Liên hệ so sánh bài Vợ chồng A Phủ

Tư tưởng tác giả qua Vợ chồng A Phủ và Chí Phèo

Nam Cao và Tô Hoài là hai cây bút xuất sắc trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Nếu như Nam Cao đi vào khai thác đề tài người nông dân ở làng Đại Hoàng – quê hương của nhà văn, thì Tô Hoài lại rất thành công trong việc tìm đến người lao động miền núi Tây Bắc xa xôi để xây dựng nên những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc.

Văn chương là điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu”, Nam Cao và Tô Hoài đã có sự gặp gỡ, đồng điệu về tư tưởng, tình cảm. Đó chính là tiếng nói yêu thương sâu sắc của nhà văn dành cho nhân vật của mình.

So sánh kết thúc truyện Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ

  • Dàn ý so sánh kết thúc truyện Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
  • So sánh kết thúc truyện Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ

Dàn ý so sánh kết thúc truyện Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ

I. Mở bài : Đặt vấn đề

Nhà văn Nguyễn Minh Châu có lần nói đại ý rằng “Người cầm bút có biệt tài là có thể chọn trong cái dòng đời xuôi chảy một khoảnh khắc với một vài sự diễn biến sơ sài nhưng đó có khi lại là cái khoảnh khắc chứa cả một đời người, một đời nhân loại. Đúng như vậy, trong cái dòng đời xuôi chảy ấy các nhà văn sẽ tìm được một khoảnh khắc –một khoảnh khắc – một điểm sáng nghệ thuật có ý nghĩa làm nổi bật tính cách của nhân vật và góp phần quan trọng trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Kết truyện “Vợ chồng A Phủ” với hình ảnh Mị cứu A Phủ rồi “Hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi” và “Vợ nhặt” với hình ảnh “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” chính là điểm sáng ấy. Tuy nhiên mỗi nhà văn lại có những khám phá mới mẻ.

II. Thân bài: Giải quyết vấn đề

1, Khái quát chung về 2 tác giả và 2 tác phẩm

[Hs vận dụng kĩ năng làm đề so sánh].

- Khái quát chung về hai tác giả: Tô Hoài và Kim Lân đều là những tác giả tiêu biểu của văn xuôi thời kì kháng chiến chống Pháp. Tô Hoài có những trang văn viết chân thực với quan niệm “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”. Kim Lân lại có những trang việt chân thực về đời sống làng quê với những thú vui tao nhã của người nông dân quê mình mà ông gọi đó là “thú đồng quê” hay “phong lưu đồng ruộng”. Ông cũng viết chân thực về những người nông dân quê mình chất phác, hóm hỉnh mà rất tài hoa.

– Khái quát về hai tác phẩm: Cả hai tác phẩm đều viết về hình tượng người nông dân trong quá trình đến với cách mạng. Ở họ là một cuộc sống khó khăn bất hạnh nhưng vẫn sáng lên những phẩm chất cao đẹp và điều đặc biệt là họ đang trong quá trình đến với cách mạng.

– Viết về sự nhận thức về cách mạng của người nông dân cả hai tác phẩm đều mang đến cách kết truyện bằng hình ảnh rất ấn tượng mang lại ý nghĩa sâu sắc.

2. Phân tích chi tiết kết truyện của hai tác phẩm.

2.1. Chi tiết kết thúc truyện [đoạn trích] trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”

* Dẫn dắt cụ thể về hoàn cảnh ra đời và nội dung cơ bản.

- Hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm được in trong tập “Truyện Tây Bắc” [1953]. Năm 1952, Tô Hoài cùng với những chiến sĩ cách mạng lên miền núi Tây Bắc giúp người dân kháng chiến chống Pháp. Sau thời gian tám tháng gắn bó với cuộc sống của người dân vùng cao, ông đã am hiểu sâu sắc cuộc sống nơi đây. Điều đó đã khơi nguồn cảm hứng giúp ông viết cụ thể , chân thực về cuộc sống của họ.

- Nội dung chính: Tác phẩm là câu chuyện của những người dân vùng cao, họ không cam chịu sự đè nén, áp bức của bọn địa chủ phong kiến mà đã vùng lên đấu tranh để giành lấy quyền sống, quyền tự do.

* Dẫn dắt đến chi tiết:

Tác phẩm phản ánh cuộc sống của người nông dân miền núi qua nhân vật Mị và A Phủ. Mị là con dâu gạt nợ của nhà thống lí phải sống một thân phận nô lệ, bị đày đọa cả về thể xác và tinh thần. A Phủ vì đánh con quan nên bị bắt về nhà thống lí, bị đánh đập rồi phải trở thành người ở trừ nợ cho nhà thống lí. Hai thân phận nô lệ ấy đã gặp nhau và giải thoát cho nhau. Một đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, Mị trở dậy ngồi sưởi lửa hơ tay thì bắt gặp “Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Giọt nước mắt ấy đã tác động đến nhận thức và tình cảm của nhân vật Mị khiến cô đã có hành động táo bạo “Lấy con dao nhỏ cắt lúa cắt nút dây mây” giải thoát cho A Phủ. Sau đó Mị cũng chạy theo A Phủ bởi “Ở đây thì chết mất”. Rồi “Hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi”.

* Phân tích nội dung và ý nghĩa của chi tiết.

– Đây là chi tiết quan trọng trong tác phẩm bởi trước hết đã thể hiện cho tấm lòng đồng cảm của các nhân vật. Khi nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ, Mị đã nhớ lại tình cảnh của mình những lần trước Mị cũng bị trói ở đó “nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ mà không lau đi được”. Cô đồng cảm sâu sắc với A Phủ, đó là niềm đồng cảm của những con người cùng cảnh ngộ. Từ người khác, nghĩ đến hoàn cảnh của mình rồi từ lòng thương mình dẫn đến thương người để rồi cô có hành động táo bạo, quyết liệt ấy.

– Những chi tiết ấy đã thể hiện cho sức sống tiềm tàng mãnh liệt của con người ở đây là người nông dân miền núi dưới sự áp bức đè nén của bọn phong kiến chúa đất. Nếu như trước đây “Sống lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi”, Mị sống cũng như chết, cam chịu, Mị mất hết ý thức về quyền sống thì bây giờ giọt nước mắt của A Phủ đã làm cho sức sống của cô như được trỗi dậy. Hành động Mị cắt dây trói giải thoát cho A Phủ cũng là giải thoát cho chính mình có thể là hành động tự phát lúc bấy giờ bởi trong hoàn cảnh cụ thể, Mị nhận thấy không thể sống ở đây được. Rồi Mị sẽ phải trói vào cái cột kia cho đến chết. Nghĩ đến đó Mị rùng mình và khi cái chết đang gần kề trong con người ấy bỗng trỗi dậy niềm ham sống mãnh liệt. Nhưng xét đến cùng đó là hành động tự giác, ý thức vùng lên ấy đã được “chuẩn bị” tâm lí từ trước. Phải có sức sống của cô Mị trỗi dậy khi có ý định ăn lá ngón tự tử đặc biệt phải có sự vùng lên mạnh mẽ trong đêm tình mùa xuân thì bây giờ cô Mị mới có hành động táo bạo liều lĩnh như vậy. Hành động của Mị chính là kết quả tất yếu của cả một quá trình nhận thức.

– Hành động giải thoát của Mị và A Phủ thể hiện sự nhận thức sâu sắc của người nông dân về quyền sống, quyền tự do. Trước đây với Mị sống hay chết cũng như nhau bởi “Sống lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi”. Bây giờ Mị và A Phủ không mãi cam chịu thân phận nô lệ nữa, họ muốn một cuộc sống tự do, sống đúng nghĩa cuộc sống của một con người chứ không phải kiếp sống trâu ngựa trong nhà quan nữa. Mị sợ cái chết “ Ở đây thì chết mất”, sợ cái chết cũng là ý thức cao độ về quyền sống mà nhất là cuộc sống tự do. Với A Phủ cũng thế, lúc này khát khao tự do ở trong anh cũng trở nên mãnh liệt. Trước đây, A Phủ cũng đã có nhiều cơ hội để anh trốn thoát, khi anh rong ruổi một mình ngoài gò ngoài rừng để chăn bò, chăn ngựa. Nhưng cũng giống như Mị, khi đó anh sống trong sự cam chịu, nhẫn nhục. Còn bây giờ khi cái chết đang đến gần anh đã quật sức vùng lên chạy, A Phủ muốn giải thoát cuộc sống nô lệ để đến với tự do.

