Những loại thuốc ảnh hưởng đến thai nhi

1. Uống thuốc khi mang thai có ảnh hưởng gì không?
Các loại thuốc phụ nữ trong thời kỳ mang thai sử dụng đều có thể ảnh hưởng lên thai nhi qua nhau thai và có thể gây ra các hậu quả như:
+ Tác động trực tiếp lên thai nhi gây sẩy thai, thai lưu, dị tật bẩm sinh
+ Làm thay đổi chức năng của bánh rau, làm giảm nguồn cung cấp oxygen và chất dinh dưỡng cho thai có thể làm thai kém phát triển
+ Có thể tác động lên tử cung, gây co bóp và qua đó gián tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển của thai hoặc gây sinh non
+ Thuốc có thể gây ra những thay đổi trên cơ thể mẹ và gián tiếp ảnh hưởng tới thai



Phụ nữ có thai cần hết sức lưu ý sử dụng các loại thuốc phù hợp tránh ảnh hưởng đến
sức khỏe của mẹ và thai nhi


2. Làm thế nào để biết loại thuốc nào có thể uống trong thời kỳ mang thai?
- Thuốc kháng sinh

Các nghiên cứu viên đã phát hiện mối liên quan giữa Nitrofurantoin và dị tật hở vòm miệng; Trimethoprim-Sulfamethoxazol và teo thực quản và thoát vị hoành bẩm sinh; cephalosporin và hẹp hậu môn trực tràng. Mặc dù phơi nhiễm với những kháng sinh này có thể làm tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh, nhưng tỷ lệ ghi nhận là hiếm gặp. Năm 2011, Hội Sản Phụ khoa Hoa Kỳ [American College of Obstetrics and Gynecology - ACOG] đã đưa ra ý kiến có thể kê đơn các kháng sinh này trong 3 tháng đầu thai kỳ nếu việc này được xác định là cần thiết.

- Thuốc chống đông
Heparin khối lượng phân tử thấp là thuốc ưu tiên sử dụng để điều trị trong thời kỳ mang thai. Warfarin bị chống chỉ định do thuốc dễ dàng đi qua nhau thai và có liên quan đến tình trạng giảm sản xương mũi và bệnh đầu xương lấm chấm nếu được sử dụng trong 3 tháng đầu thai kỳ. Bên cạnh đó, trên một chuỗi ca đánh giá việc sử dụng wafarin trong 3 tháng giữa và 3 tháng cuối thai kỳ ở bệnh nhân có van tim cơ học đã chỉ ra mối liên quan giữa việc dùng warfarin với di chứng thần kinh [như co giật, chậm phát triển, giảm trương lực cơ]. Hội Tim Hoa Kỳ [American Heart Association] và Trường môn Tim Hoa Kỳ [American College of Cardiology] cho phép sử dụng warfarin trong quý II và quý III của thai kỳ trong một số trường hợp nhất định.

- Thuốc điều trị hen và viêm mũi dị ứng
+ Salbutamol là thuốc chủ vận beta 2 tác dụng ngắn [SABA] được ưu tiên lựa chọn với nhiều dữ liệu an toàn trên người nhất. Corticosteroid dạng hít [ICS] là thuốc điều trị dài hạn được ưu tiên sử dụng. Tuy nhiên, một số bằng chứng cho thấy mối quan hệ nhân quả tiềm tàng giữa việc sử dụng ICS liều cao với chứng hẹp hậu môn ở trẻ. Budesonid là ICS được ưu tiên sử dụng trong thai kỳ, với nhiều dữ liệu an toàn nhất. Nên tránh sử dụng corticosteroid đường toàn thân, do có liên quan đến dị tật hở vòm miệng và tác dụng bất lợi trên thai kỳ như trẻ sơ sinh nhẹ cân, sinh non, hạn chế tăng trưởng thai nhi trong tử cung và tiền sản giật.

+ Cromolyn được coi là an toàn để sử dụng trong thai kỳ nhưng có ít hiệu quả hơn ICS. Một nghiên cứu thuần tập đã cho thấy mối quan hệ giữa việc sử dụng ICS/LABA và các dị tật bẩm sinh nặng trên tim.

