi qua bằng sách vở.

+ Địa danh thứ hai là những địa danh đất Việt, với không gian cụ thể: cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng là hình ảnh hiện tại mang tính đương đại hiện ra trước mắt

+ Cảnh sắc thiên nhiên hiện lên hùng vĩ hoành tráng “Bát ngát sóng kình muôn dặm – thướt tha đuôi trĩ một màu”.

+ Song cũng ảm đạm, hắt hiu “bờ lau san sát, bến lách đìu hiu – Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”.

=> Tâm hồn phong phú nhạy cảm, tâm trạng của khách vừa vui vừa tự hào trước cảnh sông hùng vĩ, thơ mộng “nước trời: một sắc , phong cảnh: ba thu”, tự hào trước dòng sông còn ghi bao chiến tích. Nhưng vừa buồn đau, tiếc nuối vì chiến trường xưa một thời oanh liệt nay trơ trọi, hoang vu, thời gian đã làm mờ bao dấu vết.

– Nghệ thuật: Lời văn linh hoạt, hình tượng nghệ thuật sinh động, vừa gợi hình sắc trực tiếp, vừa mang ý nghĩa khái quát, tính triết lý, ngôn từ trang trọng, hào hùng, vừa lắng đọng,gợi cảm.

c. Kết bài:

– Với hình tượng nhân vật khách, bài phú thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc, tự hào về truyền thống anh hùng và tư tưởng nhân văn cao đẹp. Sự hoài niệm về quá khứ là niềm tự hào về truyền thống dân tộc của tác giả.

3. Bài văn mẫu

Đề bài: Em hãy viết bài văn phân tích nhân vật Khách trong Phú sông Bạch Đằng.

GỢI Ý LÀM BÀI

3.1. Bài văn mẫu số 1

Người nghệ sĩ ra đi, nhưng tác phẩm anh để lại cho đời là bất tử. Và những tác phẩm lại sống trong lòng người đọc muôn thế hệ bằng những thông điệp nhân văn, bằng những hình tượng nghệ thuật giàu giá trị. Có thể nói, bài Phú Sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu đã xây dựng được một hình tượng nhân vật như thế trong dòng chảy lịch sử văn học Việt Nam. Hình tượng nhân vật khách.

Phú là một thể văn cổ, có những đặc điểm và quy phạm riêng, về mặt xây dựng nhân vật và hình tượng, thì trong bài phú nhân vật khách là một nhân vật được tác giả hư cấu, tưởng tượng, xây dựng theo hình thức đối đáp với một nhân vật nào đó [trong bài này là với các vị bô lão] Nhân vật khách trong bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu là hình tượng trung tâm của toàn bộ tác phẩm, mạch chảy mạch kết cấu của văn bản theo toàn bộ những dòng suy tưởng, đó là sự bộc bạch cái tráng chí bốn phương tha thiết và là nỗi niềm về cả một thời dĩ vãng oanh liệt của dân tộc năm xưa trên sông Bạch Đằng.

Mở đầu bài phú, nhân vật khách xuất hiện như một bậc tao nhân mặc khách với tráng chí bốn phương ngao du sơn thủy, lấp đầy tâm hồn mình bởi vẻ đẹp tráng lệ, hùng vĩ của thiên nhiên non sơn kỳ thú:

“Giương buồm giong gió chơi vơi,

Lướt bể chơi trăng mải miết.

Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,

Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt”

Các từ “chơi vơi”, “mải miết” tạo cho người đọc một cảm giác mới mẻ về nhân vật khách, một bậc tài tử lãng du cùng với thú vui sơn thủy, đắm chìm trong không gian rộng lớn, thơ mộng khoáng đạt. Thiên nhiên mây, gió, trăng bỗng trở thành người bạn của nhân vật khách với thú vui tao nhã. Cách liệt kê một loạt những địa điểm nổi tiếng cho thấy khả năng đi nhiều, biết nhiều và tráng chí bốn phương của nhân vật khách, gợi nên một tâm hồn phóng khoáng, thích ngao du và mang vẻ đẹp lộng gió như được hơi thở của thiên nhiên đằm vào điệu tâm hồn nhân vật.

