Nhân phẩm của con người là gì

Nhân phẩm là phẩm chất của 1 con người. Danh dự là những gì tốt đẹp mà người khác được biết về người đó. Có nhiều điều giống nhau, trùng lặp. Có những nét khác nhau. Phẩm chất và danh dự là hai mặt của một vấn đề để tạo nên một con người hoàn chỉnh: phẩm chất là cốt lõi bên trong, danh dự là hình thức bên ngoài vậy.

Nhân phẩm là phẩm chất tốt đẹp hay xấu xa từ cá nhân của một con người tạo nên, thí du người đó có nhân cách tốt, không làm điều bôi lọ phẩm cách mình, là người có nhân phẩm tốt, và ngược lại

Từ lâu người ta đã coi gia đình là tế bào của xã hội. Tế bào gia đình khỏe mạnh, xã hội sẽ lành mạnh, mọi người đều có cơ hội phát triển và hưởng hạnh phúc. Tế bào gia đình lỏng nẻo, không đảm đương tốt các vai trò và chức năng của mình, xã hội có nguy cơ xáo động ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống vật chất và tinh thần của mọi thành viên trong xã hội.

Củng cố nền tảng gia đình luôn là mối quan tâm của các quốc gia trên thế giới.

Trong xã hội, gia đình có các chức năng cơ bản:

- Chức năng thỏa mãn tình cảm giữa các thành viên trong gia đình: thoả mãn tình cảm tinh thần và thể xác giữa hai vợ chồng; thỏa mãn tình cảm giữa cha mẹ và con cái [sống vì nhau], tình cảm giữa anh chị em trong gia đình [thương yêu, đùm bọc lẫn nhau]. Phần đông mọi người trong xã hội đều coi gia đình là “tổ ấm”, nơi người ta đi về, nơi người ta chia sẻ với nhau về niềm vui, nỗi buồn, tức là nơi tình cảm của con người được thỏa mãn.

- Chức năng sinh sản: Chức năng này tồn tại một cách tự nhiên, vì xã hội chỉ tồn tại được khi hành vi sinh sản vẫn còn được duy trì. Chức năng này được coi là một giá trị của gia đình mà từ cổ chí kim loài người phải thừa nhận. Bản thân F. Engel, một nhà duy vật vĩ đại cũng cho rằng theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử suy cho cùng là... sự tái sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống. Chức năng sinh sản của gia đình là một giá trị trường tồn.

- Chức năng giáo dục: Theo lý thuyết gia đình là “tế bào của xã hội, là yếu tố đầu tiên và cơ bản của quá trình giáo dục”. Gia đình là nơi đại bộ phận trẻ em được người lớn thường xuyên giáo dục: “Dạy con từ thưở còn thơ”. Trong môi trường gia đình, trẻ bắt đầu hình thành nhân cách, lối sống và đặc biệt là nhân sinh quan. Các bậc phụ huynh, nhất là các bà, các mẹ có ảnh hưởng rất lớn tới tương lai của đứa trẻ: Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà.

- Chức năng xã hội hoá: Có thể coi gia đình là một xã hội thu nhỏ. Mỗi thành viên là một tính cách. Việc va chạm các tính cách khác nhau trong một gia đình là môi trường đầu tiên để trẻ em học cách hoà hợp với cộng đồng.

- Chức năng kinh tế: Cho đến nay gia đình vẫn còn là một đơn vị sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Hơn thế nữa nó cũng là đơn vị tiêu dùng chủ yếu các sản phẩm do nền kinh tế sản xuất ra, do vậy nó là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.

Gia đình là một thực thể xã hội. Sự tồn tại của nó được xã hội thừa nhận. Như vậy bản thân gia đình đã mang một giá trị xã hội. Chính các chức năng của gia đình mới đem lại cho nó một giá trị đích thực. Cho đến nay các chức năng cơ bản của gia đình vẫn còn giữ nguyên giá trị. Sự thừa nhận các chức năng của gia đình tức là đã thừa nhận gia đình là một giá trị trong xã hội.

[Last Updated On: 31/07/2021]

Danh dự và nhân phẩm là gì?

Nhân phẩm là gì?

a/ Khái niệm nhân phẩm :

Nhân phẩm chỉ nhân cách của một con người như là đối tượng của sự đánh giá về mặt đạo đức, là toàn bộ phẩm chất của một cá nhân, là bản chất người trong một con người, là giá tri làm người của một con người.

b/ Những yếu tố của ý thức tự tôn nhân phẩm

Ý thức tự tôn nhân phẩm là ý thức được giá trị của mình với tư cách là một con người. Trong ý thức tự tôn nhân phẩm có sự tác động biện chứng giữa lòng trung thành đối với nghĩa vụ, ý thức tự do và sự nhìn nhận kính trọng xã hội.

