Nhận thức rủi ro du lịch và hành vị du lịch trong đại dịch COVID-19

Giai đoạn 2016-2019, Việt Nam chứng kiến những bước đi thần tốc của du lịch nước nhà với các mốc tăng trưởng kỷ lục về cả lượng khách quốc tế, nội địa và tổng thu từ du lịch. Năm 2019, Việt Nam được đánh giá là một trong 10 quốc gia có mức tăng trưởng du lịch nhanh nhất thế giới, cụ thể: khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đạt hơn 18 triệu lượt khách [tăng 16,2% so với năm 2018], khách du lịch nội địa đạt khoảng 85 triệu lượt khách, tổng thu từ du lịch đạt khoảng 755 nghìn tỷ đồng, chiếm gần 10% GDP. Tuy nhiên, từ năm 2020, trước những ảnh hưởng liên tiếp từ dịch Covid-19, cũng như cục diện chung của du lịch thế giới, ngành công nghiệp không khói nước nhà đã rơi vào tình trạng khủng hoảng “chạm đáy”.

Bộ trưởng Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng cho biết: Từ khi đại dịch bùng phát, các chỉ tiêu phát triển liên tục sụt giảm nghiêm trọng. Năm 2020, từ cuối tháng 3, Việt Nam dừng đón khách quốc tế nên lượng khách giảm 80% so với năm 2019, chỉ đạt 3,7 triệu lượt; khách du lịch nội địa giảm 34% so với cùng kỳ năm 2019, đạt 56 triệu lượt; tổng thu từ khách du lịch giảm 59% so với năm 2019, đạt 312.200 tỷ đồng. Năm 2021 là năm thứ hai du lịch tiếp tục chịu ảnh hưởng thiệt hại, các chỉ tiêu phát triển du lịch tiếp tục giảm mạnh. Ước tính cả năm 2021, lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam chỉ đạt 14.900 lượt; lượng khách du lịch nội địa đạt 40 triệu lượt; tổng thu từ khách du lịch đạt 180 nghìn tỷ đồng.

Khoảng 90-95% số lượng doanh nghiệp du lịch phải dừng hoạt động [trừ một số rất ít doanh nghiệp tổ chức tour nội tỉnh]. Nhiều doanh nghiệp buộc phải chuyển ngành nghề, đổi mô hình kinh doanh hay cắt giảm phần lớn nhân sự. Năm 2020, có 338/2.519 doanh nghiệp lữ hành quốc tế xin thu hồi giấy phép, 90% doanh nghiệp đóng cửa. Sang năm 2021, lượng doanh nghiệp lữ hành xin thu hồi giấy phép kinh doanh lữ hành chiếm trên 35% tổng số đã được cấp phép, phần còn lại dừng hoạt động. Các doanh nghiệp kinh doanh vận chuyển khách du lịch cũng dừng hoạt động vì không có khách.

Ở mảng lưu trú, năm 2020, công suất phòng trung bình cả nước giảm 70-80% so với năm 2019. Năm 2021, các khách sạn hầu như không có khách trừ một số cơ sở đón khách cách ly. Đến nay, tổng số cơ sở lưu trú du lịch trong toàn quốc là 38 nghìn với 780 nghìn buồng, công suất phòng trung bình năm ước tính chỉ đạt 5%. Nhân lực ngành du lịch phần lớn bị mất việc làm, số ít còn lại làm việc cầm chừng. Người lao động phải chuyển đổi sang ngành nghề khác để kiếm sống. Năm 2020, các doanh nghiệp lần lượt phải cắt giảm nhân sự từ 70-80%. Sang năm 2021, số lượng lao động làm đủ thời gian chỉ bằng 25% so với năm 2020, lao động nghỉ việc hoặc chấm dứt hợp đồng lao động chiếm khoảng 30%, lao động tạm nghỉ việc khoảng 35%, lao động làm việc cầm chừng chiếm 10%.