- Kết thúc truyện cũng thể hiện cho tinh thần đấu tranh của người dân chống lại bọn địa chủ phong kiến với quy luật có áp bức thì có đấu tranh. Bọn địa chủ phong kiến với bao chính sách tàn bạo với chế độ cho vay nặng lãi, tục cướp dâu đã biến Mị trở thành con dâu gạt nợ. Với cường quyền của chúng cũng biến A Phủ thành kiếp tôi đòi. Lúc này người nông dân không còn chịu dưới những luật lệ hà khắc. Họ nhận thấy rõ tội ác của bọn địa chủ phong kiến. Mị nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Điều này không phải là điều dễ dàng với người nông dân lúc bấy giờ bởi đã từ lâu lắm cô Mị chẳng còn ý thức chỉ suốt ngày “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, chỉ làm bạn với căn buồng kín mít lúc nào nhìn ra cũng chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng, rồi cứ ở đó mà nhìn ra đến bao giờ chết thì thôi. Nhưng hôm nay cô Mị thấy mình và A Phủ cùng bao nhiêu nông dân thật đáng thương và bọn địa chủ phong kiến và bọn địa chủ phong kiến kia thật tàn bạo. Suy nghĩ “chúng nó thật độc ác” như một lời kết tội của những người nông dân dành cho kẻ thù. Chính vì vậy họ không thể cam chịu mà phải trốn thoát khỏi nơi áp bức cường quyền ấy.

- Chính điều đó hướng tới hành động quyết liệt hướng tới tự do. Đó là tiền đề để Mị và A Phủ đến với cách mạng. Như vậy cuộc sống của người nông dân không còn là những ngày khổ đau, tăm tối. Cách mạng là yếu tố quan trọng để họ được đổi đời.

- Viết về sự giải thoát của Mị và A Phủ, nhà văn Tô Hoài cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc.

Bằng tấm lòng yêu thương của nhà văn với người nông dân ông đã không để cho nhân vật của mình phải cam chịu trong vòng nô lệ mà mở ra cho họ một hướng giải thoát. Ý thức vê quyền sống, quyền tự do đã giúp họ nhận thức về cuộc sống và họ đã tự vùng dậy để giải thoát cho chính mình.

* Đánh giá:

– Hành động Mị và A Phủ giải thoát và cùng nhau trốn khỏi Hồng Ngài là chi tiết đặc biệt quan trọng thể hiện cho sức sống mạnh mẽ của nhân vật. Đồng thời là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của nhân vật góp phần quan trọng trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Nếu không có chi tiết ấy thì cuộc đời của Mị và A Phủ vẫn trong tăm tối của kiếp sống nô lệ, cuộc sống của người nông dân vẫn mãi cam chịu và sáng tác của Tô Hoài vẫn là sự bế tắc. Chính ánh sáng của cách mạng đã giúp nhà văn hướng cho nhân vật của mình đến một hướng giải thoát.

– Hành động đó cũng thể hiện rõ cho phong cách của nhà văn Tô Hoài. Ông có vốn am hiểu phong phú sâu sắc về đời sống của những người nông dân vùng cao và viết chân thực về cuộc đời của họ. Không khí của cuộc cách mạng trên mảnh đất Tây Bắc đã khiến nhà văn phản ánh được sức sống mãnh liệt của họ.

2.2. Chi tiết kết thúc truyện trong tác phẩm “Vợ nhặt”.

* Dẫn dắt cụ thể về hoàn cảnh ra đời và nội dung cơ bản.

– Hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được viết ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công nhưng còn dang dở và bị mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc [1954], Kim Lân dựa vào một phần của cốt truyện cũ để viết tác phẩm “Vợ nhặt”. Tác phẩm được đưa vào tập “Con chó xấu xí” [Xuất bản 1962].

- Nội dung chính: Tác phẩm phản ánh chân thực cuộc sống của người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ trong nạn đói kinh hoàng năm 1945. Nhưng trong hoàn cảnh đó người nông dân vẫn đùm bọc yêu thương, vẫn khao khát mái ấm gia đình và luôn có một niềm hi vọng vào tương lai.

- Dẫn dắt đến chi tiết: Truyện viết về cuộc sống của những người dân ở xóm ngụ cư trong nạn đói mà tiêu biểu là cuộc sống của gia đình Tràng. Vì cái đói cái nghèo nên Tràng không thể có một đám cưới đàng hoàng và bữa cơm đón nàng dâu mới của nhà Tràng cũng rất thảm hại “Giữa cái mẹt rách chỉ có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo”. Trong bữa ăn họ nghe thấy tiếng trống thúc thuế, qua lời của người vợ, Tràng đã nhớ lại có lần mình gặp Việt Minh và “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”,

Phân tích ý nghĩa của chi tiết

- Hình ảnh lá cờ ở cuối tác phẩm mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Kết thúc ấy có cơ sở từ thực tiễn đời sống. Câu chuyện có bối cảnh là nạn đói năm 1945- một thời điểm lịch sử có thật trong đất nước ta vào những năm tháng chuẩn bị cho cuộc cách mạng và đó là những ngày tiền khởi nghĩa với phong trào phá kho thóc Nhật chia cho dân nghèo. Vậy nên trong hoàn cảnh đói khát cùng cực ấy người nông dân nhận ra kẻ thù gây đau khổ cho mình là bọn Pháp và Nhật. Thực dân Pháp thi hành những “luật pháp dã man’, vơ vét của cải còn phát xít Nhật thì bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay, trồng thầu dầu rồi cùng với thiên tai, lũ lụt…Tất cả đều là căn nguyên dẫn đến thảm cảnh nạn đói năm 1945. Những người dân sống trong hoàn cảnh đó họ sẽ ý thức được mình phải đứng lên đấu tranh tìm con đường cho mình. Họ sẽ tìm đến với cách mạng như một điều tất yếu.

+ Truyện kết thúc nhưng đã mở ra cho người đọc nhiều suy ngẫm. Truyện không nói cụ thể rõ ràng là cuộc sống của Tràng, bà cụ Tứ, người vợ nhặt sẽ đi đến đâu, cuộc sống của họ tiếp theo sẽ như thế nào để gượng ép trói buộc suy nghĩ của bạn đọc thiên về một hướng và nhiều khi chỉ suy nghĩ theo chiều hướng ấy. Và thật khéo léo khi Kim Lân để “lửng”. Kết thúc “lửng” ấy chứa đựng bao suy nghĩ của tác giả. Phải chăng nhà văn Kim Lân đang thầm kín bày tỏ sự trân trọng với cách tiếp cận, nhận thức của độc giả đồng thời cũng hướng họ rằng nên phải suy nghĩ, chiêm nghiệm để viết tiếp câu chuyện ấy với sự phù hợp và đúng đắn nhất theo quan điểm nhận thức của mỗi người. Việc tạo ra kết thúc mở cũng khơi sâu sự tìm tòi khám phá một góc độ của cuộc sống, của xã hội thay vì chỉ là đọc trên giấy và hiểu tác phẩm một cách đơn thuần. Rõ ràng với ánh sáng “le lói ở cuối đường hầm” kia người đọc có quyền hiểu và ngẫm theo nhiều cách. Theo quan điểm của bản thân có thể suy ngẫm Tràng sẽ được theo cách mạng, theo ánh sáng của Đảng cùng với quần chúng khởi nghĩa và rồi cuộc sống của anh và gia đình cùng những người nông dân Việt Nam sẽ ấm no hơn, hạnh phúc hơn khi cách mạng giành thắng lợi.

+ Kết truyện của Kim Lân đã mở ra một tương lai tươi sáng cho người dân. Không giống như văn học hiện thực phê phán trước cách mạng. Trước đây, nhà văn Nam Cao đã để cho nhân vật Chí Phèo cảm nhận hương vị của cuộc sống, để cho hắn cảm nhận tình yêu thương…nhưng rồi Chí Phèo lại rơi vào bi kịch bế tắc. Nhà văn Ngô Tất Tố cũng để nhân vật của mình- Chị Dậu vùng lên chống lại ách áp bức của bọn địa chủ nhưng rồi cuối cùng trước mắt chị là “trời tối đen như mực giống như cái tiền đồ của chị”. Họ đều rơi vào luẩn quẩn, bế tắc không lối thoát. Ở “Vợ nhặt”, Kim Lân đã để cho những người nông dân hướng về tương lai. Liệu tác phẩm có thể kết thúc trong cảnh “bữa cơm ngày đói” với khung cảnh trông thật thảm hại “Giữa cái mẹt rách chỉ có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo” và “không ai nói câu gì. Họ cắm đầu ăn cho xong lần. Họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mỗi người”. Nếu kết thúc như thế thì cái đói, cái nghèo vẫn bao trùm, cuộc sống của nhân dân vẫn rơi vào bế tắc. Nhưng Kim Lân không dừng lại ở đó. Ông đã hướng họ vào ánh sáng của tương lai, của cách mạng “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”,”. Thật là ông đã để những con người trong hoàn cảnh khốn cùng cận kề cái chết nhưng họ không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng đến sự sống, vẫn hi vọng tin tưởng ở tương lai. Những người đói ấy vẫn khao khát về cuộc sống ấm no, đầy đủ hơn. Nhà văn đã để người dân nhận thức đúng về cách mạng khơi lên tinh thần đấu tranh. Thực tiễn lịch sử cách mạng Tháng tám 1945 đã thắng lợi thì con người và đặc biệt là người nông dân càng có thêm động lực niềm tin vào tương lai tươi sáng ấm no. Thật là một cách kết truyện sáng mở ra cuộc sống tươi sáng cho con người.