– Lòng trung thành với nghĩa vụ:

Con người càng có ý thức cao về lòng tự trọng bao nhiêu thì con người càng trung thành với nghĩa vụ trước người khác và xã hội, càng yêu con người bấy nhiêu. Người nào biết quý trọng danh dự và nhân phẩm của mình, biết tự trọng thì người đó mới biết xem trọng trách nhiệm mình đối với xã hội, biết thương yêu con người và muốn làm mọi việc để phục vụ cho hạnh phúc của con người.

– Ý thức tự do:

Ý thức tự tôn nhân phẩm có được khi tự mỗi người ý thức được rằng mình là một thành viên có ích cho xã hội. Đồng thời ý thức được rằng mình làm điều có ích cho xã hội không bị một sự cưỡng bức nào mà do chính ý chí của riêng mình quyết định. Sự ý thức được rằng mình không bị cưỡng bức tức là ý thức được mình tự do. Đây là nội dung quan trọng bậc nhất của lòng tự trọng và của ý thức tự tôn nhân phẩm.

– Sự nhìn nhận và kính trọng của xã hội:

Khái niệm “nhân phẩm” bao hàm yếu tố đánh giá, giá trị. Không có sự đánh giá thì không có giá trị. Cần có sự đánh giá về mặt khách quan và chủ quan của hành vi để khẳng định nhân phẩm của một con người. Phải có sự nhìn nhận của xã hội hoặc ít ra là của một người khác về cái thiện ở một con người để khẳng định ý nghĩa của nhân phẩm trong xã hội. Với ý nghĩa này khái niệm ý thức nhân phẩm nhất thiết gắn liền vối những khái niệm: nhìn nhận, kính trọng, tôn kính, danh giá và quang vinh. Sự đánh giá của cá nhân và của người khác về nhân phẩm của cá nhân là nội dung của danh giá và danh dự.

Mục đích đạt được sự nhìn nhận của xã hội và có được tiếng tốt chỉ có giá trị đạo đức trong trường hợp nó là một động lực bổ sung, không phải là động cơ chủ yếu của hành vi. Nếu động cơ của hành vi không phải là khát vọng vươn tới bản thân điều thiện, khát vọng thực hiện nghĩa vụ mà là việc chạy theo quang vinh và sự nhìn nhận của xã hội thì đây là sự hiếu danh.

Sự quý trọng của người khác và xã hội là một trong những điều kiện phát triển của đạo đức, nó đảm bảo cho sự tiến bộ đạo đức của xã hội. Vì vậy cần có sự khuyến thiện, khen thưởng của xã hội.

Lòng tin vào sự nhìn nhận của xã hội là một yếu tố kích thích đối với hành vi đạo đức và sự giữ gìn nhân phẩm, nhất là trong trường hợp đối với người trung thực, trung kiên mà bị bức hại.[ Các chiến sĩ Cộng Sản bị tù đày, bị tra tấn dã man, thậm chí chấp nhận cả sự hy sinh tính mạng của mình để bảo vệ tổ chức cách mạng và đồng đội với niềm tin vào các giá trị của xã hội. Ông Nguyễn Minh Tánh ở Bình Thuận [ năm 1998] dù bị bức hại nhưng ông vẫn kiên trì tìm cách tố cáo bọn phá rừng Tánh Linh với niềm tin vào cái thiện sẽ thắng cái ác

Đạo đức học Mácxít dựa vào nguyên tắc hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội nên coi trọng cả 3 yếu tố: ý thức tự do, nghĩa vụ và sự nhìn nhận của xã hội . Các yếu tố này tác động qua lại lẫn nhau không thể thiếu được nhưng trước hết phải là lòng trung thành với nghĩa vụ.

Danh dự là gì?

a/ Khái niệm danh dự

Danh dự là lòng tôn trọng và ý thức bảo vệ gìn giữ những gì tốt đẹp mà bản thân chủ thể lấy làm tự hào và được xã hội nhìn nhận.

Danh dự của một con người là nhân phẩm tốt đẹp của người đó thể hiện trong một vai trò, vị trí của mình và được xã hội nhìn nhận. Danh dự con người là một mặt của nhân phẩm. Ví dụ: danh dự là người Việt Nam, danh dự làm cha, danh dự làm thầy…Cái cốt lỏi của danh dự là nhân phẩm .

b/ Ý nghĩa của danh dự và ý thức tự tôn nhân phẩm trong đời sống con người :