Do ảnh hướng dịch Covid-19, khách du lịch trong nước và quốc tế giảm mạnh. Việt Nam chỉ đón 14.900 lượt khách quốc tế năm 2021. [Số liệu: Tổng cục Thống kê]

Do ảnh hướng dịch Covid-19, khách du lịch trong nước và quốc tế giảm mạnh. Việt Nam chỉ đón 14.900 lượt khách quốc tế năm 2021. [Số liệu: Tổng cục Thống kê]

Do không có khách du lịch, nhiều cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch, các điểm tham quan, di tích, khu vui chơi giải trí... đều bị thiệt hại lớn, đến nay vẫn chưa mở cửa lại hoàn toàn. Tại nhiều địa phương, du lịch không còn vai trò là đông lực thúc đẩy phát triển nhiều ngành, nghề khác như sản xuất nông nghiệp [thực phẩm, đặc sản...], nghề thủ công [sản xuất quà lưu niệm], giao thông...; những sản phẩm du lịch trước đây đã có thương hiệu, sức cạnh tranh cao nay cũng suy giảm nhiều về hình ảnh, năng lực cạnh tranh và hiệu quả đầu tư.

Covid-19 cũng mang đến một số ảnh hưởng tích cực mà trước hết là sự thay đổi nhận thức về vai trò của du lịch đối với hoạt động kinh tế, xã hội. Khi hoạt động du lịch trầm lắng, không có khách du lịch, nhiều địa phương nhận thấy rõ hiệu ứng tác động của du lịch đối với sự phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương. Vai trò của công nghệ hiện đại “không tiếp xúc”, “không chạm”, chuyển đổi số cũng được khẳng định. Bộ trưởng Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng

Một số chủ cơ sở lưu trú du lịch tranh thủ thời gian ngừng hoạt động để chỉnh trang, đầu tư cơ sở vật chất mới, nâng cấp dịch vụ. Một số điểm đến du lịch mới, sản phẩm mới, đặc biệt là các sản phẩm du lịch sinh thái, du lịch nông nghiệp theo hướng tăng trưởng xanh được hình thành và có cơ hội thu hút khách du lịch trong bối cảnh mới...

Đại diện Vietnam Airline cho rằng: dịch Covid-19 mở ra nhiều cơ hội để thúc đẩy tiềm năng ứng dụng công nghệ số và chuyển đổi số mạnh mẽ. Riêng du lịch và hàng không, Covid-19 cũng khiến 2 ngành này phải tăng cường liên minh, hợp tác nhằm hướng đến xây dựng các sản phẩm du lịch kiểu mới, vừa thu hút khách du lịch trở lại sau khi dịch bệnh được kiểm soát và các biện pháp hạn chế đi lại được gỡ bỏ, vừa hỗ trợ 2 ngành cùng phục hồi và phát triển hậu Covid-19.

Vietnam Airlines và Vinpearl ký kết hợp tác chiến lược phát triển hàng không-du lịch an toàn. [Ảnh: TTXVN]

Vietnam Airlines và Vinpearl ký kết hợp tác chiến lược phát triển hàng không-du lịch an toàn. [Ảnh: TTXVN]

Mặc dù vậy, theo đánh giá của các chuyên gia, những tác động tích cực nói trên vẫn không thể bù đắp được những tác động tiêu cực mà đại dịch đã gây ra cho hoạt động du lịch. Muốn lấy lại đà tăng trưởng du lịch, đòi hỏi phải có những chính sách tháo gỡ khó khăn và định hướng, giải pháp phát triển kịp thời, đúng hướng.

Du lịch hạn chế tiếp xúc như một hành vi bảo vệ sức khỏe khi du lịch do con người cảm nhận những rủi ro do dịch COVID-19. Nghiên cứu kết hợp Thuyết Hành vi có hoạch định [TPB] với Mô hình niềm tin sức khỏe [HBM] để kiểm định tác động của cảm nhận rủi ro, thái độ, chuẩn chủ quan, nhận thức kiểm soát hành vi đến ý định du lịch hạn chế tiếp xúc trong bối cảnh dịch COVID-19. Nghiên cứu sử dụng phương pháp hỗn hợp. Bảng câu hỏi khảo sát trực tuyến thu về 386 mẫu hợp lệ sử dụng để phân tích dữ liệu. Kết quả nghiên cứu chứng minh tác động của cảm nhận rủi ro lên thái độ, chuẩn chủ quan, nhận thức kiểm soát hành vi và ý định du lịch hạn chế tiếp xúc của khách du lịch nội địa đến từ TP.HCM. Cảm nhận rủi ro nhận thức, chuẩn chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi tác động dương đến ý định du lịch hạn chế tiếp xúc, với chuẩn chủ quan tác động mạnh nhất. Thái độ và cảm nhận rủi ro tình cảm không có tác động đến ý định hành vi du lịch hạn chế tiếp xúc. Nghiên cứu giúp chính quyền địa phương, tổ chức trong lĩnh vực du lịch, dịch vụ hiểu tác động của cảm nhận rủi ro về dịch COVID-19 đến ý định du lịch hạn chế tiếp xúc của du khách nội địa, có định hướng phát triển thị trường, sản phẩm du lịch mới giúp duy trì, phát triển du lịch trong thời kì dịch bệnh và hậu dịch.