Đoạn văn tiếp theo nói lên niềm vui thú của nhà thơ khi đến chơi sông Bạch Đằng. Trương Hán Siêu đã theo cái chí của người xưa “học Tử Trường” đi về phía Đông Bắc “buông chèo” cho thỏa chí “tiêu diêu”. Người xưa nói: “Muốn học cái văn của Tư Mã Tử Trường thì trước tiên phải học cái chơi của Tử Trường”. Tử Trường là Tư Mã Thiên, tác giả bộ “Sử ký” bất hủ, là nhà văn, nhà sử học tài ba đời Hán. Con người ấy vẫn được xem là nhà du lịch có một không hai thời xưa. Trương Hán Siêu với cánh buồm thơ lần theo sông núi:

“Qua cửa Đại than, ngược bến Đông triều,

Đến sông Bạch Đằng, bồng bềnh mái chèo

Bát ngát sóng kình muôn dặm”

Bạch Đằng giang, con sông oai hùng của Tổ Quốc Đại Việt. Sông rộng và dài, cuồn cuộn nhấp nhô sóng biếc.Cuối thu [ba thu] nước trời một màu xanh bao la “Bát ngát sóng kình muôn dặm – Thướt tha đuôi trĩ một màu- Nước trời: một sắc- Phong cảnh ba thu”.

Câu văn tả thực mượn một hình ảnh của Vương Bột trong bài “Đằng Vương các” “Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc” [Sông thu cùng với trời xa một màu]. Tả con sóng Bạch Đằng, vua Trần Minh Tông [1288-1356] viết: “Thuồng luồng nuốt thuỷ triều, cuộn làn sóng bạc… Trông thấy nước dòng sông rọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối- Lầm tưởng rằng máu người chết vẫn chưa khô” [Bạch Đằng giang – Dịch nghĩa]. Cảnh núi non, bờ bãi được miêu tả, đã tái hiện cảnh chiến trường rùng rợn một thời:

“Bờ lau san sát

Bến lách đìu hiu

Sông chìm giáo gãy

Gò đầy xương khô”

Bờ lau, bến lách gợi tả không khí hoang vu. hiu hắt. Núi gò, bờ bãi trập trùng như gươm giáo, xương cốt lũ giặc phương Bắc chất đống. Nét vẽ hoành tráng ấy, một thế kỷ sau Ức Trai cũng viết: “Ngạc chặt kình băm non lởm chởm – Giáo chìm gươm gãy bãi dăng dăng” [“Cửa Biển Bạch Đằng”].

Trương Hán Siêu miêu tả dòng sông Bạch Đằng bằng những đường nét, màu sắc gợi cảm. Những ẩn dụ và liên tưởng mới về dòng sông lịch sử hùng vĩ được miêu tả qua những cặp câu song quan và tứ tự tuyệt đẹp. Mấy chục năm sau trận đại thắng trên sông Bạch Đằng[1288] nhà thơ đến thăm dòng sông cảm thương xúc động:

“Buồn vì cảnh thảm

Đứng lặng giờ lâu

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”.

Một tâm trạng: “buồn, thương tiếc”, một cảm xúc “đứng lặng giờ lâu” của “khách” đều biểu lộ sự xúc động, lòng tiếc thương và biết ơn sâu sắc, vô hạn đối với anh hùng liệt sĩ đã đem xương máu bảo vệ dòng sông và sự tồn vong của dân tộc. Đó là tình nghĩa thuỷ chung “uống nước nhớ nguồn”

“Mà nhục quân thù khôn rửa nổi”

Các bô lão – nhân vật thứ hai xuất hiện trong bài phú. Từ miêu tả và trữ tình, nhà thơ chuyển sang tự sự, ngôn ngữ sống động biến hoá hẳn lên, Cảm hứng lịch sử mang âm điệu anh hùng ca dâng lên dào dạt như những lớp sóng trên sông Bạch Đằng vỗ. Khách và bô lão ngắm dòng sông, nhìn con sóng nhấp nhô như sống lại những năm tháng hào hùng oanh liệt của tổ tiên.

3.2. Bài văn mẫu số 2

Trương Hán Siêu là một người có tính tình cương trực, học vấn uyên tâm, được các vua Trần tin cậy và tin dùng. Ông là một trong những danh sĩ nổi tiếng nhất đời Trần, nhưng số lượng tác phẩm để lại không nhiều. Nổi bật nhất là Bạch Đằng giang phú, với hình tượng nhân vật “khách” để lại nhiều dư âm, ấn tượng trong lòng bạn đọc. Nhân vật “khách” có thú du ngoạn bốn phương, tâm hồn tự do, phóng khoáng :

Giương buồm giong gió chơi vơi

Lướt bể chơi trăng mải miết …

Các địa danh được liệt kê liên tiếp: Nguyên Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô,… đây đều là những địa danh của Trung Quốc, thắng cảnh đẹp đẽ mà ai cũng mong muốn, mơ ước được một lần đặt chân đến. Nhân vật “khách” mượn những địa danh này để nói lên niềm đam mê, sở thích du ngoạn bốn phương của mình. Cách ông dùng từ đối lập: sớm – tối đã thể hiện rõ sở thích ngao du thiên hạ của bản thân. Qua sở thích đó còn thể hiện khát vọng tìm đến những vùng đất mới để khám phá và tìm hiểu văn hóa, lịch sử. Mặc dù nhân vật khách đã được đi nhiều nơi nhưng Mà tráng trí bốn phương vẫn còn tha thiết. Đằng sau đó, ta còn thấy nguyện vọng, mong muốn thật sự của nhân vật “khách” khi đi du ngoạn non sông là muốn học theo Tử Trường ngao du mọi nơi để tìm hiểu về lịch sử dân tộc.

