Mismatch repair-deficient colorectal cancer là ung thư gì năm 2024

  1. Các yếu tố nguy cơ của ung thư nội mạc tử cung có thể liên quan đến sự tiếp xúc quá mức của nội mạc tử cung với estrogen, bao gồm liệu pháp estrogen không bị đối kháng, có kinh sớm, mãn kinh muộn, điều trị tamoxifen, chưa sinh đẻ, vô sinh hoặc không rụng trứng và hội chứng buồng trứng đa nang. Các yếu tố nguy cơ khác là tuổi tăng, béo phì, tăng huyết áp, đái tháo đường và ung thư đại trực tràng không đa polyp di truyền.
  1. Các dấu hiệu và triệu chứng của ung thư nội mạc tử cung có thể bao gồm: Chảy máu âm đạo sau khi mãn kinh, chảy máu giữa các kỳ kinh, đau vùng chậu, có một khối u và sút cân.
  1. Các dấu ấn sinh học khối u huyết thanh đối với ung thư nội mạc tử cung có thể bao gồm: CA125 là dấu ấn chính trong chẩn đoán, theo dõi và tiên lượng ung thư nội mạc tử cung; HE4 có tiềm năng tốt hơn để sử dụng trong chẩn đoán ung thư nội mạc tử cung so với CA125; sự kết hợp của CA125 và HE4 có thể được áp dụng để theo dõi sự tái phát, sự xâm lấn vào cơ tử cung, di căn hạch bạch huyết và tiên lượng ở bệnh nhân ung thư nội mạc tử cung.
  1. Sinh thiết chất lỏng [LB] ở bệnh nhân ung thư nội mạc tử cung bao gồm một số dịch sinh học như máu, nước tiểu, dịch/nước rửa phúc mạc và các dấu ấn sinh học như các tế bào khối u lưu thông [CTCs], các DNA khối u lưu thông [ctDNAs], RNA không mã hóa dài [lncRNA], microRNA [miNA], các vi túi lưu thông [cMVs] hoặc các túi ngoại bào, các tiểu cầu nuôi khối u [TEPs], mRNA [mRNA] và protein có thể đóng các vai trò khác nhau trong chẩn đoán, tiên lượng và quản lý bệnh nhân cũng như giúp nâng cao kiến thức về sự tiến triển của ung thư này.
  1. Các con đường tín hiệu phân tử chính của ung thư nội mạc tử cung bao gồm con đường tín hiệu RTK, con đường tín hiệu Wnt, con đường tín hiệu Notch, con đường tín hiệu p53 và p16. Các điều trị đích ung thư nội mạc tử cung bao gồm: [1] Các chất ức chế thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì [EGFR] kinase; [2] các chất ức chế sự hình thành mạch máu; [3] các chất ức chế mTOR, và các thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 2 đang diễn ra bao gồm [4] các chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch và [5] các chất ức chế poly [ADP-ribose] polymerase [PARP].

*

Endometrian Cancer: Serum tumor biomarkers, liquid biopsy-based biomarkers, molecular alterations and targeted therapy

Luat Nghiem Nguyen

MEDLATEC General Hospital

Abstract

  1. Risk factors of endometrial cancer can are related to excessive unopposed exposure of the endometrium to estrogen, including unopposed estrogen therapy, early menarche, late menopause, tamoxifen therapy, nulliparity, infertility or failure to ovulate, and polycystic ovary syndrome. Additional risk factors are increasing age, obesity, hypertension, diabetes mellitus, and hereditary nonpolyposis colorectal cancer.
  1. Signs and symptoms of endometrial cancer may include: Vaginal bleeding after menopause, bleeding between periods, pelvic pain, a mass, and weight loss.
  1. Serum tumor biomarkers for endometrial cancer can include: CA125 is the major marker in the diagnosis, monitoring and prognosis of endometrial cancer; HE4 has a good potential for use in diagnosis of endometrial cancer compared to CA125; the combination of CA125 and HE4 could be applied to monitor recurrence, deep myometrial invasion, lymph node metastasis and prognosis in endometrial cancer patients.
  1. Liquid biopsy [LB] in patients with endometrial cancer includes several biofluids such as blood, urine, peritoneal fluid/lavage, and biomarkers such as circulating tumor cells [CTCs], circulating tumor DNA [ctDNAs], long noncoding RNA [lncRNA], microRNA [miNA], circulating microvesicles [cMVs] or exosomes, tumor educated platelets [TEPs], mRNA [mRNA], and proteins that can play different roles in diagnosis, prognosis, and patient management as well as in the improvement of the knowledge of the cancer evolution.
  1. The main molecular signaling pathways of endometrial cancer including RTK signaling pathway, Wnt signaling pathway, Notch signaling pathway, as well as p53 and p16 signaling pathway. Targeted therapies for endometrial cancer include: [1] Epidermal growth factor receptor [EGFR] kinase inhibitors; [2] angiogenesis inhibitors; and [3] mTOR inhibitors and ongoing phase 2 clinical trials, including [4] immune checkpoint inhibitors and [5] poly [ADP-ribose] polymerase [PARP] inhibitors.