+ Cách kết truyện của Kim Lân cũng mang lại giá trị nhân đạo sâu sắc. Nhà văn luôn cảm nhận được ở những người nông dân dù cận kề cái chết nhưng họ luôn nghĩ đến sự sống từ đó mà mở ra cho họ một con đường đi đến tương lai.

3. Nhận xét những điểm chung và riêng:

- Những điểm chung:

+ Cả hai cách kết truyện đều mở ra một tươi lai tươi sáng cho người nông dân. Đều hướng họ đến với ánh sáng cách mạng.

+ Các chi tiết ấy đều được viết bằng bút pháp lãng mạn cách mạng.

Có điểm chung ấy là bởi cả Kim Lân và Tô Hoài đều là những nhà văn cách mạng. Họ được lí tưởng cách mạng soi sáng nên nhìn cuộc sống bằng cái nhìn lạc quan nên họ đã nhìn thấy sức mạnh của người nông dân trong hoàn cảnh khó khăn. Tô Hoài và Kim Lân đều nhìn thấy ánh sáng của cách mạng với người nông dân. Hai nhà văn đã khẳng định chỉ có ánh sáng của cách mạng mới giúp người dân thoát khỏi cuộc sống tăm tối khổ đau.

- Những điểm riêng:

+ Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” từ sức sống tiềm tàng của bản thân họ đã tự giải thoát cho mình.

+ Tác phẩm “Vợ nhặt”, trong cuộc sống nghèo đói bởi tội ác của bọn thực dân và phái xít, họ đã nhìn thấy con đường để thoát khỏi cuộc sống đói khát cùng cực ấy.

Có nét khác nhau ấy là bởi mỗi tác phẩm gắn với mỗi hoàn cảnh cụ thể khác nhau. Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” viết về người nông dân miền núi bị áp bức bởi bọn địa chủ phong kiến miền núi, họ bị mất tự do và họ đã vùng lên giải thoát cho mình để tìm đến tự do. Còn “Vợ nhặt” viết về nạn đói do những chính sách tàn bạo của bọn thực dân pháp và phát xít Nhật nên Kim Lân đã cho họ nhìn thấy con đường để thoát khỏi tình cảnh đói nghèo ấy.

III. Kết bài :

- Đánh giá chung về hai chi tiết

I. Dàn ý từ truyện ngắn Vợ chồng A Phủ liên hệ với tác phẩm Hai đứa trẻ

1. Mở bài

· Giới thiệu về tác giả Tô Hoài: Một trong số những nhà văn lớn, có nhiều đóng góp cho nền văn học Việt Nam hiện đại với một phong cách nghệ thuật rất riêng, độc đáo và hấp dẫn
· Giới thiệu về truyện ngắn Vợ chồng A Phủ: Là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của ông
· Giới thiệu vấn đề nghị luận

2. Thân bài

a] Cảm nhận về nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ
· Khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứng, Mị vẫn "thản nhiên ngồi sưởi lửa"
· Khi nhìn thấy "dòng nước mắt bò xuống hai hõm má xám đen của A phủ" Mị đã hoàn toàn thay đổi
· Mị thấy "chúng nó thật ác".
· Mị nảy ra ý định cứu A Phủ, nhưng lại sợ "Mị nhớ lại đời mình, Mị lại tưởng tượng như có thể đến một lúc nào, biết đâu A Sử chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy, bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liến phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy...[Còn tiếp].

>>Dàn ý Từ truyện ngắn Vợ chồng A Phủ liên hệ với tác phẩm Hai đứa trẻ đầy đủ.

Dàn ý các đề văn liên hệ nhân vật Mị [Vợ chồng A Phủ] và Liên [Hai đứa trẻ]

[Văn mẫu 12] Lập dàn ý chi tiết phân tích tâm trạng, sức sống tiềm tàng của Mị liên hệ với nhân vật Liên trong cảnh chờ chuyến tàu đêm [Hai đứa trẻ, Thạch Lam].
Mục lục nội dung
  • 1. Những dàn ý chi tiết
Mục lục bài viết

Dàn ý liên hệ hai nhân vật Mịvà Liên - Tổng hợp những dàn ý hay cho các đề văn so sánh, liên hệ giữa nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ và Liên trong Hai đứa trẻ.

Đề bài:Một số dạng đề so sánh, liên hệ nhân vật Mị và Liên

-Cảm nhận sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. Từ đó, liên hệ nhận vật Liên trong cảnh chờ chuyến tàu đêm [Truyện Hai đứa trẻ, Thạch Lam, Ngữ văn 11] để bình luận về vẻ đẹp khát vọng sống của con người.

-Phân tích diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân và liên hệ cảnh đợi tàu của chị em Liên.

- Cảm nhận của anh/ chị về niềm khao khát muốn đi chơi của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân [Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài]. Từ đó, liên hệ với niềm mong đợi chuyến tàu đêm đi qua phố huyện của chị em Liên, An [Hai đứa trẻ - Thạch Lam] và nhận xét quan niệm của mỗi nhà văn về cuộc sống có ý nghĩa.

- Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ [Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài, Ngữ văn 12 – Tập 2, NXB GD Việt Nam 2016]. Từ đó, liên hệ với tâm trạng của hai chị em Liên trong cảnh đợi tàu [Hai đứa trẻ – Thạch Lam, Ngữ văn 11 tập 1, NXB GD Việt Nam 2016] để nhận xét về cách nhìn và tình cảm của nhà văn đối với người lao động trong xã hội cũ.

***

Những dàn ý chi tiết cho các đề văn liên hệ nhân vật Mị [Vợ chồng A Phủ] và Liên [Hai đứa trẻ]

Dàn ý1:Cảm nhận sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị liên hệ với nhân vật Liên trong cảnh chờ chuyến tàu đêm

I. Mở bài:

- Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm

+ Tô Hoài là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam đương đại. “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của ông, được viết sau chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1953.

+ Tác phẩm là bức tranh bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của bọn phong kiến, thực dân và là bài ca về phẩm chất, vẻ đẹp, về sức sống mãnh liệt của người lao động.

- Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích diễn tả tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tối khi bị A Sử trói không cho đi chơi xuân. Cũng như Mị, nhân vật Liên trong đêm đợi tàu đã thể hiện khát vọng sống cao cả của con người

II. Thân bài

1. Cảm nhận sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đêm tối khi bị trói

* Về nội dung:

– Sơ lược về cảnh ngộ của Mị trước khi bị trói trong đêm tình mùa xuân:

+ Mị là mộtcô gái trẻ đẹp, yêu đời, chăm chỉ lao động, nhà nghèo và rất hiếu thảo;

– Do món nợ truyền kiếp của cha mẹ, Mị phải làm dâu gạt nợ cho thống lí Pá Tra, sống cuộc đời trâu ngựa khổ đau;

+ Nhưng tận đáy sâu tâm hồn câm lặng ấy vẫn le lói tia lửa sống, chỉ chờ dịp là bùng lên mạnh mẽ. Dịp ấy đã đến trong mộtđêm tình mùa xuân phơi phới mà tiếng sáo gọi bạn đầu làng đã làm xao động lòng người phụ nữ trẻ;

+ Khi mùa xuân về, như quy luật vạn vật hồi sinh, sức trẻ trong Mị bừng trỗi dậy. Mị khêu đèn lên cho bừng sáng căn buồng của mình, lén lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát. Mị bồi hồi nghe tiếng sáo, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.

+Trông thấy Mị, A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói Mị đứng vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa…

– Diễn tả tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tối khi bị A Sử trói không cho đi chơi xuân:

+ Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói.

+ Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi… Mị vùng bước đi. ”Như không đang biết mình đang sợ bị trói… Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi”, quên mọi đau đớn về thể xác, “Mị đã vùng dậy bước đi”. Điều đó chứng tỏ sức sống tiềm ẩn trong con người Mị mãnh liệt biết nhường nào…

+ Nhưng tay chân đau không cử động được. Khi ấy, Mị mới biết mình đang bị trói, đang ở trong căn nhà tù ngục này. Lòng Mị đau đớn, thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.

+ Cả đêm Mị lúc mê lúc tỉnh.

+ Bị trói đứng suốt đêm, Mị bàng hoàng tỉnh giấc

+ Mị thấy thương cho những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan

+ Mị nhớ đến người đàn bà bị trói đến chết trong nhà thống lí. Mị sợ chết. Chính bóng ma thần chết ở ngôi nhà thống lí đã làm Mị sợ. Đồng thời, Mị nhận ra một điều chết lúc này là oan uổng. Tiếng sáo, khát vọng tự do đã làm cho Mị khao khát sống;

+ Mị sợ hãi cựa quậy khi xem mình còn sống không thì sợi dây đay đã siết vào da thịt Mị. Đau đớn đến tận cùng…

* Về nghệ thuật:

- Bút pháp miêu tả tâm lí sắc sảo, tinh tế

- Cách dẫn dắt tình tiết khéo léo, tự nhiên

- Giọng trần thuật của tác giả hòa vào những độc thoại nội tâm của nhân vật tạo nên ngôn ngữ nửa trực tiếp đặc sắc.

