Nêu cảm nhận của em về sự giàu đẹp của biển và những suy ngẫm về lòng biển bao dung

Đề bài: Cảm nhận về bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" của Huy Cận Bài làm: Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của...

Posted by Luyện Văn lớp 9 tại Hà Nội onFriday, June 1, 2018

Cho câu thơ:

“Vân xem trang trọng khác vời”

Viết đoạn văn theo phương thức quy nạp [10 câu] nêu cảm nhận về vẻ đẹp của Thúy Vân trong đoạn trích vừa chép thơ. Trong bài viết có sử dụng lời dẫn trực tiếp và phép nối.

Viết một đoạn văn 12 câu, diễn tả cảm nhận của em về hình tượng “trăng” trong khổ thơ vừa chép. Đoạn thơ có sử dụng câu bị động và thành phần phụ chú.

Tuyển tập Cảm nhận đoạn thơ sau: Thuyền ta lái gió với buồm trăng hay nhất. Tổng hợp, sưu tầm các đề Cảm nhận đoạn thơ sau: Thuyền ta lái gió với buồm trăng đầy đủ nhất.

Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng,

Ra đậu dặm xa dò bụng biển,

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,

Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé,

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.

Ta hát bài ca gọi cá vào,

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.

Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.

1. Mở bài:

Giới thiệu về tác giả Huy Cận và bài thơ ” Đoàn thuyền đánh cá”.

– Giới thiệu nội đoạn thơ thứ ba, thứ 4

2. Thân bài:

– Nêu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.

– Khái quát các đoạn thơ trước và dẫn dắt tới nội dung của đoạn thơ thứ ba, thứ tư.

* Cảm nhận nội dung của đoạn thơ thứ 3:

-Tác giả cho bạn đọc thấy con tàu đánh cá như tàu chiến, những ngư dân như những người anh hùng trên biển khơi:

– Hình ảnh mạnh mẽ, hùng tráng: con thuyền đi nhanh như “lái gió”, cánh buồm trắng ôm trọn mặt trăng, thuyền đi “giữa mây cao với biển bằng”

– Động từ “lướt”: cảm giác đi như bay, mạnh mẽ

⇒ hình ảnh đẹp, con thuyền đi trên biển như thuyền có phép lạ bay trên mây.

– Việc đánh cá tài tình và đầy chiến thuật như đánh giặc: thuyền ra “dặm xa dò bụng biển”, “Dàn đan thế trận lưới vây giăng”. Những công việc được thực hiện một cách hào hứng, vui vẻ: ngư dân gõ mạn thuyền cho cá bơi vào lưới, giống như “hát bài ca gọi cá vào”.

– Cảm nhận về vẻ đẹp và sự đa dạng của các loài cá quý trong khổ thơ thứ 4 :

+ Tác giả liệt kê tên các loại cá ở biển như cá nhụ, cá chim, cá đé… những loại cá mang giá trị kinh tế

+ Biển không chỉ giàu mà còn đẹp thơ mộng: màu sắc lấp lánh của muôn loài cá [lấp lánh, đen hồng, vàng chóe] tất cả tạo nên tổng thể bức tranh sơn mài tuyệt đẹp của tạo hóa

+ Đêm ở biển được miêu tả sống động, mang hơi thở của cuộc sống [tiếng sóng nước hòa với nhịp gõ thuyền, hòa với sự khoáng đạt của trời cao biển rộng]

→ Như vậy tầm vóc của người và đoàn thuyền được nâng lên, hòa nhập vào kích thước của thiên nhiên, vũ trụ. Không còn cảm giác cô đơn, nhỏ bé của con người khi đối diện với trời rộng, sông dài trong thơ Huy Cận

3. Kết bài:

– Khẳng định giá trị của hai khổ thơ.

– Bày tỏ cảm nhận về nội dung bài thơ và niềm vui hăng say của con người lao động trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới.