*

Tử cung [uterine] là cơ quan vùng chậu rỗng, hình quả lê, nơi diễn ra sự phát triển của thai nhi. Ung thư nội mạc tử cung [endometrial cancer], còn được gọi là ung thư tử cung [uterine cancer], bắt nguồn từ lớp tế bào hình thành lớp nội mạc tử cung [endometrium] của tử cung. Một loại ung thư khác cũng có thể được hình thành trong tử cung nhưng ít phổ biến hơn nhiều là sarcoma tử cung [uterine sarcoma] [Hình 1].

Hình 1. Ung thư nội mạc tử cung [Nguồn: Endometrial cancer, Mayo Clinic, May 20, 2021].

Về tỷ lệ mắc, ung thư nội mạc tử cung đứng thứ 6 về tỷ lệ mắc ở phụ nữ trên toàn thế giới, theo dữ liệu của GLOBOCAN 2020, với 417.367 ca mới vào năm 2020 và nguy cơ tích lũy [cumulative risk] là 1,6% [13]. Khoảng 70% ung thư nội mạc tử cung có thể được chẩn đoán ở giai đoạn sớm. Tiên lượng của ung thư nội mạc tử cung sẽ thuận lợi nếu được chẩn đoán ở giai đoạn sớm và sẽ kém nếu được chẩn đoán ở giai đoạn muộn. Vì vậy, việc phát hiện, chẩn đoán và điều trị sớm có thể giúp nâng cao tỷ lệ sống của bệnh nhân ung thư nội mạc tử cung [6].

Về phân loại, trước năm 2013, ung thư nội mạc tử cung được chia thành hai loại, loại phụ thuộc vào estrogen [loại I] và loại không phụ thuộc vào estrogen [loại II], theo phân loại cổ điển của Bokhman. Việc đánh giá mô bệnh học bao gồm loại và mức độ của khối u, cùng với các yếu tố lâm sàng được coi là những yếu tố tiên lượng rất quan trọng ảnh hưởng đến quyết định điều trị. Tuy nhiên, các khối u giống nhau về mặt mô học có thể có các hậu quả khác nhau. Các phát hiện phân tử gần đây và các thông số mô bệnh học mới đã cho khái niệm mới về phân tầng nguy cơ, về quản lý ung thư và đã phân ung thư nội mạc tử cung thành 4 phân nhóm phân tử [molecular subgroups], gồm: 1] phân nhóm cực kỳ đột biến [POLE ultramutated: POLE mut], phân nhóm đột biến p53 [p53 mutant: p53abn], phân nhóm thiếu sự sửa chữa không phù hợp [mismatch repair deficient: MMRd] và phân nhóm cấu hình phân tử không đặc hiệu [non-specific molecular profile: NSMP] [3, 4, 15].

Về tiên lượng, ung thư nội mạc tử cung thường được phát hiện ở giai đoạn sớm vì thường gây chảy máu âm đạo bất thường. Nếu được phát hiện sớm, với phẫu thuật cắt bỏ tử cung, ung thư nội mạc tử cung có thể có tiên lượng tốt hơn nhiều. Ở những bệnh nhân có khối u khu trú trong tử cung, tỷ lệ sống sót sau 5 năm là ≥ 95%, nhưng tỷ lệ này giảm đột ngột khi khối u đã di căn khỏi tử cung, với tỷ lệ tỷ lệ sống sót sau 5 năm là 69% ở những bệnh nhân có di căn quanh vùng và là 17% ở những bệnh nhân có di căn xa [15].

Trong bài viết này, các yếu tố nguy cơ, các dấu hiệu và triệu chứng, các dấu ấn sinh học khối u huyết thanh, các dấu ấn sinh học dựa trên sinh thiết lỏng, các thay đổi về phân tử và điều trị đích trong ung thư nội mạc tử cung sẽ được trình bày.