- Ngôn ngữ kể truyện tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi.

Tham khảo thêm:Dàn ý phân tích sức sống tiềm tàng của Mị trong Vợ chồng A Phủ

2. Liên hệ nhận vật Liên trong cảnh chờ chuyến tàu đêm

– Về nhận vật Liên trong cảnh chờ chuyến tàu đêm:

+ Thạch Lam là cây bút viết truyện ngắn xuất sắc. Truyện của ông thường không có cốt truyện như một bài thơ đượm buồn. Tác phẩm “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn”[1938]. Truyện đã miêu tả diễn biến nội tâm của hai đứa trẻ trước chiều muộn về đêm. Qua cảm xúc, tâm trạng của Liên và An, tác giả đã thể hiện được bức tranh nơi phố huyện nghèo, niềm hy vọng mỏng manh mơ hồ của những con người nơi phố huyện. Trong đó, nhân vật Liên khi đợi tàu về đêm đã thể hiện được khát vọng sống của con người.

+ Tương tự như Mị, nhân vật Liên là một cô bé sống trong đói khổ nhưng vẫn có một tâm hồn hướng tới cuộc sống tơi đẹp hơn.

+ Nếu như tâm hồn Mị theo tiếng sáo gọi bạn tình thì tâm hồn của Liên cũng luôn khao khát, hướng về ánh sáng. Trong màn đêm, Liên luôn tìm một ánh sáng từ một nơi xa. Liên cố thức đợi chuyến tàu không phải để bán hàng mà là để được nhìn thấy một cuộc sống náo động, một nguồn sáng rực rỡ của con tàu như mang đến một cuộc sống khác, một thế giới khác.

– Bình luận về vẻ đẹp khát vọng sống của con người:

+ Hai nhân vật Liên và Mị đã khiến cho người đọc cảm nhận được vẻ đẹp khát vọng sống của con người. Tâm hồn của họ luôn hướng về ánh sáng, về âm thanh cuộc sống cũng chính là niềm khao khát được sống, được yêu thương và hạnh phúc. Họ đều hi vọng thoát khỏi hiện thực tối tăm. Nhưng cuối cùng, cuộc đời Liên vẫn mãi chìm trong “bóng tối”, còn Mị đã được đổi đời nhờ có tinh thần đấu tranh từ tự phát đến tự giác;

+ Qua khát vọng sống của 2 nhân vật, ta thấy được tấm lòng nhân đạo của nhà văn Thạch Lam và Tô Hoài. Các nhà văn có cùng niềm cảm thông với nỗi khổ của những người phụ nữ bất hạnh dưới chế độ thực dân phong kiến; ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người dân; đặc biệt ca ngợi khát vọng sống cao đẹp của họ. Đó cũng chính là niềm tin vào con người của các tác giả văn xuôi hiện đại Việt Nam.

III. Kết bài:

- Kết luận về nội dung, nghệ thuật nhân vật Mị qua đoạn trích:Cảm nghĩ của bản thân về khát vọng sống của nhân vật Mị và Liên.

Dàn ý 2:Phân tích diễn biến tâm trạng Mị vàliên hệ cảnh đợi tàu của chị em Liên.

I. Mở bài:

– Giới thiệu ngắn gọn Tô Hoài

Vợ chồng A Phủ là kết quả chuyến đi thực tế Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài

– Nhân vật Mị được tập trung khắc họa với sức sống tiềm tàng, sự vận động đi từ bóng tối ra ánh sáng đặc biệt là diễn biến tâm trạng trong đêm tình mùa xuân.

II. Thân bài:

* Tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân.

– Diễn biến tâm trạng:

+ Mị vốn là một cô gái trẻ trung, chăm chỉ, thổi sáo giỏi, hiếu thảo nhưng vì bị bắt làm con dâu gạt nợ cho nhà Thống Lí mà cuộc đời Mị chỉ còn lại những chuỗi ngày buồn khổ, tủi nhục, lầm lũi. Đã từ lâu tâm hồn Mị đã chết theo những công việc tẻ nhạt quanh năm suốt tháng của kiếp ngựa trâu. Tuy nhiên tâm hồn Mị chỉ tam nguội lạnh, chỉ cần một động lực thôi thúc là nó sẽ hồi sinh.

+ Những yếu tố tác động của ngoại cảnh: Thời gian: mùa xuân – mùa tươi đẹp của Hồng Ngài. Trên núi, trên nương, ngoài sân…dấu hiệu của mùa xuân khắp mọi nơi. “Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa”, “những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá”…Đặc biệt nhất là tiếng sáo – âm thanh của cuộc sống tự do đã đánh thức tâm hồn Mị “Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”.

+ Nhân tố quan trọng: Rượu – rượu khiến Mị tìm lại chính mình của những ngày đã mất. Mị thấy mình còn trẻ, Mị tìm thấy niềm vui sau bao ngày đã mất. Hơi rượu khiến thính giác Mị nhạy hơn để Mị nghe tiếng sáo văng vẳng bên tai, Mị cũng uốn chiếc lá trên môi và thổi lá.

– Sự đối lập giữa thế giới đã mất và cuộc sống thực tại: Càng sống lại với tuổi trẻ đã mất và những ngày tháng tự do bao nhiêu thị Mị lại càng thấy tủi nhục cho cuộc sống hiện tại làm trâu ngựa cho nhà Thống Lí. Vì thế mà Mị nghĩ đến cái chết khi chẳng còn cách nào khác thoát khỏi sự bó buộc. Mị ước có nắm lá ngón để ăn chứ không buồn nhớ đến nữa vì “nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra”.

– Xuất phát từ ý thức trỗi dậy, Mị đã có những hành động quyết liệt: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng…Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở trong vách… Mị rút thêm cái áo”

– Ý định giải thoát bị ngăn cản, sức sống vừa trỗi dậy bị đạp đổ: A Sử phát hiện ra ý định của Mị nên hắn trói Mị vào cột nhà suốt đêm. “Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”…Mị bị cầm tù thể xác nhưng tâm hồn đã thật sự tự do. Sự hồi sinh của Mị còn biểu hiện rõ ràng ở nỗi đau “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.

– Ý thức về nỗi khổ của thân phận và nỗi sợ cái chết: Lúc Mị bàng hoàng tỉnh và vẫn bị trói đứng, Mị đã nghĩ về thân phận người đàn bà có chồng trong gia đình này, nghĩ đến câu chuyện có người vợ bị trói chết ngay trên chiếc cột. Mị sợ chết “Mị cựa quậy, xem mình còn sống hay chết” đó là dấu hiệu cho biết Mị còn ham sống.

* Đánh giá chung:

- Cuộc trỗi dậy lần thứ nhất trong đêm tình mùa xuân của Mị không thành và sau đó Mị lại tiếp tục sống kiếp tù đày trong một thời gian dài nữa nhưng nó cũng đủ nhận ra Mị còn khao khát sống. Nó sẽ tạo ra những cơn sóng ngầm tuôn trào thành những đợt sóng tiếp theo dữ dội hơn, bằng chứng là hành động cắt dây trói cho A Phủ sau này.

– Nghệ thuật: không quá nhiều sự kiện nhưng Tô Hoài đưa người đọc vào vòng tâm trạng đầy uẩn khúc, lúc mơ hồ, u ám lúc quyết liệt của Mị. Đó là thành công đặc sắc trong việc miêu tả tâm lí nhân vật.

  • Phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuânđể thấy rõ sự khác biệt khi so sánh với các tác phẩm khác.

* Liên hệ tâm trạng của Liên khi đợi tàu

– Nguyên nhân Liên đợi tàu: Chị em Liên có một gian hàng tạp hóa nhỏ buôn bán trong những ngày tháng khó khăn. Tuy nhiên Liên đợi tàu không phải để bán được hàng mà đợi để muốn nhìn thấy hoạt động cuối cùng của một ngày. Nó xuất phát từ sự khát khao nhìn thấy ánh sáng tương lai của hai chị em.

– Cảnh đợi tàu: An và Liên đã buồn ngủ ríu cả mắt. Tuy vậy hai chị em vẫn gượng để thức khuya chút nữa”, “An đã nằm xuống gối đầu lên đùi chị, mi mắt sắp sửa rơi xuống, còn dặn với: Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé.” => Liên và An đợi tàu trong tất cả sự kì vọng có sự háo hức của tuổi thơ và cả niềm mong mỏi của người lớn.

– Ý nghĩa của chuyến tàu đêm:

+ Chuyến tàu nhắc hai chị em nhớ về một quãng thời gian đã mất, một quãng thời gian còn sung túc bên cha mẹ ở Hà thành “được thưởng thức những món quà ngon lạ”, Liên nhớ về nơi ấy với sự rực rỡ, huyên náo.