Có ai đó từng cho rằng: một trong những nguồn gốc quan trọng của thơ ca chính là đời sống lao động của nhân dân. Điều đó hẳn đúng với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận. Bài thơ thực sự cất lên từ nhịp sống lao động hăng say, khoáng đạt của những người dân vùng chài. Qua bài thơ, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp và mối giao hòa giữa con người và thiên nhiên trên cái nền lộng lẫy, tráng lệ của vũ trụ biển cả. Đoạn thơ sau trong bài thơ tiêu biểu cho điều đó:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bồng,

Ra đậu dặm xa dò bụng biển,

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.

Ta hát bài ca gọi cá vào,

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.

Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.”

     Bài thơ được sáng tác trong chuyến đi công tác của Huy Cận tại vùng mỏ Hòn Gai, Quảng Ninh năm 1958 và được bắt nguồn từ cảm hứng ngợi ca công cuộc xây dựng chú nghĩa xã hội của miền Bắc tự do độc lập. Với ý nghĩa đó, bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là khúc tráng ca, ca ngợi con người laò động với tinh thần làm chủ và niềm vui, niềm tin trước cuộc sống mới trong những năm đầu xây dựng đất nước.

Ba khổ thơ trên nằm giữa bài thơ. Mở đầu bài thơ là hình ảnh hoàng hôn trên biển và những con thuyền đánh cá ra khơi. Người dân chài đến với biên lớn bằng một tinh thần lao động hăng say và tâm hồn khỏe khoắn “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Và biển cá bào la giàu có phóng khoáng dang tay đón họ:

“Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”.

Những khố thơ trên nối tiếp mạch cảm xúc đó.

Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

     Thuyền có lái, có buồm nhưng lái bằng gió, buồm là buồm trăng. Đoàn thuyền lướt đi trong đêm không phải bằng sức mạnh của con người mà bằng sức mạnh của câu hát hoà cùng sức mạnh của gió, cộng hướng sức mạnh của trăng: Bởi thế mà thuyền như lướt đi, như bay lên. Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé qua cảm hứng vũ trụ đã trở nên kỳ vĩ, khổng lồ, sánh ngang tầm với vũ trụ. Và trên con thuyền ấy, người như dần hiện lên trong tư thế làm chủ:

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng

     Đã qua rồi thời con người còn nhỏ bé, đơn độc trước sức mạnh bí ẩn của biển cả. Mang trong mình khí thế của người làm chủ, biển như hẹp lại đề con người “ra đậu dặm xa”, “dàn đan thế trận” và “dò bụng biển” để con người tìm tòi, khám phá. Họ đàng hoàng ra những nơi xa để bắt thiên nhiên phục vụ. Họ những dân chài mang theo cả sức trẻ, sức khoẻ, mang theo cả sự tìm tòi, khám phá để tung phá thế giới bí hiểm của thiên nhiên. Việc đánh bắt ấy như một trận chiến mà mỗi người lao động như một chiến sĩ.

Hát khi ra khơi, hát cho cuộc hành trình và những người lao động còn hát để ca ngợi sự giàu đẹp của biển cả:

Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

     Các loài cá được kể tên: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song đã nói lên sự phong phú, giàu có của biển. Không chỉ giàu mà biển còn rất đẹp:

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé

     Dưới ánh trăng, cá song quẫy mặt nước. Thân cá có khoang màu hồng lấp lánh như ánh sáng chuyến động dưới ngọn đuốc. Hình ảnh ấy cũng từng gợi hứng cho nhà thơ Chế Lan Viên viết nên câu thơ kì tài: “Con cá song cầm đuốc dẫn thơ về”. Có thể nói, với hình ảnh cá song, hai nhà thơ khôrig chỉ gặp nhau ở sức liên tưởng mà còn “cùng chí hướng” ở cảm hứng sáng tác: nghệ thuật bắt nguồn từ hiện thực, từ đời sống lao động của quần chúng nhân dân.