1. Các nguyên nhân và yếu tố nguy cơ

1.1. Các nguyên nhân

Nguyên nhân của ung thư nội mạc tử cung hiện còn chưa được rõ. Người ta cho rằng những thay đổi [đột biến] ở DNA của các tế bào trong nội mạc tử cung có thể biến các tế bào bình thường, khỏe mạnh thành các tế bào bất thường. Các tế bào khỏe mạnh phát triển và nhân lên theo một tốc độ nhất định, cuối cùng sẽ chết vào một thời điểm nhất định. Các tế bào bất thường phát triển và nhân lên ngoài tầm kiểm soát và không chết vào một thời điểm nhất định. Các tế bào bất thường tích tụ tạo thành một khối u. Tế bào ung thư xâm lấn các mô lân cận và có thể tách ra khỏi khối u ban đầu để di căn sang nơi khác trong cơ thể.

1.2. Các yếu tố nguy cơ

Các yếu tố nguy cơ ung thư nội mạc tử cung có thể bao gồm:

  1. Các yếu tố nguy cơ ung thư nội mạc tử cung liên quan đến sự tiếp xúc quá mức của nội mạc tử cung với estrogen, bao gồm liệu pháp estrogen không bị đối kháng [unopposed estrogen therapy], nghĩa là việc điều trị thay thế estrogen không có các progestin, có thể làm tăng nguy cơ ung thư nội mạc tử cung, có kinh đầu tiên sớm [early menarche], mãn kinh muộn [late menopause], liệu pháp tamoxifen, chưa sinh đẻ [nulliparity], vô sinh [infertility] hoặc không rụng trứng [failure to ovulate] và hội chứng buồng trứng đa nang [polycystic ovary syndrome].
  1. Các yếu tố nguy cơ ung thư nội mạc tử cung khác có thể gồm tuổi tăng, béo phì, tăng huyết áp, đái tháo đường và ung thư đại trực tràng không đa polyp di truyền [hereditary nonpolyposis colorectal cancer] [theo Braun MM, 2016 Mar 15].

2. Các dấu hiệu và triệu chứng

Khoảng 75% phụ nữ bị ung thư nội mạc tử cung là sau mãn kinh, triệu chứng phổ biến nhất là chảy máu sau mãn kinh. Đối với 25% ung thư nội mạc tử cung còn lại xảy ra ở bệnh nhân tiền mãn kinh [perimenopausal hoặc premenopausal], các triệu chứng gợi ý về ung thư nội mạc tử cung có thể ít hơn [theo Creasman WT, 2022 Apr 04].

Các dấu hiệu và triệu chứng của ung thư nội mạc tử cung có thể bao gồm:

  1. Chảy máu âm đạo bất thường, có vết máu hoặc bài tiết dịch khác. Khoảng 90% phụ nữ bị ung thư nội mạc tử cung bị chảy máu âm đạo bất thường. Điều này có thể là sự thay đổi trong kỳ kinh của họ, chảy máu giữa các kỳ kinh ở thời kỳ tiền mãn kinh hoặc chảy máu sau khi mãn kinh. Các vấn đề không phải ung thư cũng có thể gây chảy máu bất thường. Nếu một phụ nữ đã trải qua thời kỳ mãn kinh, điều đặc biệt quan trọng là phải báo cáo bất kỳ hiện tượng chảy máu âm đạo, ra máu hoặc tiết dịch bất thường nào cho bác sĩ. Tiết dịch âm đạo không lẫn máu cũng có thể là dấu hiệu của ung thư nội mạc tử cung. Khi có bất kỳ một dịch tiết bất thường nào nên được bác sĩ kiểm tra.
  1. Đau vùng chậu, có khối u vùng chậu và sụt cân. Đau ở vùng xương chậu, cảm thấy có khối u và sụt cân không rõ nguyên nhân cũng có thể là các triệu chứng của ung thư nội mạc tử cung. Các triệu chứng này phổ biến hơn trong giai đoạn sau của bệnh. Tuy nhiên, bất kỳ sự chậm trễ nào trong việc tìm kiếm trợ giúp y tế có thể khiến bệnh tiến triển thêm. Điều này làm giảm tỷ lệ điều trị thành công. Vì vậy, một phụ nữ khi có bất kỳ triệu chứng nào trong số các triệu trứng trên đều cần đi khám bệnh để bác sĩ kiểm tra [theo ACS 2022].

3. Các dấu ấn sinh học khối u huyết thanh

Các dấu ấn khối u sinh học huyết thanh thường được sử dụng trong chẩn đoán, theo dõi hiệu quả điều trị và tiên lượng ung thư nội mạc tử cung là CA125 và HE4. Giới han tham chiếu ở người khỏe mạnh bình thường của nồng độ CA-125 và HE4 huyết thanh tương ứng là

Chủ Đề