+ Đoàn tàu mang đến ánh sáng kì diệu của ngày mai, nó chứa đựng mong muốn và khát vọng được đổi đời, được sống sung túc hơn. “Chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.

=> Thạch Lam đã thể hiện niềm trân trọng, thương xót đối với những kiếp người nhỏ bé nghèo nàn tăm tối và buồn chán nơi phố huyện.

* So sánh:

Điểm gặp gỡ về tư tưởng nhân đạo của hai tác giả:

- Cả hai nhà văn đều thể hiện tấm lòng xót thương, đồng cảm với những con người nhỏ bé, bất hạnh, phải chịu nhiều thiệt thòi, đau khổ.

- Cả hai nhà văn đều phát hiện và nâng niu, trân trọng vẻ đẹp ở những con người bất hạnh, đáng thương: sức sống tiềm tàng mãnh liệt, ước mơ, khao khát thay đổi cuộc sống…

- Tố cáo tội ác của các thế lực thống trị.

III. Kết bài:

- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của hai tác phẩm và đánh giá về vị trí của hai tác phẩm trong nền văn học Việt Nam.

Dàn ý3:Niềm khao khát muốn đi chơi của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân liên hệ vớiniềm mong đợi chuyến tàu đêm đi qua phố huyện của chị em Liên

I. Mở bài:

- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.

- Cảm nhận về niềm khao khát muốn đi chơi của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân

II. Thân bài

– Giới thiệu sơ lược về đặc điểm con người và số phận đau khổ của Mị trong nhà Pá Tra.

– Vài nét về bối cảnh nhân văn của thiên nhiên và cuộc sống, sinh hoạt ở Hồng Ngài trong mùa xuân.

– Diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị: nhẩm thầm bài hát – uống rượu và say – sống dậy những ngày quá khứ tươi đẹp và thức tỉnh tình cảnh thê thảm ở thực tại – muốn chết và muốn đi chơi.

– Niềm khao khát được đi chơi là biểu hiện cho sức sống, khao khát tự do, ý thức làm người bấy lâu bị tê liệt nay đã hồi sinh ở Mị.

* Liên hệ với niềm mong đợi chuyến tàu đêm đi qua phố huyện của chị em Liên, An

– Hai chị em Liên An từng có những ngày tuổi thơ tươi đẹp ở Hà Nội, nay vì gia cảnh sa sút mà phải sống buồn lặng, tăm tối ở phố huyện nghèo. Mỗi ngày, hai chị em chỉ có một niềm vui duy nhất: ngắm nhìn chuyến tàu đêm từ Hà Nội qua phố huyện.

– Điểm giống nhau: Các nhân vật đều khao khát thoát khỏi thực tại buồn chán, tăm tối trói buộc sự sống; đều khao khát được đổi thay, được sống có ý nghĩa hơn.

– Điểm khác nhau:

+ Chị em Liên, An là những đứa trẻ, niềm mong ước đổi thay còn nhỏ bé, mơ hồ, mong manh.

+ Niềm khao khát được đi chơi ở Mị chuyển hóa thành những hành động cụ thể; dù không thành nhưng là bước đột phá trong sự vận động tâm lí nhân vật, tạo chuyển biến cho hành động trốn khỏi nhà Pá Tra ở đêm mùa đông năm sau.

* Nhận xét quan niệm của mỗi nhà văn về cuộc sống có ý nghĩa.

– Với Thạch Lam: Viết về đề tài thị dân nghèo, quan tâm đến mảnh đời nhỏ bé, thương xót cho những kiếp người vô danh nhất là những em bé nên ao ước cuộc sống tốt đẹp, tươi sáng hơn. Nhưng nhà văn lãng mạn – dù có cái nhìn gắn với thực tại đời sống – chưa tìm được lối thoát cho nhân vật.

– Với Tô Hoài: Viết về đề tài cuộc sống của người lao động trong xã hội cũ nhưng có cách nhìn, cách lí giải mới gắn với đổi thay trong tư tưởng của nhà văn, vì thế, cuộc sống có ý nghĩa là cuộc sống được tự do, được sống trong niềm vui sống của tuổi trẻ.

III. Kết bài: Đánh giá chung

– Về nhân vật Mị

– Về giá trị nhân đạo của hai tác phẩm.

Dàn ý4:Cảm nhận về nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ liên hệ với tâm trạng của hai chị em Liên trong cảnh đợi tàu

I. Mở bài:

- Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm, đoạn trích.

II. Thân bài

1. Cảm nhận nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ

– Nội dung:

+ Lúc đầu: Khi nhìn thấy A Phủ bị trói Mị vẫn thờ ơ, lạnh lùng, vô cảm, vẫn “thản nhiên thổi lửa, hơ tay” vì cảnh trói người ở nhà thống lí Pá Tra đã quá quen thuộc và chính Mị cũng từng bị trói như thế. Hay vì ở lâu trong cái khổ tâm hồn Mị đã trở nên chai sạn, vô cảm trước nỗi đau của người khác cho nên “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”.

+ Sau đó: Mị nhìn thấy “ dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A phủ.:

  • Lòng Mị chợt bồi hồi nhớ lại cảnh mình cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau
  • Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này”. Lý trí giúp Mị nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết còn ác hơn cả thú dữ trong rừng.
  • Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này, chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”.
  • Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó.

-> Từ thương mình chuyển sang thương người, hình thành sợi dây đồng cảm Mị đã cắt dây cởi trói cho A Phủ.

  • Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi, còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi.

=> Có thể nói tình thương, sự đồng cảm giai cấp và niềm khát khao tự do, sức sống mãnh liệt đã thôi thúc Mị cắt dây cởi trói cho A phủ. Hành động ấy bất ngờ nhưng tất yếu mang tính logic của một sức sống đã được hồi sinh mãnh liệt. Mị cởi trói cho A Phủ cũng chính là tự cởi trói cho chính mình.

– Nghệ thuật:

+ Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo.

+ Cách trần thuật uyển chuyển, linh hoạt, ngắn gọn; dẫn dắt tình tiết khéo léo.

+ Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc và sáng tạo…

2. Liên hệ với tâm trạng của hai chị em Liên trong cảnh đợi tàu

– Liên chờ tàu không phải để bán hàng cũng không phải sự hiếu kì mà là nhu cầu tinh thần hàng đêm. Bởi vậy, An mặc dù đã buồn ngủ díu cả mắt vẫn cố dặn chị “tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”. ” Hai chị em Liên chời đợi tàu trong tâm trạng háo hức, bồi hồi bởi đó là chuyến tàu từ Hà Nội về – gợi những kí ức về cuộc sống tươi đẹp trong quá khứ; chuyến tàu giúp Liên và An được cảm nhận cuộc sống dù là trong một giây lát.

– Đoàn tàu đến trong sự mong chờ của chị em Liên. Liên và An hướng cả tâm hồn mình vào đoàn tàu khi còn ở xa “tiếng còi đã rít lên và tàu rầm rộ đi tới với những toa hạng sang, mạ kền và mạ đồng lấp lánh, các cửa kính sáng. ” Con tàu đã đem đến một thế giới khác đi qua, một thế giới rực rỡ, vui vẻ, huyên náo- một thế giới khác hẳn với sự nghèo khôt hàng ngày.

– Đoàn tàu chỉ xuất hiện trong một khoảnh khắc rất ngắn rồi vụt qua đi vào đêm tối. Ta bắt gặp phía sau đoàn tàu một nguồn ánh sáng nhỏ nhoi chỉ chực tan hòa vào bóng tối. An nhận ra tàu hôm nay “kém sáng hơn”, nhưng Liên vẫn “lặng theo mơ tưởng”. Đoàn tàu không làm thay đổi cuộc sống nơi phố huyện nhưng sự xuất hiện của nó đủ để lại niềm khao khát cho những con người nơi đây “chừng ấy con người…của họ”.

– Nghệ thuật:

+ Truyện ngắn Hai đứa trẻ là một truyện không có cốt truyện, không có những biến cố căng thẳng dồn nén, những xung đột gay gắt, những tình tiết căng thẳng, thời gian ngắn, nhân vật không nhiều.

+ Nghệ thuật phân tích tâm lí của ngòi bút Thạch Lam tạo nên sự thành công của thiên truyện.

+ Thủ pháp nghệ thuật đối lập.

+ Ngôn ngữ văn xuôi giàu chất thơ

3. Nhận xét cách nhìn và tình cảm của nhà văn đối với con người

– Giống nhau:

+ Phản ánh cuộc sống vất vả, tối tăm của người lao động trong xã hội cũ.

+ Thể hiện thái độ thương cảm, trân trọng của nhà văn với những ước mơ, niềm khát vọng của con người.

+ Qua đó thể hiện cái nhìn hiện thực và nhân đạo sâu sắc của Thạch Lam và Tô Hoài.