+ Với viêm mũi dị ứng, ưu tiên sử dụng corticosteroid đường mũi. Loratadin và Cetirizin là các thuốc kháng histamin thế hệ 2 được khuyến cáo sử dụng. Nhìn chung, thuốc kháng histamin an toàn, nhưng nhóm thuốc này cũng có một số nguy cơ nhất định. Theo dữ liệu dịch tễ học trong hơn 40 năm, ít có bằng chứng về nguy cơ gây dị tật thai của thuốc kháng histamin thế hệ 1, vì vậy Clorpheniramin là thuốc kháng histamin được lựa chọn trong thai kỳ dựa trên dữ liệu an toàn có sẵn. Thuốc chống sung huyết có liên quan đến các dị tật bẩm sinh và không nên dùng trong thai kỳ.

- Thuốc chống động kinh
+ Carbamazepin, Lamotrigin, Levetiracetam và Phenytoin có nguy cơ gây dị tật thai nhi nghiêm trọng thấp nhất, nhưng các thuốc này vẫn có những mối liên quan nhất định với một số dị tật bẩm sinh. Việc sử dụng Valproat có liên quan rõ ràng với sự kém phát triển nhận thức và tăng nguy cơ mắc bệnh tự kỷ hay rối loạn phổ tự kỷ. Phơi nhiễm với Carbamazepin, Lamotrigin, Levetiracetam và Phenytoin có nguy cơ trên nhận thức và hành vi thấp hơn so với valproat, mặc dù cần thu thập thêm dữ liệu.

+ Phenobarbital gây quái thai khi sử dụng trong 3 tháng đầu thai kỳ. Oxcarbazepin có liên quan đến chậm phát triển, dị tật bẩm sinh và thai chết lưu. Topiramat có liên quan đến dị tật hở hàm ếch và lithi carbonat liên quan đến dị tật tim. Acid folic liều từ 4 đến 5 mg/ngày được khuyến cáo sử dụng trước khi thụ thai và tiếp tục dùng trong thai kỳ ở phụ nữ dùng thuốc chống động kinh, do nhiều thuốc chống động kinh làm giảm nồng độ acid folic và gây nguy cơ dị tật ống thần kinh.

2.5. Thuốc hướng tâm thần
- Trầm cảm:
Các nghiên cứu về thuốc chống trầm cảm không điển hình [Bupropion, Mirtazapin, Nefazodon] và thuốc ức chế tái thu hồi Serotonin-Norepinephrin [SNRI] không cho thấy sự gia tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh; tuy nhiên, phơi nhiễm với SNRI vào cuối thai kỳ làm tăng nguy cơ hội chứng cai ở trẻ sơ sinh, tương tự như SSRI.
Các hướng dẫn cho thấy nên được áp dụng trong việc quản lý sử dụng thuốc chống trầm cảm hoặc ra quyết định ngừng thuốc chống trầm cảm trong thai kỳ.

- Rối loạn lo âu:SSRI thường được sử dụng để điều trị rối loạn lo âu. Các thuốc khác được sử dụng để điều trị lo âu bao gồm Buspiron và Hydroxyzin. Dữ liệu cho thấy các thuốc này không liên quan đến các dị tật bẩm sinh. Nếu được sử dụng ngay trước khi sinh hoặc sử dụng thường xuyên gần ngày sinh, Benzodiazepin có liên quan đến hội chứng nhược cơ bẩm sinh, với biểu hiện hạ thân nhiệt, ngủ lịm, khả năng hô hấp gắng sức kém và cho ăn khó khăn. Hội chứng cai ở trẻ sơ sinh khi người mẹ sử dụng benzodiazepin cũng đã được báo cáo, với các triệu chứng kéo dài lên đến 3 tháng sau khi sinh.

- Rối loạn khí sắc: Valproat, Carbamazepin, Lamotrigin và Lithi carbonat đều có liên quan đến nguy cơ dị tật và/hoặc biến chứng ở giai đoạn chu sinh. Việc sử dụng valproat hoặc dùng đồng thời nhiều thuốc có nhiều bằng chứng về kết cục bất lợi trong phát triển thần kinh hơn so với các thuốc giúp ổn định khí sắc khác.

2.6. Thuốc giảm đau và điều trị thấp khớp
Nhìn chung, nên tránh dùng Ibuprofen và các thuốc chống viêm không steroid [NSAID] trong thai kỳ. Cần tránh dùng NSAID trong 3 tháng cuối thai kỳ do nguy cơ đóng ống động mạch sớm. Paracetamol là thuốc được lựa chọn do có tính an toàn cao hơn so với NSAID. Mối liên quan tiềm tàng giữa việc sử dụng Paracetamol và rối loạn phổ tự kỷ đã được phát hiện, nhưng chỉ khi đi kèm với chẩn đoán tăng động.

Điều trị thấp khớp: Cần ngừng sử dụng Methotrexat, Mycophenolat mofetil và Cyclophosphamid trước khi mang thai, do các thuốc này có thể gây quái thai. NSAID có thể được sử dụng trong 3 tháng đầu và 3 tháng giữa thai kỳ để kiểm soát triệu chứng bệnh trong trường hợp cần thiết.

2.7. Thuốc điều trị rối loạn tuyến giáp
- Suy giáp:
Người mẹ nên sử dụng liệu pháp thay thế hormon với Levothyroxin. Phụ nữ sử dụng Levothyroxin trước khi mang thai có thể cần dùng liều cao hơn do tăng nồng độ estrogen.

- Cường giáp: Ưu tiên sử dụng Propylthiouracil để điều trị trong 3 tháng đầu thai kỳ do nguy cơ dị tật bẩm sinh liên quan đến thuốc này thấp hơn so với Methimazol. Do nguy cơ gây độc gan của Propylthiouracil, nên chuyển sang dùng Methimazol trong 3 tháng giữa thai kỳ.

2.8. Thuốc điều trị đái tháo đường
+ Insulin là lựa chọn đầu tay được khuyến cáo, nhưng Metformin và Glyburid cũng có thể được sử dụng. Mặc dù có dữ liệu ủng hộ hiệu quả và an toàn của Metformin và Glyburid trong thai kỳ, cả hai thuốc này đều qua được hàng rào nhau thai và còn thiếu dữ liệu an toàn dài hạn liên quan.
+ Lợi ích của Metformin so với Insulin bao gồm nguy cơ hạ đường huyết sơ sinh và tăng cân ở người mẹ thấp hơn.

2.9. Thuốc điều trị tăng huyết áp
Các lựa chọn điều trị được khuyến cáo bao gồm Labetalol, Nifedipin giải phóng kéo dài và Methyldopa.

3. Cần làm gì để biết một thuốc có được phép sử dụng cho phụ nữ có thai
Nếu người bệnh là phụ nữ có thai, trước khi sử dụng thuốc người bệnh cần lưu ý:

- Kiểm tra thông tin trên nhãn hộp thuốc, tờ hướng dẫn sử dụng xem có được sử dụng cho phụ nữ có thai hay không.
- Nếu không chắc chắn cần hỏi thông tin từ bác sĩ hay dược sĩ để xem liệu thuốc đó có được phép sử dụng hay không.


Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Bác sĩ Nguyễn Viết Nhân, chuyên gia tư vấn di truyền, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City

Để có một thai kỳ khỏe mạnh, bên cạnh việc ăn uống đầy đủ, nhiều mẹ bầu còn lo lắng không biết trước khi mang thai cần bổ sung thuốc gì hay không? Việc uống thuốc khi mang thai có ảnh hưởng gì không? Để giải đáp những thắc mắc trên, hãy cùng tìm hiểu về uống thuốc khi mang thai trong bài viết dưới đây.

Hiện nay trong việc sử dụng thuốc, nhiều bạn nhầm lẫn giữa thuốc và thực phẩm chức năng dẫn đến việc lạm dụng hoặc sử dụng không đúng cách.

Năm 2004, Bộ Y tế đã đưa ra thông tư khái niệm về Thực phẩm chức năng như sau: “Thực phẩm chức năng là thực phẩm dùng để hỗ trợ chức năng của các bộ phận trong cơ thể người, có tác dụng bổ sung dinh dưỡng, tạo cho cơ thể tình trạng thoải mái, tăng sức đề kháng và giảm bớt nguy cơ bệnh tật”, như vậy công dụng của thực phẩm chức năng không phải là thuốc chữa bệnh mà chỉ là sản phẩm giúp bổ sung những chất còn thiếu trong cơ thể trong quá trình chuyển hóa và giúp cải thiện tình trạng bệnh trong một số trường hợp.

Khác với Thực phẩm chức năng, thuốc chữa bệnh tác động trực tiếp vào quá trình chuyển hóa các chất, làm thay đổi cấu trúc sinh lý và bệnh lý, qua đó sửa chữa và cải thiện những tổn thương trong cơ thể người bệnh.

Đối với thực phẩm chức năng, người ta không yêu cầu kỹ thuật chế biến quá cao người tiêu dùng có thể tự mua và uống không cần chỉ định nhưng với thuốc chữa bệnh thì hoàn toàn ngược lại luôn đòi hỏi các tiêu chuẩn rất khắt khe, không chỉ loại thuốc mà liều lượng cũng như thời điểm sử dụng trong ngày cũng hết sức quan trọng và cần có chỉ định của bác sĩ để đảm bảo an toàn khi sử dụng.

Tuy nhiên trong một vài trường hợp thực phẩm chức năng cũng có thể được coi như là thuốc. Ví dụ như bị chuột rút bởi thiếu canxi và vitamin D3 thì chỉ cần bổ sung thực phẩm chức năng [vitamin D3 và canxi] là đủ. Tuy nhiên, trong trường hợp người bệnh mắc bệnh lý phức tạp hơn, chỉ bổ sung thực phẩm chức năng không có giá trị nhiều và đôi khi lại không có tác dụng. Tốt hơn hết người dùng nên tham khảo thêm ý kiến của bác sĩ.

Một vài trường hợp thực phẩm chức năng cũng có thể được coi như là thuốc

Để phân biệt giữa thuốc và thực phẩm chức năng bạn có thể hỏi ý kiến của nhà thuốc, dược sĩ hoặc bạn có thể tự kiểm tra trên nhãn thuốc theo cách đơn giản sau:

  • Đối với thực phẩm chức năng: Số đăng ký ghi trên hộp là số công bố tiêu chuẩn [SCBTC] ví dụ: SCBTC: 2204/2012/YT-CNTC và luôn có ghi dòng chữ: Thực phẩm chức năng hoặc Thực phẩm dinh dưỡng hoặc Sản phẩm này không phải là thuốc và không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh
  • Đối với thuốc, trên hộp phải có số đăng ký [SĐK], Ví dụ: SĐK: V... – 1200 – 12

Bạn cần cẩn trọng với loại các thực phẩm chức năng và thuốc được gọi là “xách tay” từ Mỹ, Úc hoặc từ các nước phát triển khác vì mức độ tin cậy khá thấp.

Các loại thuốc bạn sử dụng trong thai kỳ đều có thể qua nhau thai để ảnh hưởng lên thai nhi và có thể gây ra các hậu quả như:

  • Tác động trực tiếp lên thai nhi gây sẩy thai, thai lưu, dị tật bẩm sinh
  • Làm thay đổi chức năng của bánh rau, làm giảm nguồn cung cấp oxygen và chất dinh dưỡng cho thai có thể làm thai kém phát triển
  • Có thể tác động lên tử cung, gây co bóp và qua đó gián tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển của thai hoặc gây sinh non
  • Thuốc có thể gây ra những thay đổi trên cơ thẻ mẹ và gián tiếp ảnh hưởng tới thai như thuốc hạ huyết áp có thể làm giảm lượng máu tới bánh rau và làm giảm lượng oxygen và chất dinh dưỡng cung cấp cho thai nhi

Việc gây ra các hậu quả cho thai phụ thuộc vào những yếu tố sau:

  • Giai đoạn phát triển của thai nhi
  • Loại thuốc và liều lượng sử dụng
  • Đặc điểm của cơ thể mẹ [vai trò của yếu tố di truyền] trong đáp ứng với từng loại thuốc.
  • Những yếu tố khác liên quan tới đặc điểm sinh lý của mẹ ví dụ như mẹ bị nôn sau khi uống thuốc [hay gặp trong 3 tháng đầu của thai kỳ] sẽ không hấp thụ được nhiều thuốc vì vậy thuốc sẽ tác động lên thai nhi ít hơn

Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ [FDA] đã phân loại thuốc thành năm loại theo thứ tự A, B, C, D, X theo mức độ rủi ro mà chúng gây ra cho thai nhi nếu chúng được sử dụng trong thai kỳ. Thuốc được phân loại từ A là những loại thuốc mà nghiên cứu trên phụ nữ mang thai sử dụng thuốc thì không thấy có ảnh hưởng trên bào thai đến X những loại mà nghiên cứu cho thấy có độc tính cao và không bao giờ được sử dụng cho phụ nữ mang thai vì có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng.

Tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi dùng thuốc trong thai kỳ

Ví dụ như thalidomide, một loại thuốc trước đây được sử dụng để điều trị ốm nghén trong 3 tháng đầu thai kỳ, thuốc đã gây ra tình trạng kém phát triển của cánh tay và chân và các khuyết tật của ruột, tim và mạch máu ở trẻ sơ sinh của phụ nữ dùng thuốc trong khi mang thai.

Hệ thống phân loại này của FDA chủ yếu dựa trên thông tin từ các nghiên cứu trên động vật và ít dựa trên các nghiên cứu được thiết kế tốt ở phụ nữ mang thai vì vậy việc áp dụng hệ thống phân loại trong các tình huống cụ thể là hết sức khó khăn.

Vì những khó khăn và phức tạp này mà FDA yêu cầu trên nhãn thuốc phải bao gồm thông tin cụ thể hơn như sau:

  • Có nguy cơ khi dùng thuốc trong khi mang thai và cho con bú
  • Đã có những bằng chứng được xác định về những nguy cơ này
  • Thông tin giúp bác sĩ quyết định có nên sử dụng thuốc trong thai kỳ hay không và giúp giải thích những nguy cơ và lợi ích của việc sử dụng thuốc đối với người phụ nữ

Thông thường, các bác sĩ khi cho thuốc đều tuân theo một quy tắc chung: Chỉ xem xét cho phụ nữ mang thai sử dụng một loại thuốc để điều trị rối loạn khi lợi ích tiềm năng vượt xa những nguy cơ đã biết.

Các bác sĩ sẽ lựa chọn một loại thuốc an toàn hơn để thay thế cho một loại có khả năng gây hại trong thai kỳ ví dụ như để phòng ngừa sự tạo thành cục máu đông, thuốc chống đông máu heparin sẽ được thay cho warfarin. Một số loại kháng sinh an toàn cho thai kỳ, như penicillin, sẽ được sử dụng để điều trị nhiễm trùng v.v...

Hoặc một số loại thuốc có thể gây nguy cơ sau khi đã dừng sử dụng như isotretinoin, một loại thuốc dùng để điều trị mụn da, thuốc được lưu trữ trong vùng mỡ dưới da và được giải phóng chậm vì vậy Isotretinoin có thể gây dị tật bẩm sinh cho thai nếu phụ nữ có thai trong vòng 2 tuần sau khi ngừng thuốc. Do đó, phụ nữ nên đợi ít nhất 3 đến 4 tuần sau khi ngừng thuốc trước khi mang thai.

Qua những thông tin này bạn có thể thấy những nguy hiểm của việc uống thuốc tùy tiện, vì vậy tốt nhất trong thai kỳ, khi cần phải sử dụng thuốc và ngay cả thực phẩm chức năng bạn cần có ý kiến của bác sĩ.

Tư vấn trước khi mang thai sẽ trao đổi với các bạn về vấn đề sử dụng thuốc trước và trong thai kỳ đảm bảo các bạn sử dụng thuốc một cách hợp lý trước và trong quá trình mang thai. Tư vấn sử dụng thuốc cũng là một trong những nội dung nằm trong Chương trình tư vấn và chăm sóc sức khỏe trước khi mang thai tại Vinmec.

Để đảm bảo an toàn, khi bạn mắc bệnh lý và muốn sử dụng bất cứ loại thuốc nào cũng nên có sự chỉ định của các bác sĩ chuyên khoa. Khoa Sản của Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là đơn vị y tế chất lượng cao, được khách hàng đánh giá cao về chất lượng chuyên môn cũng như dịch vụ chuyên nghiệp. Đội ngũ bác sĩ đều có trình độ chuyên môn cao, giàu kinh nghiệm, được cập nhật thường xuyên, liên tục các kỹ thuật sản khoa mới nhất trên thế giới giúp bảo vệ sức khỏe thai phụ và thai nhi tốt nhất.

Để khám với các bác sĩ Sản khoa giàu kinh nghiệm tại Vinmec, Khách hàng vui lòng đặt lịch trực tiếp tại website để được phục vụ.

Hình ảnh khách hàng được tư vấn sức khỏe sau khi khám thai định kỳ tại Vinmec

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số 1900 232 389 [phím 0 để gọi Vinmec] hoặc đăng ký lịch trực tuyến TẠI ĐÂY. Tải ứng dụng độc quyền MyVinmec để đặt lịch nhanh hơn, theo dõi lịch tiện lợi hơn!

Khám thai lần đầu vào lúc nào và cần khám những gì?

XEM THÊM:

Video liên quan

Chủ Đề