Dưới con mắt của nhân vật “khách” bức tranh Bạch Đằng hiện lên vô cùng sống động. Cảnh sông nước Bạch Đằng bao la, bát ngát, hùng vĩ với bầu trời xanh ngắt: Bát ngát sóng kình muôn dặm/ Thướt tha đuôi trĩ một màu/ Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu. Nhưng bên cạnh đó còn là bức tranh ảm đạm, thê lương, hiu hắt với dấu vết của chiến tích xưa còn để lại: Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu/ Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô. Hai bên bờ hun hút chỉ có bờ lau nối tiếp bến lách. Hai từ láy tăng nghĩa, bổ trợ cho nhau để làm rõ sự hoang vu, vắng vẻ của không gian. Nhìn sông mà khiến nhân vật khách liên tưởng đáy sông đầy vũ khí bỏ lại sau những trận chiến, nhìn gì mà liên tưởng tới nấm mồ của bao nhiêu người đã bỏ mạng ở nơi đây. Câu thơ gợi nhắc ta nhớ đến bài Bạch Đằng hải khẩu của Nguyễn Trãi :

Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc

Qua trầm tích chiến ngạn tằng tằng

Sự xuất hiện của “khách” trong Bạch Đằng giang phú gắn với hình ảnh thiên nhiên thể hiện tâm hồn lãng mạn và lòng yêu quê hương đất nước của nhân vật hay cũng chính là của Trương Hán Siêu. Ở phần tiếp của bài ca, nhà văn đã để nhân vật “khách” đối thoại với các bô lão xung quanh chủ đề: cuộc chiến đấu và chiến thắng của quân đội nhà Trần trước quân Nguyên Mông. “Khách” được các bô lão kể về chiến tích Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã. Sau lời kể về trận chiến là lời bình luận và suy ngẫm của các bô lão về chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Trong cuộc đối thoại, nhân vật “khách” đóng vai trò là người lắng nghe câu chuyện, đồng thời là người nói lời cuối cùng, kết lại lời kể và bình luận của các bô lão:

Anh minh hai vị thánh quân,

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.

Giặc tan muôn thuở thăng bình,

Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.

Có thể nói tư tưởng nhân văn của Trương Hán Siêu được thể hiện đậm nét trong những câu ca này và chính “khách” là người phát ngôn thay cho tác giả. Lời ca của “khách” khẳng định vai trò, vị trí quyết định của yếu tố con người trong công cuộc trùng hưng đất nước. Theo Trương Hán Siêu, thắng giặc không cốt ở đất hiểm mà chủ yếu là đức lớn, là sức mạnh của con người. Không có con người thì những yếu tố “thiên thời, địa lợi” cũng không giúp con người chiến thắng. Lời ca của nhân vật “khách”, thể hiện rõ sự tôn kính đối với hai vị vua triều Trần [Trần Nhân Tông và Trần Thánh Tông]. Ngợi ca công lao nghìn năm tiết rỡ của con người là cách Trương Hán Siêu thể hiện cảm hứng mang giá trị nhân văn có tầm triết lí sâu sắc.

Như vậy, nhân vật “khách” xuất hiện trong tác phẩm cùng với những ý nghĩa quan trọng. Đây chính là hình ảnh trữ tình của nhà văn Trương Hán Siêu. “Khách”vừa là hình tượng nhân vật trong bài phú, vừa thể hiện lòng yêu quê hương đất nước, niềm tự hào dân tộc cũng như tinh thần nhân văn cao cả. Từ nhân vật này, ta có thể hình dung một cách rõ ràng về nội dung tư tưởng của sáng tác và tấm lòng yêu nước của Trương Hán Siêu.

—–Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp—–

Phân tích đoạn 2 bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu

627

Thuyết minh đoạn 1 bài Phú sông Bạch Đằng

389

Phân tích cảm hứng yêu nước trong Phú sông Bạch Đằng

701

Thuyết minh về bài Phú sông Bạch Đằng

32505

Phân tích hình tượng nhân vật khách trong Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu

16994

Phân tích bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu

10770

[rule_2_plain]

#Phân #tích #nhân #vật #khách #trong #Phú #sông #Bạch #Đằng

  • #Phân #tích #nhân #vật #khách #trong #Phú #sông #Bạch #Đằng
  • Tổng hợp: Mobitool

Video liên quan

Chủ Đề