  • Ý thức tự tôn nhân phẩm gắn liền với tính người: Ai không có ý thức về nhân phẩm thì người đó không biết tự trọng. Ở đâu không có tự trọng thì ờ đó không thể có tình cảm nghĩa vụ và đạo đức cao quý. Không có ý thức nhân phẩm không thể có con người chân chính. Điều đó giải thích vì sao có những người “thà chết vinh hơn sống nhục”.
  • Ý thức tự tôn nhân phẩm làm cho con người cảm thấy hạnh phúc: Sự thực hiện nghĩa vụ bao giờ cũng kèm theo sự thích thú, niềm vui đạo đức, nhưng nghĩa vụ không phải được thực hiện vì niềm vui mà vì bản thân nghĩa vụ, vì hạnh phúc của xã hội. Spinoza: “hạnh phúc chân chính, hạnh phúc cao nhất ở bản thân đạo đức, tức là ở cuộc sống lương thiên, trung thực”.
  • Danh dự và nhân phẩm tạo nên uy tín của con người. Người có uy tín là người có danh dự và nhân phẩm được xã hội thừa nhận chứ không phải là sự tự thừa nhận của bản thân. Trong cuộc sống có nhiều người muốn tạo uy tín cho mình bằng nhiều cách như: tạo khoảng cách với những người xung quanh, vuốt ve, xu nịnh, mị dân, ô dù cấp trên. Uy tín thật cho con người tình cảm tự hào. Tự cao, ngạo mạng và hiếu danh hoàn toàn xa lạ với uy tín của con người.

Các phạm trù Thiện – Ác, lẽ sống, hạnh phúc, nghĩa vụ, lương tâm, danh dự quan hệ chặt chẽ nhau. Chúng là lý tưởng đạo đức có vai trò định hướng cho các chuẩn mực đạo đức của xã hội. Nội dung đạo đức học Macxit về các phạm trù đạo đức đem lại cho con người những định hướng đúng đắn trong đời sống đạo đức.

Nhân phẩm hay phẩm giá con người là quyền của một người được coi trọng và tôn trọng vì lợi ích của chính họ, và được đối xử có đạo đức. Nó có ý nghĩa về đạo đức, đạo đức, luật pháp và chính trị như là một sự mở rộng của các khái niệm thời kỳ Khai sáng về các quyền vốn có, không thể thay đổi. Thuật ngữ này cũng có thể được sử dụng để mô tả hành vi cá nhân, như trong "hành xử với nhân phẩm".

Sinh vật sống. Về mặt sinh vật, con người là bộ phận của tự nhiên, sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài trong tự nhiên; chịu sự tác động của các quy luật sinh học tự nhiên. Con người cũng có những nhu cầu tự nhiên giống các loài vật khác và từ đó hình thành nên nhu cầu quyền tự nhiên của con người là: tồn tại, ăn, ở, sinh sản, đi lại.

Có ngôn ngữ, có lý trí: đây là phẩm giá đặc biệt của con người hình thành nên nhu cầu quyền về tự do tư tưởng, ngôn luận, niềm tin.

Là thực thể xã hội. Về mặt xã hội, con người chỉ tồn tại với tính cách là con người khi được sống trong môi trường xã hội; chịu sự tác động của các quy luật xã hội, các quy luật tâm lý. Bản chất xã hội của con người được hình thành và thể hiện tập trung ở hoạt động lao động sản xuất. Mặt xã hội là phương thức, là điều kiện cho con người thoả mãn nhu cầu sinh vật. Con người muốn thoả mãn nhu cầu sinh vật phải dựa vào lao động sản xuất và yếu tố xã hội góp phần tăng thêm hoặc làm giảm đi sức mạnh của yếu tố sinh vật. Từ nhân phẩm này, con người có nhu cầu về lao động, học tập, giải trí, chính trị, văn hóa, xã hội...

Có năng lực sáng tạo, từ đó có nhu cầu quyền về làm việc, nghiên cứu, sáng tạo nghệ thuật...

Có tình cảm, từ đó có nhu cầu quyền về yêu, đối xử khoan dung, nhân đạo...

Ham hiểu biết, từ đó có nhu cầu về giáo dục, đào tạo...

Con người thường sử dụng từ "nhân phẩm" theo cách thức tuyên bố và thận trọng: ví dụ, trong chính trị, nó có thể được sử dụng để phê phán cách đối xử của các nhóm và dân tộc bị áp bức và dễ bị tổn thương, nhưng nó cũng đã được áp dụng cho các nền văn hóa và văn hóa phụ, đến niềm tin và lý tưởng tôn giáo, và thậm chí cả động vật được sử dụng làm thực phẩm hoặc nghiên cứu.

"Nhân phẩm" cũng có ý nghĩa mô tả liên quan đến giá trị của con người. Nói chung, thuật ngữ này có nhiều chức năng và ý nghĩa khác nhau tùy thuộc vào cách sử dụng thuật ngữ và bối cảnh.[1]

Trong cách sử dụng hiện đại thông thường, từ này biểu thị "sự tôn trọng" và " địa vị", và nó thường được sử dụng để gợi ý rằng ai đó không nhận được một mức độ tôn trọng thích hợp, hoặc thậm chí họ không đối xử với lòng tự trọng đúng đắn. Ngoài ra còn có một lịch sử lâu dài về việc sử dụng triết học đặc biệt của thuật ngữ này. Tuy nhiên, nó hiếm khi được định nghĩa đầy đủ trong các cuộc thảo luận chính trị, pháp lý và khoa học. Các tuyên bố quốc tế cho đến nay vẫn chưa xác định được rõ ràng về nhân phẩm,[2][3] và các nhà bình luận khoa học, chẳng hạn như những người tranh luận chống lại nghiên cứu di truyền và sinh học tổng hợp, trích dẫn nhân phẩm là một lý do nhưng lại mơ hồ về ứng dụng của nó.[4]

  1. ^ Shultziner, Doron [2003]. “Human Dignity - Functions and Meanings”. Global Jurist. 3 [3]: 1–21. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2015.
  2. ^ "Those provisions concerning human dignity have not been authoritatively interpreted or applied by any of the competent, independent, international institutions." Bartha Maria Knoppers, Human Dignity and Genetic Heritage: Study Paper [Law Reform Commission of Canada, 1991], note, at 23. None of the international proclamations make dignity the rare quality that some commentators say it should be.
  3. ^ Myres S. McDougal, Harold D. Lasswell, and Lung-chu Chen, Human Rights and World Public Order: The Basic Policies of an International Law of Human Dignity [New Haven: Yale UP, 1980], note, at 376.
  4. ^ Harees, Lukman [ngày 16 tháng 1 năm 2012]. The Mirage of Dignity on the Highways of Human 'progress': - the Bystanders' Perspective -. AuthorHouse [xuất bản 2012]. tr. 79. ISBN 9781467007733. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2014. Even in recent times, when dignity of the human came into scientific discourses especially in the area of genetic related research, the scientific commentators, such as those arguing against such researches and algeny, cite dignity as a reason but are ambiguous about its application. [Italics in original]

Wikiquote có sưu tập danh ngôn về:

Nhân phẩm

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Nhân phẩm.
  • El Bernoussi, Zaynab [2014]. “The postcolonial politics of dignity: From the 1956 Suez nationalization to the 2011 Revolution in Egypt”. International Sociology. 30 [4]: 367–82. doi:10.1177/0268580914537848.
  • Andorno, Roberto. "Human dignity and human rights as a common ground for a global bioethics". Journal of Medicine and Philosophy, 2009, 34[3]:223–40.
  • Saccà, Luigi. "A Biophilosophical Model of Human Dignity: The Argument from Development in a Four-Dimensionalist Perspective". International Journal of Applied Philosophy, 2013, 27[2]:175–94. doi:10.5840/ijap20131221
  • Folot, Eric. "Human Dignity [Part 1]: Its Critics" //papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=2354171 and //www.legavox.fr/blog/ethos/dignite-humaine-partie-detracteurs-12702.htm
  • Thomas De Koninck, De la dignité humaine, Paris, Quadrige/PUF, 1995, 2nd ed. in 2002 [Award "La Bruyère" of the Académie française, 1996].
  • Thomas De Koninck, "Protecting Human Dignity in Research Involving Humans", Journal of Academic Ethics, vol. 7, issue 1–2, 2009, pp. 17–25.
  • Pele, Antonio. [tiếng Tây Ban Nha] Una aproximación al concepto de dignidad humana Universitas. Revista de filosofía, derecho y política [Spain], Nº. 1, 2004 2005, pp. 9–13.
  • Piechowiak, Marek. Plato's Conception of Justice and the Question of Human Dignity. Berlin: Peter Lang, 2019.
  • Sweet, William. [1]. 'Whose Dignity is it Anyway? Lecture presented as part of the 'Breakfast on the Hill' series, Parliament Hill, Ottawa, Canada, May 2007.
  • Dignity Spiritualwiki
  • Dilley, Stephen and Nathan Palpant [eds.], Human Dignity in Bioethics. From Worldviews to the Public Square. New York: Routledge, 2013. [2]
  • Spiegel, Alix: For The Dying, A Chance To Rewrite Life, Radio Feature about dignity therapy, an end-of-life treatment created Harvey Chochinov, NPR, 12. September 2011 [link checked 15. Octobre 2014].
  • Salehi, Hamid Reza. "Human Dignity From the Viewpoint of Iranian Law", Journal of Bioethical Inquiry, Volume 10, Issue 2, June 2013, 135–136. doi:10.1007/s11673-013-9437-8.

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Nhân_phẩm&oldid=65834841”

Video liên quan

Chủ Đề