– Khác nhau:

+ Trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, Thạch Lam thể hiện cái nhìn xót thương cho cuộc đời số phận quẩn quanh, tối tăm và bế tắc của những người dân nơi phố huyện nghèo – những con người không bao giờ được biết đến ánh sáng và hạnh phúc, sống mòn mỏi trong nỗi buồn chán và sự vô nghĩa đến ước mơ cũng chỉ là chờ một chuyến tàu đêm đi qua.

+ Trong Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã khẳng định bằng sức sống mãnh liệt những người lao động như Mị và A Phủ đã tự giải phóng mình khỏi cuộc sống tối tăm để hướng đến cuộc sống và tương lai tốt đẹp đó là con đường đến với cách mạng.

-> Đây là nét hiện thực mới cũng là nhân đạo mới của văn học 1945 – 1975 so với văn học 1930 – 1945.

Sưu tầm và tuyển chọn Văn mẫu lớp 12 hay nhất / Đọc Tài Liệu

Cập nhật ngày 07/05/2019 - Tác giả: Tâm Phương

So sánh nhân vật Mị và Thị qua tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ Nhặt”

4,478 từ Văn mẫu

So sánh nhân vật Mị và Thị qua tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ Nhặt”

Mị và Thị là những hình ảnh đại diện cho nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong thời đại xã hội xưa. Qua tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ Nhặt”, chúng ta đã có thêm những góc nhìn sâu sắc về số phận của người phụ nữ cũng như những vẻ đẹp tâm hồn tiềm ẩn bị vùi lấp trước bi kịch cuộc đời. Cùng cunhocvui so sánh nhân vật Mị và Thị để hiểu thêm chi tiết về hình ảnh người phụ nữ xưa nhé!

So sánh nhân vật Mị và Thị thông qua hai tác phẩm

Mở bài: Giới thiệu hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xưa qua so sánh nhân vật Mị và Thị

Xuyên suốt nền văn học Việt, nét đẹp của người phụ nữ như một nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca. Từ cổ chí kim với hình ảnh nàng Kiều tài hoa cùng khát vọng sống mãnh liệt trước số phận bạc mệnh; đến một chị Dậu bị xã hội nửa phong kiến vùi dập đến túng quẫn giữa màn đêm không tìm thấy lối thoát. Số phận bi thảm đầy sự bất công, cay đắng tủi nhục ấy lại chẳng thể vùi lấp đi vẻ đẹp nơi tâm hồn ẩn chứa nơi trái tim họ.

Vợ chồng A Phủ” với nhân vật Mị và “Vợ nhặt” với nhân vật Thị cũng là những người phụ nữ với nét đẹp tâm hồn tài hoa, không đầu hàng trước số phận như vậy. Dù hoàn cảnh bi thương khác nhau nhưng giữa những tầm thường cuộc đời, vẻ đẹp của họ vẫn được Tô Hoài và Kim Lân khắc họa sâu sắc, để lại những rung cảm khó có thể phai mờ trong lòng độc giả.

Xem thêm:

Phân tích giá trị nhân đạo trong vợ chồng A Phủ

Tóm tắt vợ chồng A Phủ hay nhất

Phân tích và so sánh "Vợ chồng A Phủ" với "Vợ nhặt" hay nhất

A. ĐỀ BÀI

Phần I. Đọc hiểu [3 điểm]
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cẩu:
Con mèo nằm thản nhiên
trong mảnh thảm nhung góc nhà
Nó bị xích như xích chó
Thức ăn được phục vụ tại chỗ

Thấy chuột, tôi thả con mèo ra
Mèo nhìn chuột dửng dưng, lạnh lùng
Rồi lại nằm khoèo trên mảnh thảm nhung,
gối đầu lên cái xích…
[Con mèo, Trần Nhuận Minh, Cửa Lục, 2. 1999].
Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của bài thơ trên.
Câu 2. Các từ “dửng dưng, lạnh lùng, nằm khoèo” thể hiện điều gì?
Câu 3. Xác định nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn trong bài thơ.
Câu 4.Có ý kiến cho rằng, bài thơ Con mèo của Trần Nhuận Minh đã lên tiếng cảnh báo về một thế hệ thích sống hưởng thụ, ỷ lại, thụ động. Suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên. Trả lời trong khoảng 5-7 dòng,
Phần II. Làm vẫn [7 điểm]

Câu 1 [2 điểm]:
“Hôm nay [19/4], là ngày đầu tiên Công viên nước Hồ Tây [Hà Nội] mở cửa miễn phí cho người dân Thủ đô và du khách đến vui chơi và bơi lội. Ngay từ sáng, hàng nghìn người dân đồng loạt kéo đến, khiến công viên rơi vào tình trạng quá tải. Phía Công viên phải phát đi thông báo trên hệ thống loa truyền thanh có nội dung tạm dừng phục vụ nhân dân miễn phí và tiến hành cho lực lượng an ninh đóng cồng ngay sau đó.
Tuy nhiên, nhiều người thay vì chấp hành thông báo trên, đã “quyết” vào trong bằng cách trèo qua hàng rào sắt bất chấp nguy hiểm cho bản thân. Lục lượng an ninh quá mỏng so với “biển người” đang xuất hiện tại đây, khiến việc ngăn cản người dân vượt rào vào trong gặp nhiều khó khăn”.
[Theo Nguyễn Dương - báo Dân trí]
Đoạn văn trên gợi cho anh chị suy nghĩ gì về lối ứng xử thiếu vãn hóa của một bộ phận người Việt hiện nay? Trình bày những suy nghĩ đó bằng một đoạn văn nghị luận [khoảng 200 chữ].
Câu 2 [5 điểm]:
Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam qua hai tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài và "Vợ nhặt" của Kim Lân.

B. GỢI Ý LÀM BÀI

Phần I: Đọc - hiểu [3 điểm]
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính: miêu tả.
Câu 2. Các từ “dửng dưng lạnh lùng, nằm khoèo ” thể hiện thái độ không quan tâm, không cần biết của con mèo đối với loại thức ăn tự nhiên [chuột] mà chúng yêu thích nhất. Thấy chuột thì “dửng dưng” “lạnh lùng" là trái ngược với bản năng động vật của chúng. Việc nhà văn miêu tả như vậy sẽ gợi trí tò mò của độc giả, bắt buộc độc giả phải đi tìm lí do cho thái độ “dửng dưng, lạnh lùng' đó của con mèo.
Câu 3.
- Nghĩa tường minh: Bài thơ là hình ảnh con mèo được nuôi đầy đủ vật chất nên lâu ngày đánh mất bân năng sinh tồn của động vật, nhìn thấy chuột cũng không muôn bắt.
- Nghĩa hàm ẩn: Con mèo ”bị xích”, bị phụ thuộc, thức ăn được phục vụ nên sống ỷ lại, hưởng thụ, thấy chuột dửng dưng không bắt tức là đánh mất bản năng. Hình tượng con mèo là ẩn dụ lớn cho lối sống hưởng thụ, ỷ nại, tuy bị phụ thuộc nhưng không biết đấu tranh, phản khảng.
Câu 4. Có ý kiến cho rằng, bài thơ "Con mèo" của Trần Nhuận Minh đã lên tiếng cảnh báo về một thế hệ thích sống hưởng thụ, ỷ lại, thụ động. Thí sinh có thể trả lời là đồng ý/ hay không đồng ý với ý kiến trên. Tuy nhiên cần phải nêu được lí lẽ thuyết phục cho ý kiến của mình. Câu hỏi mở, giáo viên linh động cho điểm.
Phẩn II. Làm văn [7 điểm]

Câu 1 [2 điểm]
Yêu cầu về hình thức:
- Viết đúng 01 đoạn văn, khoảng 200 từ.
- Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu,...
Yêu cầu về nội dung:
- Giải thích:
+ Hiện tượng được phản ánh trong đoạn trích trên là một biểu hiện của lối ứng xử thiếu văn hóa của một bộ phận không nhỏ người Việt hiện nay.
+ Ứng xử thiếu văn hóa là cách ứng xử lỗ mãng, bất lịch sự, thiếu tế nhị, gây khó chịu cho người khác,ứng xử thiếu vẫn hóa đang là căn bệnh của một bộ phận không nhỏ người dân, phản ánh sự xuống cấp về mặt đạo đức cũng như ý thức.
- Phân tích thực trạng, giải thích nguyên nhân, nêu hệ quả và đề xuất một số phương pháp xử lý đối với hiện tượng được nhắc đến. Lập luận phải chặt chẽ, có sức thuyết phục:
+ Thực trạng:
Không chỉ riêng vụ việc vượt rào ở Công viên nước Hồ Tây thời gian vừa qua, mà báo chí cũng đã không ít lần đưa tin về những vụ việc tương tự. Giành giật đồ ăn, áo mưa miễn phí, giẫm đạp lên nhau để đổi mũ bảo hiểm... báo động sự vắng mặt của văn hóa và ý thức trong cộng đổng người Việt
+ Nguyên nhân của ứng xử thiều văn hóa:
++ Nguyên nhân đầu tiên và trực tiếp nhất là do ý thức của người dân chưa cao. Căn bệnh thực dụng, thói tham lam, ích kỉ, chỉ nghĩ đến lợi ích của bản thân minh đã dẫn đến những hành động bất chấp cà lòng tự họng, luật pháp.
++ Do ảnh hưởng tiêu cực của đời sống hội nhập. Con người mà chạy theo đồng tiền, những giá trị vật chất mà không có gốc văn hóa.
+ Do căn bệnh đám đông, một người làm thì nhiều người sẽ làm theo.
+ Giải pháp:
++ Mỗi người phải tự ý thức và điều chỉnh những hành vi, ứng xử của bản thân sao cho phù hợp với chuẩn mực về văn hóa của xã hội.
++ Để nâng cao ý thức ứng xử có văn hóa của người dân, bản thân mỗi người, gia đình và toàn xã hội phải có sự chung tay, hợp sức.
- Bình luận:
+ Cuộc sống hiện đại với vòng quay của đồng tiền khiến những nét đẹp trong văn hóa ứng xử dần bị mai một, tha hóa. Phép lịch sự tối thiểu trong giao tiếp, ứng xử như lời chào, lời xin lỗi, lời cảm ơn dần bị coi nhẹ.
+ Mối quan hệ giữa người với người cũng dần dần bị vật chất hóa, con người chỉ quan tâm đến những giá trị vật chất, trọng người giàu, coi khinh người nghèo. Đó cũng chính là mặt trái của nền kinh tế thị trường.