Đoạn thơ mang nhiều sắc ánh sáng: ánh sáng đen hồng, lấp lánh của cá song, ánh sáng vàng choé của trăng vỡ trên mặt nước. Những gam sắc ánh sáng hoà cùng bóng tối của màn đêm tạo ra bức tranh sơn mài lóng lánh sắc màu. Trong niềm xúc động, nhà thơ như thấy đâu đây hình ảnh những nàng tiên cá thần kì và do đó, Huy Cận đã viết một câu thơ thật thi vị, hữu tình: “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”. Hình ảnh ấy càng được tôn lên bội phần bởi một liên tương tài tình:

Đém thở sao lùa nước Hạ Long

     Hình ảnh nhân hoá thật độc đáo. Đêm vẫn thư giãn và thủy triều lên xuống tạo ra hơi thở của đêm. Những đốm sao bạt ngàn in trên mặt nước, trôi dạt trên đầu những ngọn sóng triều đập vào bãi cát được ví như: “lùa nước Hạ Long”. Sao với nước cũng Xuất hiện và tồn tại trong nhịp thở của đêm. Nối những miền không gian lại với nhau, thiên nhiên như bức tranh sơn mài tráng lệ và kỳ ảo.

Tiếng hát theo những người dân chài trong suốt cả cuộc hành trình và giờ đây tiếng hát cất lên là đế gọi cá vào lưới:

Ta hát hài ca gọi cá vào

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao

     Người dân gọi cá bằng tiếng hát và trăng tạo ra nhịp gõ. Động tác lao động bình thường: gõ nhịp vào mạn thuyền để dồn cá, qua lăng kính cảm xúc bỗng trở nên đẹp đẽ lạ thường. Trăng lên cao dần từng lúc, trăng tan vào nước biến, vỗ vào mạn thuyền làm nhịp hay con thuyền đang lướt dập dềnh bồng bềnh giữa biển khơi như chạm vỡ ánh trăng tạo thành nhịp. Công việc đánh bắt cá từ nặng nhọc bỗng trở nên thi vị lâng mạn. Từ sự giàu đẹp của biển là những suy ngẫm về lòng biển bao dung:

Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào

     Nhà thơ Huy Cận đã thật tài tình khi so sánh lòng biển với “lòng mẹ”. Biển cả dữ dội và bao la và lòng biên thẳm sâu không còn là điều kì bí, đáng sợ. Với nhà thơ, lòng biến mênh mông, rộng rãi đầy cá như tấm lòng mẹ bao dung, độ lượng. Chính lòng biển là lòng mẹ đã “nuôi lớn đời ta tự buổi nào”. Câu thơ là khúc tâm tình thiết tha với biển thân yêu, là lời cảm ơn biển, biển vừa bao la mà lại trĩu nặng yêu thương.

Bài thơ là sự kết hợp của hai nguồn cảm hứng: cảm hứng lãng mạn, tràn đầy niềm vui, sự hào hứng trong thời kỳ miền Bắc bước vào xây dựng cuộc sống mới và cảm hứng vũ trụ vốn là nét nổi bật trong hồn thơ Huy Cận. Sự gặp gỡ, giao hoà của hai nguồn cảm hứng đó đã tạo nên những hình ảnh rộng lớn, tráng lệ, lung linh như những bức tranh sơn mài của đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung.

Ngợi ca vẻ đẹp hùng tráng và thơ mộng của biển khơi, ngợi ca cuộc sống tưng bừng niềm vui xây dựng, bài thơ thực sự là tiếng hát cât lên từ hồn thơ Huy Cận đế dâng tặng cuộc đời. Mang trong mình cả phong vị cố điển nhưng lại rất hiện đại ở những liên tưởng bất ngờ, cảm hứng vũ trụ hoà cùng dòng cảm hứng lãng mạn, bài thơ mở ra một viễn cảnh thật huy hoàng và tràn đầy niềm tin vào một tương lai nhất định nở hoa.