Du lịch, Nghiên cứu người tiêu dùng, Khách du lịch, Tourism, Consumer research, Tourists

URI //opac.ueh.edu.vn/record=b1032878~S1
//digital.lib.ueh.edu.vn/handle/UEH/61158
Publisher Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh

Appears in Collections:MASTER'S THESES


  • Phạm Thị Thu Hiền.pdf
    • Size : 3,65 MB

    • Format : Adobe PDF

  • Các xu hướng định hình tương lai của ngành du lịch hậu COVID-19

    Hà Nội [TTXVN 2/4]

    Du lịch là niềm đam mê của nhiều người, bất kể là để giải trí hay kinh doanh. Ngay cả trong thời kỳ kinh tế suy thoái, khi doanh thu có thể giảm, lĩnh vực du lịch hiếm khi phải đối mặt với việc đóng cửa hoàn toàn các hoạt động, chưa nói đến việc kéo dài hàng tháng trời. Nhưng cuộc khủng hoảng COVID-19 đã tạo nên một tình huống chưa từng gặp đối với ngành du lịch toàn cầu và có lẽ đây là lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi đại dịch này.

    Tuy vậy, dường như giai đoạn đại dịch cũng không hẳn là “lãng phí” đối với ngành du lịch, bởi chắc chắn rằng cuộc khủng hoảng COVID-19 đã mang lại những bài học quan trọng mà ngành du lịch có thể rút ra từ đó.

    Mặc dù các chuyên gia vẫn đang đánh giá mức độ thiệt hại mà đại dịch gây ra cho ngành du lịch toàn cầu, song ngành “công nghiệp không khói” này đang chuẩn bị cho sự hồi sinh.

    Việc đưa ra kịch bản chính xác cho ngành du lịch trong thời kỳ hậu COVID-19 sẽ là chuyện không tưởng, nhưng một số xu hướng đã bắt đầu được các doanh nghiệp liên quan đến lĩnh vực lữ hành áp dụng để xây dựng tương lai của ngành du lịch trong thời kỳ “bình thường mới”.

    Dưới đây là một số xu hướng đáng chú ý đang nổi lên trong ngành du lịch toàn cầu:

    *Dịch vụ không chạm

    Mới chỉ cách đây vài tháng trở về trước, các hoạt động trước khi khởi hành tại sân bay, chẳng hạn như mua sắm, ăn uống tại nhà hàng hoặc thậm chí chỉ là mua một thức uống gì đó, là điểm thu hút lớn nhất đối với hành khách chờ tới giờ bay. Nhượng quyền bán lẻ là một trong những nguồn thu lớn nhất của sân bay, chiếm gần 30% doanh thu phi hàng không.

    Nhưng hiện nay, các hoạt động đó đã trở thành một điều xa xỉ. An toàn và vệ sinh là các vấn đề được hành khách ưu tiên hàng đầu. Do đó, các công ty đang nhanh chóng triển khai các công cụ kỹ thuật số như sinh trắc học, trí tuệ nhân tạo [AI] và quản lý danh tính kỹ thuật số để cung cấp dịch vụ tự phục vụ liền mạch, với sự tương tác tối thiểu của con người trong tất cả các quy trình.

    Đây không hẳn là sự đổi mới, nhưng đại dịch đã đẩy nhanh việc áp dụng chúng trong ngành du lịch. Công nghệ đã được sử dụng để khách hàng đặt vé và làm thủ tục tại sân bay, và giờ các công ty đang hướng tới việc cung cấp dịch vụ không chạm cho mọi thứ liên quan đến du lịch.

    *Xác định lại cơ cấu

    Với việc các hãng hàng không ngừng hoạt động đội bay của họ do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, việc tạo ra doanh thu đã trở thành một thách thức đối với ngành du lịch và khách sạn. Điều này đã buộc họ phải tăng chi phí đặt vé và đặt chỗ, gây thiệt hại cho túi tiền của du khách.