Câu 2 [5 điểm]:

1. Mở bài:
- Trong nền văn học Việt Nam hiện đại 1945 - 1975, cùng với thơ, truyện ngắn là một trong những thể loại đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Bên cạnh những truyện ngắn có giá trị viết về đề tài chiến đấu và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, còn có những truyện ngắn xuất sắc viết về cuộc sống mới thường ngày, phản ánh số phận người lao động, đặc biệt là số phận người phụ nữ, khám phá những khát vọng và vẻ đẹp tâm hồn họ.
- Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài và Vợ nhặt của Kim Lân là những tác phẩm tiêu biểu mang giá trị nhân văn sâu sắc về sổ phận con người, thề hiện cái nhìn sâu sắc của nhà văn với cuộc đời. Bên cạnh những nét chung, mỗi tác phẩm lại mang những nét riêng đặc sắc để tạo nên giá trị, tạo nên sức sống lâu bền trong nền văn học nước nhà.

2.Thân bài:
a] Giới thiệu chung:
- Con người là trung tâm của mọi tác phẩm vàn học, cho nên sổ phận con người, nhất là số phận người phụ nữ đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho các nghệ sĩ lớn xưa nay. Như Gorki đã có bốn câu thơ tuyệt hay:
"Trời không ánh sáng hoa nào nở
Dạ vắng yêu thương cảnh những sầu
Đời không mẹ hiền, không phụ nữ
Anh hùng thi sĩ hỏi còn đâu...
- Vấn đề số phận người phụ nữ cũng đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt văn học Việt Nam qua các thời kỳ. Đó là thân phận một nàng Kiều tài hoa và bạc mệnh một người chinh phụ phải sống trong sầu tủi cô đơn; một cung nữ sắc nước hương trời bị vua ghẻ lạnh phải sống trong cảnh lạnh lùng; một Hồ Xuân Hương thông minh, sắc sảo, khát khao hạnh phúc ngọt ngào mà cuộc đời gặp toàn cay đắng, hẩm hiu. Những số phận người phụ nữ trong văn học quá khứ là bất hạnh, khổ đau, bế tắc. Đến các tác phẩm văn học thời kỳ hiện đại, ta sẽ thấy được các nhà văn đã thổi vào số phận của người phụ nữ một luồng sinh khí mới.
b] Nhân vật người phụ nữ trong hai tác phẩm:
- Các nhân vật phụ nữ trong "Vợ chồng A Phủ" và "Vợ nhặt" là những con người lao động có cuộc đời khổ cực, bất hạnh. Nhưng các tác giả Tô Hoài và Kim Lân đã có cái nhìn sự vật hiện tượng theo chiều hướng vận động đi lên nên đã có một cách đánh giá khác về số phận của những người phụ nữ ấy. số phận nhân vật đi từ bóng tối đến ánh sáng, đi từ thung lũng đau thương đến cánh đồng vui”.
- Mịtrong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, bị bọn thống trị, đại diện là thống lý Pá Tra áp bức đọa đày. Mị tiêu biểu cho số phận người phụ nữ Mèo ờ vùng rừng núi Tây Bắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
+ Mị vốn là cô gái Mèo trẻ đẹp, đảm đang, hiếu thảo, Với những phẩm chất tốt đẹp ấy, Mị rất xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Và thực sự Mị đã sống những giây phút tươi đẹp của tuổi trăng rằm dù trong hoàn cảnh nghèo khó. Song tương lai của tuổi trẻ với hạnh phúc và tình yêu đã không đến được với cô gái Mèo nghèo khổ đó. Chỉ vì một món nợ truyền kiếp của bố mẹ, Mị bị bắt đem về làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lý Pá Tra. Những ngày sống trong nhà ngục thống lý, Mị phải chịu biết bao nỗi đau thương, tủi nhục tăm tối. Mị không chỉ bị hành hạ về thể xác mà còn bị đày đọa về tinh thần. Như vậy, cũng như bao người lao động khác, vì nghèo đói, Mị đã trở thành nô lệ cho bọn giàu có. Thời gian đầu làm con dâu gạt nợ, người phụ nữ này đã phản kháng quyết liệt. Đã có lúc Mị muốn tử tự, nhưng vì thương bố, dù có chết thì món nợ vẫn còn, bố còn khổ hơn cả bây giờ, MỊ đành âm thầm chấp nhận cuộc đời trâu ngựa. Bây giờ Mị nghĩ rằng mình là con vật, thậm chí còn không bằng con trâu, con ngựa.
+ Bị đày đọa khủng khiếp trong địa ngục nhà thống lý, MỊ như bông hoa rừng đang héo tàn theo năm tháng. Người con gái tài hoa, trẻ đẹp, ham sống, yêu đời thuở nào giờ chỉ còn là người đàn bà thân xác héo khô, tâm hồn lạnh lẽo, trống vắng. Từ đây, ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Mị ngày càng ít nói, MỊ gần như tê liệt hết sức sống, mất hết cảm giác về thời gian, không gian. Cuộc đời Mị chỉ còn thu nhỏ lại qua lỗ vuông cửa sổ bằng bàn tay mờ mờ trắng trắng, không biết là sương hay là nắng, nó cũng mờ đục tăm tối như số phận và tâm hồn Mị vậy, khiến Mị cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở đấy, cuộc đời tăm tối, tủi nhục của Mị được Tô Hoài khắc họa một cách chân thực, cảm động. Hơn nữa, nhà văn không chi dừng lại ở đó, mà còn phát hiện niềm ham sổng, khát khao hạnh phúc tình yêu, hạnh phúc tự do của người đàn bà tội nghiệp này bằng việc miêu tả sinh động sự hồi sinh trong ý thức nhân vật. Không chỉ rạo rực trong đêm tình mùa xuân với những âm thanh náo nức, tiếng sáo, tiếng khèn của trai làng đã làm sổng dậy tình yêu cuộc đời trong tâm hồn Mị mà lâu nay bị vùi dập bởi cuộc sống trâu ngựa khổ đau. Mị hồi tưởng lại quá khứ tươi đẹp và cảm thấy tâm hồn mình như phơi phới trở lại. Rồi Mị với tay lấy váy hoa, quấn lại tóc sửa soạn đi chơi ngày Tết. Nhưng giữa lúc sức sống bùng lên một cách mãnh liệt thì cũng là lúc Mị bị vùi dập một cách phũ phàng. Mị bị A Sử thản nhiên trói đóng ở cột nhà như trói một con vật. Như vậy, khát vọng sống của Mị đã bị vùi dập một cách hết sức tàn nhẫn.
+ Rồi một đêm chứng kiến cảnh A Phủ bi đánh, bị trói một cách thảm khốc, Vì niềm đồng cảm của những con người cùng cảnh ngộ, vì lòng thương người, Mị đã vượt qua được nỗi sợ hãi khủng khiếp, dám nghĩ tới một hành động táo bạo: cắt dây trói giải cứu cho A Phủ rồi chạy theo A Phủ để thoát khỏi nhà ngục thống lý. Mị đến Phiềng Sa gặp A Châu, một cán bộ trung kiên của Đảng, được A Châu giúp đỡ, Mị tham gia du kích chiến đấu giải phóng mình và giải phóng quê hương như là một tất yếu.
Như vậy, viết về một số phận người phụ nữ ở đây, Tô Hoài đã đặt ra vấn đề khát vọng tự do, hạnh phúc chân chính của người phụ nữ miền núi và con đường giải phóng cho họ. Với khát vọng cao đẹp và sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, Mị đã đến với cách mạng để trở thành con người làm chủ.