Huy Cận là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam, đặc biệt là trong phong trào Thơ mới. Thơ của ông luôn có một phong cách rất riêng với những nhà thơ khác. Tiêu biểu cho các tác phẩm của ông trong thời kì mới là bài thơ Đoàn thuyền đánh cá. Bài thơ là lời ca ngợi thiên nhiên và con người lao động Việt Nam thời kì đất nước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đoàn thuyền đánh cá có những hình ảnh thơ vô cùng đẹp đẽ, đặc biệt là ba khổ thơ:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Nuôi lớn đời ta tự thuở nào”

     Ba khổ thơ trên là bức tranh thiên nhiên và con người lao động giữa biển khơi mênh mông. Đó là hình ảnh của những con người đang cố gắng hết sức mình đánh bắt từng đàn cá lớn để làm giàu cho quê hương đất nước. Hình ảnh những con người đang lao động giữa biển khơi to lớn thật hào hùng, kiên cường và mạnh mẽ biết bao.

Bài thơ là sự kết hợp giữa yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn. Thế nên, khi viết về những người lao động đang ra khơi đánh bắt cá, Huy Cận đã vẽ ra một khung cảnh lãng mạn vô cùng:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

     Đoàn thuyền của con người đang lướt đi dưới ánh trăng vàng đang chiếu trên mắt biển long lanh. Vốn đoàn thuyền ấy chỉ là những con thuyền nhỏ bé, bình thường, thế nhưng giờ đây nó đang dần trở lên khổng lồ, to lớn, để hòa nhập với kích thước bao la của vũ trụ. Con thuyền ấy giờ đây có bánh lái là gió, có cánh buồm là ánh trăng vàng, đang lướt đi thật nhẹ giữa mênh mông không trung bao la. Những hình ảnh “lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng” đã biến đổi đoàn thuyền bình thường trở thành một đoàn thuyền của vũ trụ, vừa to lớn, kì vĩ, lại vừa đẹp lộng lẫy dưới ánh trăng. Giữa lúc này đây, dường như không trung vô tận kia đang hòa cùng với mặt biển làm một thể thống nhất đưa con thuyền trôi ra ngoài dặm xa. Ở ngoài đây, con thuyền đang chăm chú đậu lại, để “dò bụng biển”. Hành động dò tìm này phải chăng là hành động tìm kiếm những đàn cá lớn, tìm tòi những điều bí ẩn thế giới biển cả để đánh bắt, để học hỏi của những người ngư dân trên biển? Hành động ấy vừa để phát hiện ra luồng cá lớn vừa như để thăm dò ẩn ý của mẹ biển cả, liệu người có bằng lòng để chúng con được mang về thật nhiều cá lớn mà làm giàu cho quê hương? Con người và thiên nhiên ở đây hiện lên đều thật hùng vĩ và to lớn. Con người chẳng phải là những vật thể nhỏ bé giữa vũ trụ biển cả bao la nữa, mà họ cũng vụt trở lên thật to lớn, thật sinh động vô cùng. Họ đang trong tư thế làm chủ thiên nhiên, bởi vậy nên họ mới mạnh dạn “dàn đan thế trận lưới vây giăng”. Đây là một hành động chuẩn bị cho việc đánh bắt một mẻ cá lớn.

Huy Cận đã vẽ lên một bức tranh với thiên nhiên và con người lao động cùng nhau hòa quyện. Thiên nhiên trong đó thật vừa rộng lớn, bao la, lại vừa đẹp đẽ muôn phần nhưng con người trong bức tranh ấy của Huy Cận chẳng còn là những chủ thể yếu đuối trước thiên nhiên vũ trụ nữa. Ở đây, trong bức tranh này, họ đang đứng hiên ngang trước thiên nhiên, làm chủ thiên nhiên, sánh ngang tầm với thiên nhiên, dù thiên nhiên ấy còn biết bao điều bí ẩn mà họ chưa khám phá được hết. Thế mới hiểu rõ, con người Việt Nam sau chiến tranh đã trưởng thành, lớn lao, mạnh mẽ, kiên cường như thế nào trước bao sóng gió bão tố!

Bước sang một khổ thơ khác, người đọc chúng ta lại được Huy Cận dẫn tới một bức tranh khác. Bức tranh ấy vẫn là chủ đề thiên nhiên, thế nhưng thiên nhiên trong đó không chỉ có mỗi ánh trăng vàng, mặt biển xanh mà giờ đây nó còn lấp lánh đầy sắc màu khác nữa. Đó là sắc màu của những loài cá biển:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”

     Quả là một bức tranh rực rỡ sắc màu và thật sống động. Nào là màu lấp lánh, “vàng chóe”, nào đen, nào hồng,… đủ màu đủ sắc, đủ thanh âm, thật đặc sắc biết chừng nào! Khổ thơ mở đầu bằng một loạt tên của những loài cá biển vốn là những loài cá đặc biệt chỉ có của vùng biển Hòn Gai, Quảng Ninh. Nào cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song – toàn là những loài cá đặc sản, thế mới thấy được biển cả Việt Nam giàu có, phong phú đến nhường nào! Không chỉ vậy, biển cả còn hiện lên thật đẹp khi:

“Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”

     Cá song – một loài cá đặc sản của vùng biển Việt Nam, với đặc trưng là chiếc đuôi đen đỏ, giờ đây trong con mắt đa tình của người thi sĩ, nó bỗng trở thành một bó đuốc giữa lòng biển khơi. Bó đuốc ấy thắp sáng lên cả một vùng biển rộng tăm tối, để vùng biển ấy vụt sáng lên, óng ánh lên thứ ánh đuốc đen hồng. Chưa từng có trong thi ca một hình ảnh so sánh mĩ miều đến vậy! Phải là người có trí tưởng tượng thật phong phú, đôi mắt quan sát thật tinh tường thì Huy Cận mới có thể nhận ra được cái thứ đặc trưng đặc sắc này của mỗi loài cá biển. Không chỉ thắp lên một ánh đuốc sáng bừng cả đại dương, trong mắt Huy Cận, những chú cá biển ấy như những cô em gái lém lỉnh, tinh nghịch, đang quẫy thật mạnh chiếc đuôi lóng lánh của mình trên mặt nước. Và thế là, giữa mặt nước mênh mông, ánh trăng “vàng chóe” bắn lên không trung vừa đẹp lóng lánh, lại tươi mát lạ lùng. Ở đây Huy Cận đã dùng một tính từ tả màu sắc rất nổi bật “vàng chóe” – thứ ánh vàng vừa óng ánh lại vừa đặc biệt, nó đã làm câu thơ bật lên nghe rất âm vang. Kết lại khổ thơ, Huy Cận viết:

“Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”

     Đây là một hình ảnh nhân hóa, nhưng lại độc đáo một cách thật thú vị. Màn đêm đang thở, đang dùng những nhịp thở của mình để thổi vào không gian tĩnh mịch của biển cả bao la. Cái tiếng thở ấy của đêm phải chăng là âm thanh của tiếng nước thủy triều đang nhấp nhô nâng hạ? Từng đợt thủy triều cuốn vào bờ cát rồi lại chạy thật nhanh ra xa và Huy Cận như cảm thấy như màn đêm đang phập phồng hơi thở: sao lùa nước Hạ Long? Những miền, những chiều không gian khác nhau nhưng lại được Huy Cận nối lại thành một cách liền mạch. Không gian của đêm, của biển, của sao trời và ánh trăng đã nối thành một điểm và ở giữa điểm đó là hình ảnh của những con người lao động đang miệt mài với công việc của mình.

Cả khổ thơ là lời ca ngợi của Huy Cận đối với sự giàu có của biển cả mênh mông. Bằng con mắt của nhà thi sĩ yêu đời, Huy Cận đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên cùng muôn vàn loài cá khác nhau thật đẹp đẽ. Bức tranh ấy vừa đầy màu sắc, nhưng lại không kém phần lung linh, sinh động biết bao.

Những câu hát của người dân làng chài đã vang lên như một bản nhạc từ những câu thơ đầu tiên, và giờ đây nó lại tiếp tục vang lên thêm lần nữa:

“Ta hát bài ca gọi cá vào

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao

Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự thuở nào”

     Nếu như những câu hát đầu tiên ở những khổ thơ đầu là những câu hát để căng lên tấm buồm lớn lướt thật nhanh ra khỏi thì ở đây, những câu hát này lại là những câu hát “gọi cá vào”. Những lời ca vang lên thật rõ trong không trung tĩnh lặng của màn đêm và biển cả. Cùng với tiếng nhịp phách gõ vào mạn thuyền, đó là bài ca gọi cá đến hay chính là những thanh âm mà người dân chài dùng để dồn cá vào lưới? Hòa quyện trong câu hát ấy là ánh trăng trên cao vời vợi, ánh trăng soi tỏ từng hành động của con người, ánh trăng như gõ nhịp cho con người, cổ vũ họ trong cuộc chiến với thiên nhiên. Từng nhịp cá vang lên dồn dập, càng cho thấy mẻ cá vào lưới càng nặng tay – một mùa cá bội thu. Con thuyền bồng bềnh trôi trên sóng nước với ánh trăng vàng làm bạn, với lời ca vang như tiếp thêm sức mạnh để những người ngư dân thêm sức mạnh để kéo những mẻ lưới đầy.

Nhìn từng mẻ lưới nặng tay của họ, Huy Cận chợt có những suy ngẫm thật lặng về biển cả:

“Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự thuở nào”

     Biển ở đây được Huy Cận ví như một người mẹ. Một người mẹ luôn bao dung, che chở cho những đứa con của mình, một người mẹ sẽ luôn dành cho những đứa con những gì tốt đẹp nhất, và luôn luôn là vậy, như câu thơ “nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, chẳng bao giờ vơi cạn. Thật vậy, “biển cho ta cá”, luôn hào phóng với chúng ta, không bao giờ giữa lại gì cho riêng mình. Đây là một hình ảnh so sánh thật tài tình, mang đầy lòng biết ơn, kính trọng của Huy Cận với mẹ biển cả, với sự hào phóng của thiên nhiên. Biển đã cho ta, nuôi ta lớn khôn từ những ngày ta còn thơ bé, nuôi lớn chúng ta qua bao thế hệ con người. Phải, chúng ta thực lòng phải cảm tạ biển cả mênh mông đã cho ta của cải, nuôi lớn ta, giúp ta làm giàu cho quê hương đất nước. Lời thơ vang lên như lời tâm tình, như lời thủ thỉ của con người dành cho mẹ biển bao la. Đó là lời cảm ơn, lời biết ơn sâu sắc gửi tới biển, bởi biển hào phóng quá, yêu thương trìu mến quá!

Khép lại khổ thơ, chúng ta cảm nhận được sự miệt mài của những người dân chài lưới trước công việc của mình. Đồng thời, chúng ta cũng cảm nhận được sự kính yêu của họ đối với biển cả, sự biết ơn, yêu thương trìu mến của họ dành cho biển. Với họ, biển là mẹ, là một phần máu thịt gần gũi thân thương đối với họ.

Ba khổ thơ là hình ảnh của thiên nhiên và con người trong công cuộc đánh bắt cá. Nõ vừa đẹp lãng mạn lại vữa mang một màu sắc hiện thực thật rõ ràng. Có thể nói, Huy Cận đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên và những người dân chài thật đầy màu sắc. Cùng với đó, nghệ thuật mà Huy Cận sử dụng trong đoạn thơ trên như so sánh, liệt kê, nhân hóa cũng góp phần tạo nên đặc sắc cũng như thành công cho đoạn thơ.

Video liên quan

Chủ Đề