    Kết hợp với nhu cầu giãn cách xã hội gia tăng, du khách ngày càng hạn chế di chuyển bằng máy bay trong các chuyến du lịch. Tác động này cũng thể hiện rõ trong xu hướng đi công tác. Sự ra đời của các ứng dụng hội họp trực tuyến cũng khiến một phần nhu cầu đi công tác bị giảm bớt.

    Do đó, các công ty đang ngày càng áp dụng việc phân tích dữ liệu để tối ưu hóa đội bay hoặc quỹ phòng trống của họ. Điều này cho phép các công ty sử dụng các nguồn lực theo nhu cầu.

    Trong tương lai, một số hãng hàng không có thể xem xét việc giảm đội bay để duy trì lợi nhuận. Điều này có thể thúc đẩy sự hợp tác giữa những hãng hàng không quốc tế cung cấp dịch vụ bay đường dài và những hãng hàng không cung cấp những chuyến bay chặng ngắn trong nước. 

    *Ưu tiên du lịch nội địa

    Trước các lệnh hạn chế đi lại trên toàn thế giới, với một số quốc gia vẫn chưa mở cửa biên giới cho du khách, du lịch quốc tế đã bị đình trệ. Bên cạnh đó là giá vé máy bay và giá khách sạn tăng cao, các chuyến đi nội địa với chặng ngắn ngày càng trở nên hấp dẫn hơn đối với những người đam mê du lịch.

    Hành khách - dù để giải trí hay công tác - thường có xu hướng chọn các điểm đến trong nước để đảm bảo an toàn tối ưu giữa mùa dịch, đồng thời tránh các quy tắc kiểm dịch khác nhau giữa các quốc gia. Trong tương lai, xu hướng này dự kiến sẽ tạo ra nhu cầu về các kế hoạch du lịch theo khu vực, chẳng hạn như người châu Á đi du lịch trong châu Á, người châu Âu đi du lịch trong châu Âu... 

    *Tăng cường linh hoạt

    Một bài học quan trọng mà đại dịch COVID-19 đã mang lại cho chúng ta đó là sự linh hoạt. Ngành công nghiệp du lịch cũng không ngoại lệ. Sự linh hoạt sẽ cho phép lĩnh vực này thích ứng với những thay đổi của hoàn cảnh và đây có thể là sự khác biệt giữa những doanh nghiệp đã bị phá sản và những doanh nghiệp “sống sót” sau khủng hoảng.

    Trong thời gian tới, khi các hãng hàng không dự kiến sẽ nới lỏng các quy  định thông thường của họ đối với việc hủy, đổi lịch và hoàn tiền vé, thì các khách sạn cũng được dự đoán sẽ thực hiện theo bước đó để cải thiện trải nghiệm của người dùng./. 

    *Không gian mở

    Giãn cách xã hội là biện pháp cấp thiết để ngăn chặn sự lây lan của dịch COVID-19. Do vậy, khi lựa chọn điểm đến, ngay cả khi đại dịch “dịu xuống”, du khách vẫn có xu hướng sẽ chọn không gian mở ngoài trời như bãi biển, rừng, công viên quốc gia, khu bảo tồn động vật hoang dã v.v..., nơi mà việc tuân thủ sự giãn cách xã hội sẽ dễ dàng hơn.

    Do đó, các báo cáo cho thấy, gần 70% các khu cắm trại thiên nhiên, thể thao mạo hiểm, công viên quốc gia và bãi biển đã mở cửa trở lại cho khách du lịch, so với chỉ 50% không gian trong nhà như bảo tàng và di sản.

    Những người kinh doanh khách sạn trong thời kỳ “bình thường mới” này cũng có xu hướng cung cấp các lựa chọn lưu trú hoặc kỳ nghỉ làm việc với Internet tốc độ cao và không gian làm việc thoải mái dành riêng cho những người muốn thoát khỏi sự nhàm chán khi phải làm việc tại nhà trong một thời gian dài.

    Xu hướng đang nổi lên này dự kiến cũng sẽ tạo ra các dịch vụ mới để đáp ứng nhu cầu các đối tượng khách hàng muốn thay đổi không gian làm việc như vậy./.

    Minh Trang [Theo Infosys BPM]

    Video liên quan

    Chủ Đề