Có thể bạn quan tâm:Phân tích tác phẩm "Vợ chồng A Phủ"

- Ở tác phẩm "Vợ nhặt", số phận con người chưa hoàn toàn sang trang mới, nhưng ở đoạn kết của tác phẩm đã hé mở cho họ một tương lai tốt đẹp. Ngay ở nhan đề "Vợ nhặt" cũng đã phần nào nói lên được hoàn cảnh khốc liệt của số phận bị cái đói khủng khiếp, đe dọa cướp đi sự sống. Xưa nay, lấy vợ là phải cưới xin, nhưng đằng này lại nhặt được vợ như người ta nhặt được cái rơm, cái rác bên đường mà chỉ nhờ bốn bát bánh đúc. Đó là hậu quả của nạn đói năm 1945 khủng khiếp. Cái nạn đói khiến cho bao người kỉnh hoàng, khiến cho bao số phận của con người trở nên mong manh như chiếc lá vàng trước gió. Đó cũng là bức tranh chân thực của xã hội Việt Nam năm 1945, đặt nhân vật vào tình huống ấy, Kim Lân có điều kiện làm nổi rõ số phận và phẩm chất nhân vật.
+ Số phận người phụ nữ đầu tiên là “vợ nhặt”:
++ Ngay cái tên của chị cũng không có, cái đói đã hủy hoại đi cả hình thể lẫn tâm hồn của Thị: nom chị ta rách rưới quá; áo quần tả tơi như tồ đỉa; chị ta gầy sọp, cái ngực lép kép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt. Chị ngồi với mấy người bạn trước kho thóc trông thật thảm hại. Kim Lân không miêu tả gia cảnh của người đàn bà này mà mở đầu cuộc đời chị là hai người quen nhau: một câu nói vu vơ trêu chọc của Tràng. Cái đói khiến Thị phải gợi ý Tràng cho ăn và cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc rồi lon ton chạy theo về làm vợ nhặt người đàn ông xa lạ kia.
++ Đời người con gái hạnh phúc nhất là khi rước dâu, vậy mà thị phải theo không Tràng về. Cái dáng người lầm lũi, e thẹn đi cách Tràng vài bước trong lời trêu chọc và ánh mắt của trẻ con, người lớn xóm ngụ cư khiến người đọc xót thương. Thương nhất là cảnh chị ngồi mép giường, cái thúng ôm khư khư trước mặt. Thế ngồi của thị cũng chông chênh như cuộc đời, như lòng thị, như tương lai của thị. Nhưng tình thương bao la của người mẹ chồng cùng tấm lòng chân thành của Tràng đã xua đi nỗi e dè, tủi cực của thị. Sáng hôm sau, thị dậy sớm với cử chỉ dịu dàng, chăm chỉ. Đến đây, số phận của thị đã khác. Từ một người bơ vơ đầu đường xó chợ, bị cái đói rình rập làm cho thị trở nên cong cớn, liều lĩnh, chua chát, chỏng lỏn, đã trở thành một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực. ThỊ đã có mái ấm gia đình thực sự với một người chồng và mẹ chồng luôn luôn yêu thương thị.
+ Bà cụ Tứ, mẹ Tràng cũng là một số phận người phụ nữ gây nhiều xót thương cho người đọc. Độc giả có thể tìm thấy ở hình tượng nhân vật này bao bà mẹ Việt Nam nghèo khổ mà cần cù, chịu thương, chịu khó, rất mực thương con và lúc nào cũng hướng về cái thiện, về tương laị tươi sáng.
++ Cái dáng người lọng khọng, cái thân hình còm cõi, cái gương mặt u ám của bà như đã nói với ta tất cả sổ phận nghèo khổ dưới đáy của xã hội xóm ngụ cư. Cho nên khi có người đàn bà xa lạ xuất hiện ở đầu giường của con mình, bà cụ ngạc nhiên đến sững sờ, không hiểu nổi. Và khi hiểu ra đó là đứa con dâu mới của mình thì cụ lại hiểu ra biết bao cơ sự vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình và rồi trong đôi mắt kèm nhèm của bà cụ rụp xuống hai hàng nước mắt. Đó là giọt nước mắt của một người mẹ nghèo vừa mừng vui, vừa âu lo, xót thương, vừa buồn tủi. Tủi vì làm mẹ không lo được cho con. Nay con có vợ rồi lại phải lấy vợ theo cách ấy: không cưới hay bất cứ một nghi thức nào vẫn thường được tôn trọng ở nông thôn ta ngày xưa.
++ Nhưng dù niềm vui hay nỗi buồn, dù nỗi lo toan hay tủi phận thì người mẹ Việt Nam ở bà cụ Tứ vẫn bừng sáng một tấm lòng yêu thương độ lượng. Bữa cỗ cưới ngày đói thật thảm hại: giữa cái mẹt rách cố độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo... Trong bữa ăn bà cụ Tứ toàn chuyện vui chuyện tốt đẹp về sau... bà nhìn cuộc sống bằng đôi mắt lạc quan "không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”. Cuộc sống khắc nghiệt đầy đọa con người, bắt họ phải sống cuộc sống loài vật. Nhung nó không thể dập tắt được phần người, rất người trong lòng bà mẹ khắc khổ kia. Đó chính là nét đặc sắc của tư tưởng nhân đạo Kim Lân.

Phân tích chi tiếtVợ nhặt
c] Đánh giá: Cùng viết về người phụ nữ, Tô Hoài và Kim Lân gặp gỡ nhau ờ sự nắm bắt rất rõ tâm lý nhân vật cũng như chiều sâu tư tương nhân đạo mói mè, với
tấm lòng yêu thương và đồng cảm với số phận người phụ nữ. Nhưng ở mỗi tác phẩm cũng có nét riêng.
- Viết về "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài không chỉ phản ánh chân thực số phận khổ đau của người phụ nữ, ông còn phát hiện và miêu tả sức sống tiềm tàng trong Mị, từ đó thể hiện một khả năng nắm bắt mới đối với hiện thực đời sống của người lao động trong xã hội cũ. Nhà văn không chỉ còn thấy con người là nạn nhân đau khổ của chế độ xã hội tàn bạo mà còn thấy ở họ sức mạnh và khả năng làm chủ cuộc sống của chính mình. Đó là một thực tế không thể phủ nhận và đã được chứng minh bằng quá trình đấu tranh cách mạng của cả dân tộc, đất nước trong những năm tháng đó. về nghệ thuật, nhà văn đã thể hiện biệt tài miêu tả tâm lý nhân vật qua giọng điệu trữ tình và ngôn ngữ giản dị, phong phú, sáng tạo, giàu chất thơ, chất tạo hình, gợi cảm.
- Viết về "Vợ nhặt", Kim Lân không chỉ dừng lại ở việc phản ánh chân thực nạn đói khủng khiếp năm 1945, mà tiến lên một bước nữa nhằm khắc họa nét đẹp tâm hồn người lao động, đặc biệt là người phụ nữ. Dù rơi vào hoàn cảnh khốn cùng, dù kề bên cái chết, họ vẫn hướng về cuộc sống gia đình, hạnh phúc tình yêu với một niềm tin bất diệt, Chọn tình huống “Vợ nhặt” do nạn đói rùng rợn gây nên, Kim Lân không nhằm miêu tả sự sụt giá, tha hóa con người, trái lại nhà văn còn khẳng định khát khao sống và phẩm giá của họ. Tình yêu cuộc sống của những con người nằm bên bờ vực cái chết đã trở thành nguồn sáng, nguồn ấm áp sưởi ấm lòng người, thôi thúc họ đi cứu lấy đời mình, về nghệ thuật, nhà văn đã đặt nhân vật trong tình huống truyện độc đáo; diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật.

3.Kết bài:
Qua việc miêu tả chân thực và rõ nét số phận khổ đau của các nhân vật phụ nữ và phát hiện ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn họ, các tác giả đã đề cập đến các vấn đề hết sức quan trọng và có ý nghĩa muôn đời của văn học. Đó là vấn đề phấn đấu cho con người được sống trong tự do, hạnh phúc, tình yêu, gia đình.

Trên đây là gợi ý cách làm bài thi môn Ngữ Văn THPT Quốc gia năm 2017 về tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài với "Vợ nhặt" của Kim Lân, cùng với phần đọc hiểu đảm bảo chuẩn cấu trúc đề thi. Thấy hay thì đừng ngại ngần mà nhanh chóng chia sẻ nhé!

Tags thpt quốc gia Vợ nhặt Vợ chồng A Phủ Tô Hoài kim lân so sánh hai tác phẩm văn học thpt quốc gia thử 2017
Bài trước Bài sau

Đề liên hệ đoạn kết Vợ chồng A Phủ và Chí Phèo

Ngân Hà 18/12/2018 Văn mẫu hay lớp 12

Share
  • Facebook
  • Twitter
  • LinkedIn
  • Pinterest

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề