So sánh bat cháo hành và 4 bát bánh đúc năm 2024

- Nhà văn Kim Lân (1920-2007) là một trong những nhà văn tiêu biểu của phong cách nền văn học hiện thực Việt Nam thế kỷ XX. Sinh ra trong gia đình nghèo khó, phải bỏ học đi làm từ hết bậc tiểu học. Ông là người hiểu rõ nhất cuộc sống thôn quê, sự nghèo khó của giai đoạn chiến tranh khi đó.

- Ông chuyên viết truyện ngắn về chủ đề làng quê Việt Nam, về cuộc sống sinh hoạt bình dị nhưng phong phú chốn thôn quê. Các tác phẩm tiêu biểu của ông phải kể đến: Vợ nhặt, Nên vợ nên chồng, Con chó xấu xí,...

Thân bài

  1. Giải thích ý nghĩa tên tác phẩm “Vợ nhặt”

- Vợ: là người thân cận, quan trọng, là biểu tượng cho gia đình, mái ấm

- Nhặt: là hành động lấy được một thứ tầm thường không ai cần, không giá trị

-> Vốn dĩ ngàn đời nay để lấy vợ thì phải chuẩn bị rất nhiều lễ, nhiều tục lệ. Là một nghi thức thiêng liêng quan trọng không chỉ với người chồng mà còn ảnh hưởng đến hai họ. Nhưng vào những năm nạn đói thì thân phận con người trở nên rẻ rúng, miếng ăn mới là thứ quan trọng nhất

  1. Bối cảnh tác phẩm

- Câu chuyện diễn ra trong giai đoạn nạn đói năm 1945 với mở đầu với nhân vật Tràng. Kim Lân đã khắc họa lên hình ảnh chàng trai xấu xí, thô kệch, ngốc nghếch, nghèo khổ... là một người nếu trong hoàn cảnh bình thường sẽ khó có thể lấy được vợ.

- Nhưng trong hoàn cảnh đói khát cùng cực thì bỗng nhưng một ngày Tràng nhặt được vợ theo đúng nghĩa đen, theo đúng nghĩa ra đường mang được một người vợ về chung sống mà chỉ tốn có bốn bát bánh đúc.

  1. Nhân vật Tràng:

- Hoàn cảnh gia đình: nghèo khó, sống cùng một mẹ già. Là dân ngụ cư, sống bằng nghề kéo xe bò thuê

- Ngoại hình: Thô kệch, xấu xí, hai mắt nhỏ tí, quai hàm bạnh ra, ngờ nghệch vụng về,...

- Gặp gỡ và quá trình “nhặt” vợ

+ Lần gặp 1: Khi đang đi kéo xe bò thuê, giữa đường gặp cô gái và bất giác hò lên câu trêu đùa. Chứ không có tình ý gì với cô gái đẩy xe phụ mình.

+ Lần gặp 2: Sau lời trêu đùa, Tràng bị cô gái mắng. Nhưng không những không tức giận, Tràng chỉ cười rồi mời cô nàng ăn dù bản thân cũng không dư dả giàu có gì

Khi lời đùa thành thật, cô gái quyết định theo về nhà. Dù nghĩ đến cảnh nghèo đói, thân mình lo chưa xong còn phải lo thêm một miệng ăn. Nhưng Tràng vẫn “kệ”, sẵn sàng đối mặt với lời nói và quyết định của mình

Không những vậy, Tràng còn đưa cô gái đến chợ sắm thêm đồ. Đây không chỉ là thái độ coi trọng người vợ tương lai của mình mà còn là sự nghiêm túc, chu đáo hy vọng về một tương lai ấm áp hơn

- Trên đường về nhà

+ Tuy không nói gì nhưng sự hạnh phúc, vui sướng của Tràng đã thể hiện rõ trên khuôn mặt. Vẻ mặt hớn hở, luôn tủm tỉm cười

+ Mua thêm dầu về để thắp sáng căn nhà, như ánh sáng của hy vọng trong giai đoạn cùng khó khăn

- Khi về đến nhà

+ Tràng nhanh nhẹn bước vào nhà trước, dọn dẹp sơ qua ngôi nhà. Rồi nhanh chóng thanh minh về sự bừa bộn trong nhà vì thiếu vắng người phụ nữ

+ Khi phát hiện mẹ chưa về, Tràng cảm thấy hơi sợ vợ mình sẽ bỏ đi mất, sẽ không giữ cô lại được vì hoàn cảnh gia đình nghèo khó. Không những vậy Tràng còn mong mẹ về để thưa chuyện, dù nghèo vẫn phải đủ lễ nghi tôn trọng quyết định của mẹ.

+ Khi mẹ về nhà Tràng nhanh chóng nhưng cũng rất trịnh trọng thưa chuyện với mẹ. Tuy căng thẳng nhưng cũng rất nghiêm túc dũng cảm mong mẹ ủng hộ. Khi bà cụ Tứ đồng ý Tràng mới thở phào nhẹ nhõm, có cảm giác an tâm.

- Khi tỉnh dậy sau một đêm

+ Tràng cảm thấy mình trưởng thành hơn, thay đổi sau một đêm khi nhìn thấy ngôi nhà vốn thân quen nay lạ lẫm của mình. Căn nhà sạch sẽ hơn, gọn gàng hơn khi có sự góp sức của người đàn bà.

+ Khi ăn cơm, hình ảnh hiện ra trong suy nghĩ của Tràng là lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới, là hình ảnh của những con người trong nạn đói. Đây như một hy vọng, một tương lai tươi sáng ấm no hạnh phúc hơn.

  1. Nhân vật Thị

- Hoàn cảnh gia đình: Không có gia đình, không rõ quê hương. Đây là hậu quả của nạn đói năm 1945 khiến toàn nước ta vô số gia đình ly tán, nhiều người phải bỏ xứ đi để kiếm miếng ăn.

- Ngoại hình: gầy gò, da bọc xương, khuôn mặt lưỡi cày chỉ còn thấy rõ hai con mắt

- Gặp gỡ và quá trình nên vợ nên chồng

Lần gặp 1: Khi nghe thấy câu trêu đùa vui của chàng trai lạ, Thị vui vẻ đến giúp đỡ

Lần gặp 2: Sau lời trêu của Tràng, Thị sưng mặt lên mắng từ chối ăn trầu để tìm kiếm món ngon hơn, no hơn. Khi được mời Thị đã nhanh chóng ngồi sà xuống ăn một lúc bốn bát bánh đúc.

+Khi nghe lời nói tưởng đùa tưởng thật “đằng ấy có về với tớ…” Thị đã theo về thật. Vì dường như đây là cơ hội bám víu duy nhất cho cuộc sống đói khổ của nàng.

- Trên đường về nhà

+ Tuy được miêu tả là một người đàn bà mạnh mồm, có chút chanh chua. Nhưng khi được đưa về căn nhà xa lạ mà tương lai sẽ là nhà mình, Thị cũng có hồi hộp rón rén đi theo Tràng.

-Khi về đến nhà

+ Dù được Tràng đon đả mời vào nhà, mười ngồi thì nàng ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm chặt cái thúng.

+ Khi gặp bà cụ Tứ - mẹ chồng thì ngoài câu chào hỏi rụt rè Thị cũng chỉ dám cúi đầu kèm theo “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”

- Sáng hôm sau

+ Thị chủ động dậy rất sớm, quét tước nhà cửa. Không còn là hình ảnh đanh đá mắng chửi người mà về lại người con gái hiền hậu, nết na.

+ Lúc được mẹ chồng đưa ăn cháo cám, dù “mắt Thị tối lại” nhưng vì không muốn làm mẹ chồng buồn, nàng vẫn tự nhiên cho vào miệng ăn.

+ Thị cũng là người thông tin và nhanh nhạy khi nhắc đến sự kiện phá kho thóc Nhật, khơi gợi lên ý chí mãnh liệt, khát vọng đánh đuổi quân địch cho cuộc sống tốt đẹp hơn của nhân dân ta. Đúng với câu nói giặc đến nhà đàn bà cũng đánh.

  1. Nhân vật bà cụ Tứ

- Ngoại hình: Già nua, chậm chạp, dáng đi lom khom run rẩy, là người cả đời sống trong nghèo khổ

- Tính cách: lạc quan, luôn yêu thương con cái

- Diễn biến tâm trạng

+ Khi mới về nhà bà giật mình bàng hoàng khi thấy có bóng dáng người phụ nữ là trong nhà gọi mình là u

+ Khi hiểu mọi chuyện đang xảy ra trước tiên bà tự trách khi không có khả năng lo chu toàn cho con cái kèm theo đó là nỗi lo cái đói cái nghèo sẽ càng vây quanh khi có thêm người. Nhưng bà chọn tôn trọng con mình, bà sẵn sàng mở lòng chúc phúc, tiếp thêm niềm tin vào tương lai.

+ Sáng hôm sau bà cụ Tứ cùng cô con dâu mới dọn dẹp nhà cửa, cùng chuẩn bị bữa sáng giúp Thị nhanh chóng hòa nhập với gia đình hơn. Chi tiết bát cháo khoái cũng chính là tấm lòng người mẹ. Tuy không cao sang không ngon lành gì nhưng đó là bát cháo của sự hạnh phúc, là ánh sáng là niềm tin cho tương lai.

Kết bài

- Khẳng định lại phong cách văn học hiện thực của Kim Lân. Làm người đọc như nhìn thấy tận mắt tình cảnh thê thảm của nhân dân ta những năm nạn đói hoành hành.

- Tác phẩm như một lời lên tiếng giúp cho Kim Lân, xót xa cho những số phận người dân nghèo xóm ngụ cư, gặp phải sự đô hộ của thực dân. Lên án thực dân nhưng cũng là ca ngợi sức sống mãnh liệt, khát khao hạnh phúc dù đang trong tình cảnh khó khăn của lao động nghèo.

- Giá trị hiện thực của tác phẩm: Phản ánh sự đói khổ, thân phận rẻ rúng của con người khi đối mặt với chế độ một cổ hai tròng. Đây là hậu quả của những chính sách vô lý, hà khắc của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Bên thì bắt đóng thuế, bên thì bắt trồng rau đay thay lương thực.

- Khái quát các biện pháp nghệ thuật: Nghệ thuật đối thoại, độc thoại, nắm bắt tâm lý nhân vật; phong cách tả thực, xây dựng cốt truyện tự nhiên kết hợp hay yếu tố hiện thực và nhân đạo.

So sánh bat cháo hành và 4 bát bánh đúc năm 2024

Bài văn mẫu 1 - Ý nghĩa bát cháo cám trong Vợ nhặt

Có những chi tiết nghệ thuật đọc rồi là nhớ mãi bởi nó có sức rung động sâu xa, sức ám ảnh lâu bền trong người đọc như “bát cháo hành” của Thị Nở trong Chí Phèo (Nam Cao), như “nồi cháo cám” của bà cụ Tứ trong Vợ nhặt (Kim Lân). Nếu bát cháo hành là liều thuốc giải độc đối với những “con quỷ dữ” như Chí Phèo biết quay về cuộc sông lương thiện, thì nồi cháo cám chính là tấm lòng thương yêu chân thực, cảm động của người mẹ nghèo khổ đối với những đứa con trong bữa cơm ngày đói đón dâu mới.

Gấp trang truyện lại, không hiểu sao trước mắt ta cứ hiện lên rõ ràng như thực hình ảnh “người mẹ tươi cười, đon đả: – Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy”. Có thật chăng món chè cám ngon đáo để? Có thật chăng lòng người mẹ đang vui sướng? Chỉ biết rằng cỏ một niềm xúc động rất thật cứ dâng lên trong lòng ta trước tấm lòng bà cụ Tứ khi bà “lễ mễ” bưng nồi cháo ra, đon đả tươi cười múc cháo cho hai đứa con.

Nhớ lại cuộc đời dài nghèo khổ của bà, mấy khi trên gương mặt u tối ấy sáng lên một nụ cười? Ngay cả đêm qua, biết con trai đã nên vợ nên chồng, trong giờ phút đầu tiên gặp người con dâu mới, nước mắt khổ đau và lo lắng của bà vẫn chảy nhiều hơn tuy trong thâm tâm bà cũng có chút “mừng lòng” và một vài tia hi vọng về chúng. Vậy thì vì sao trong bữa cơm ngày đói đón dâu mới lại có chuyện “nồi cháo cám" với nụ cười đon đả làm bừng sáng cả khuôn mặt già nua, nhẫn nhục của bà? Ta hiểu, không phải bà vui cho bà, mà chính là bà đang cố tạo ra những niềm vui, dù còn rất mong manh, cho con trai và con dâu trong ngày đầu tiên nên vợ nên chồng. Tâm lòng người mẹ nghèo thương con thật cảm động. Bà đã dậy sớm, “xăm xắn” dọn dẹp nhà cửa, vườn tược cho quang quẻ, trong bữa cơm toàn nói những chuyện vui về tương lai như chuyện nuôi gà … Và “nồi cháo cám” chính là đỉnh cao của tấm lòng người mẹ nghèo thương hai đứa con vừa tìm đến với nhau trong cảnh “vợ nhặt” giữa những ngày đói khủng khiếp nhất của năm 1945.

Còn nhớ một điều, đây không phải là một bữa cơm thường nhật hằng ngày, mà là bữa cơm đầu tiên đón dâu mới, bữa cơm ngày “nhị hỉ” thiêng liêng theo phong tục Việt Nam. Chính đêm qua, bà đã nói với người đàn bà lạ bỗng trở nên thân thiết với mình: “Lẽ ra mẹ phải có dăm ba mâm, mời bà con họ hàng, nhưng Bữa cơm ấy phải tươm tất, nhưng vì đang trong những ngày đói nên chỉ có “một niêu cháo lõng bõng, một dúm rau chuối thái rối chấm với muối trắng”. Ba mẹ con ăn vui vẻ nhưng loáng cái đã hết nhẵn, không còn chút gì trên cái mẹt rách được dùng làm mâm. Một tình thế hụt hẫng sẽ đến trong bữa cơm ngày cưới, điều này, bà đã nhìn thấy trước, và bằng tấm lòng thương yêu của mình, bà đã tìm cách “cứu nguy” cho nó, mục đích là để cho con trai và con dâu có được niềm vui trọn vẹn trong ngày đầu tiện nên vợ nên chồng. Nồi cháo cám có được là do lòng thương con chân thành của bà, cũng là do cách nghĩ hồn nhiên mộc mạc của bà – những bà mẹ nông dân suốt đời lam lũ nghèo khổ.

Bà nấu nồi cháo cám, giấu con trai và con dâu, để đến cái giờ phút nguy kịch đó mới đem ra “cứu nguy” như khi ta xổ ra con át chủ bài lúc ván bài đã đến nước quyết định. Và như ta thấy, bà đã vui vẻ mời chào,đon đả đón lấy bát của con dâu và con trai để múc cháo. Bà còn “nói trại" đi đó là chè khoán, ngon đáo để. Trong chi tiết nghệ thuật này, hai lần Kim Lân miêu tả cái dáng tươi cười, đon đả của bà mẹ với hai đứa con một cách thật chân thành và hồn nhiên. Chính điều này làm ta xúc động, xót thương và cảm phục tấm lòng của người mẹ nghèo khổ. Bà đang vui (điều này hẳn là có vì con trai bà đã có gia đình bà đã có con dâu) hay bà đang cố tạo ra niềm vui cho hai đứa con tội nghiệp của bà đã nên vợ nên chồng trong lúc đói kém này? (Điều này chắc là nhiều hơn, là điều chủ yêu trong lòng bà lúc bấy giờ). Dường như bà cố ý xua đi không khí ảm đạm, cố gắng vượt lên hoàn cảnh bằng sự tươi tỉnh động viên con. Bên trong cái vẻ tươi,tỉnh ấy, ta biết lòng người mẹ đang thổn thức. Lòng người đọc cũng dâng lên bao xót xa … Tội nghiệp cho niềm vui của bà – cái niềm vui không cất cánh lên được. Bởi, vẫn còn đó bát cháo cám “chát xít, nghẹn bứ trong miệng” anh con trai và làm “tối sầm hai con mắt” người con dâu. Và, tiếng cười của bà tắt hẳn khi “một nỗi tủi hờn dâng lên bao quanh mâm cơm”, họ cắm mặt ăn cho xong bữa, ăn mà không nhìn nhau … Kim Lân viết những dòng này tưởng như khách quan, nhưng ta biết lòng ông đau nhói biết chừng nào, bởi chính ông, gia đình ông, trong những ngày đói của năm Ất Dậu ấy, cũng đã từng phải ăn cháo cám, ông đã biết mùi vị của cháo cám là thế nào? … Phải, cái nồi cháo cám ấy có gì là quý giá đâu, nhưng tấm lòng người mẹ nông dân một đời nghèo khổ ngẫm lại không đáng thương, đáng quý hay sao? Có thể bà chẳng còn sống mấy nữa. Nhưng bà sống vì con, cả con trai và người con dâu mới mà bà đã thương yêu sâu sắc, bà tìm thây ý nghĩa đời mình trong sự chăm lo vun vén cho con. Cái đức hi sinh, vị tha ấy là của bà, của bao bà mẹ nông dân khác mà ta đã gặp trong cuộc đời. Và nồi cháo cám mà Kim Lân đã dành cho bà ở đây, trong phần kết thúc thiên truyện ngắn này, nó vẫn gợi lên sâu sắc âm hưởng đau xót của nạn đói khủng khiếp năm 1945, vẫn giữ lại cái hương vị đằm thắm nhân bản của khát khao tổ ấm gia đình dù trong cảnh “Vợ nhặt”; nhưng trên hết và bao trùm tất cả, đó là tấm lòng nhân hậu cao cả của những người mẹ Việt Nam – “đằng sau manh áo rách là những tấm lòng vàng!”

Đó là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc mà ta thường gặp ở cây bút viết truyện ngắn sở trường về người nông dân Việt Nam: Nhà văn Kim Lân.

"Vợ nhặt" là một truyện ngắn đặc sắc của Kim Lân, kể về anh Tràng, một người nghèo ở xóm ngụ cư, đã nhặt được vợ trong một trận đói kinh khủng, khi người chết đói đầy đường.

Truyện ngắn này đã phản ánh nỗi đau khổ và niềm khao khát sống, hạnh phúc của người nghèo, từ đó nói lên số phận con người trong xã hội trước khi cách mạng bùng nổ. Giá trị lớn nhất của truyện Vợ nhặt là giá trị nhân đạo.

Cho đến nay, trong văn học hiện đại Việt Nam, chưa có tác phẩm nào về trận đói năm Ất Dậu - 1945 thật hay, thật xúc động như truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. Cảm hứng nhân đạo dâng trào từ đầu truyện đến cuối truyện.

Truyện "Vợ nhặt" thể hiện nỗi đau khổ tột cùng của nhân dân, người nghèo trong trận đói năm Ất Dậu. Đoàn người từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế dắt díu nhau lên “xanh xám như những bóng ma” nằm ngổn ngang khắp các lều chợ. Quạ đen đậu trên những ngọn cây bay vù lên “như những đám mây đen” trên nền trời. Mùi gây của người vẫn lên khắp xóm chợ. Người chết đói như ngả rạ. Sáng nào cũng bốn cái thây nằm còng queo bên đường!

Đói và chết đó đâu chỉ riêng ai! Mẹ con Tràng, cái nhà “vắng teo đứng rúm ró” trên mảnh vườn đầy cỏ dại. Cửa nhà là một tấm phên rách. Niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất. cơ ngơi ấy đã làm cho nàng dâu mới thất vọng “nén một tiếng thở dài”. Bà cụ Tứ “mặt bủng beo u ám”. Anh cu Tràng “bước mệt mỏi”, cái đầu “trọng nhẵn chúi về đằng trước’’ với bao lo lắng, chật vật. Đám trẻ con xóm chợ, trước đây tinh nghịch thế, giờ đây chúng "ngồi ủ rũ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích”. Trước nhà kho trên tỉnh có mấy chị con gái “ngồi vêu ra”. Đặc biệt nhân vật “thị”, cái đói đã đi tất cả. Không họ tên, tuổi tác, không gia đình, anh em. Không quê hương bản quán. Hình hài tiều tụy, xơ xác đáng thương. Áo quần “tả tơi như tổ đỉa “gầy sọp hẳn đi”, khuôn mặt lưỡi cày “xám xịt”, chỉ còn thấy hai con mắt. Con đường phía trước của thị là vực thẳm, là chết đói. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả. Chỉ nghe Tràng nói “muốn ăn gì thì ăn”, thấy anh ta vỗ vỗ vào túi khoe “rích bố cu”, hai con mắt “trũng hoáy” của thị tức thì “sáng lên".Tình tiết thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc, trông có vẻ thô lỗ, nhưng không đáng chê, trái lại rất đáng thương. Thị đang đói, thị đã nhịn đói nhiều ngày, thị cần được ăn, thị cần được sống. Kim Lân rất nhân hậu khi nói về thị, khi nói về sự đói khát của người nghèo.

Đói và chết đó đâu chỉ riêng ai! Mẹ con Tràng, cái nhà “vắng teo đứng rúm ró” trên mảnh vườn đầy cỏ dại. Cửa nhà là một tấm phên rách. Niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất. Nơi ấy đã làm cho nàng dâu mới thất vọng “nén một tiếng thở dài”. Bà cụ Tứ “mặt bủng beo u ám”. Anh cu Tràng “bước mệt mỏi”, cái đầu “trọng nhẵn chúi về đằng trước’’ với bao lo lắng, chật vật. Đám trẻ con xóm chợ, trước đây tinh nghịch thế, giờ đây chúng "ngồi ủ rũ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích”. Trước nhà kho trên tỉnh có mấy chị con gái “ngồi vêu ra”. Đặc biệt nhân vật “thị”, cái đói đã đi tất cả. Không họ tên, tuổi tác, không gia đình, anh em. Không quê hương bản quán. Hình hài tiều tụy, xơ xác đáng thương. Áo quần “tả tơi như tổ đỉa “gầy sọp hẳn đi”, khuôn mặt lưỡi cày “xám xịt”, chỉ còn thấy hai con mắt. Con đường phía trước của thị là vực thẳm, là chết đói. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả. Chỉ nghe Tràng nói “muốn ăn gì thì ăn”, thấy anh ta vỗ vỗ vào túi khoe “rích bố cu”, hai con mắt “trũng hoáy” của thị tức thì “sáng lên".Tình tiết thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc, trông có vẻ thô lỗ, nhưng không đáng chê, trái lại rất đáng thương. Thị đang đói, thị đã nhịn đói nhiều ngày, thị cần được ăn, thị cần được sống. Kim Lân rất nhân hậu khi nói về thị, khi nói về sự đói khát của người nghèo.

Truyện "Vợ nhặt" đã biểu lộ một lòng trân trọng đối với hạnh phúc của con người. Cách kể của Kim Lân rất hóm hỉnh về tình huống anh cu Tràng nhặt được vợ và những tình tiết xoay quanh nàng dâu mới. Chỉ một vài câu “tầm phơ tầm phào”, Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc thế mà hắn nhặt được vợ! Nhặt được vợ nhưng hắn cùng phải liều: “Chặc, kệ!”. Hắn nghĩ thóc gạo này nuôi thân còn khó, lại còn “đèo bòng". Trên đường dẫn vợ mới nhặt được về nhà xin phép mẹ già, anh cu Tràng vui như mở cờ trong bụng. Kim Lân tả đôi mắt và nụ cười của anh con trai cục mịch này đế làm nổi bật niềm hạnh phúc mới nhặt được vợ. Tràng “phởn phơ khác thường". Hắn “tủm tỉm cười nụ”. Hai mắt “sáng lên lấp lánh”, có lúc cái mặt hắn “cứ vênh lên tự đắc với mình”. Hình ảnh Tràng và thị đi bên nhau trông "hay đáo để". Tràng khoe hai hào dầu, rồi cười hì hì, bị thị "phát đánh đét" vào lưng với câu mắng yêu: "Khỉ gió", nghểnh cổ thổi tắt phụt ngọn đèn con, bị thị mắng: "Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!". Những tình tiết ấy rất hay nói lên tình yêu mạnh hơn cái chết.

Cảnh mẹ chồng gặp nàng dâu mới thật vô cùng cảm động. Vượt qua phong tục tập quán ăn hỏi cưới xin, chẳng có dăm ba mâm, bà cụ Tứ thương người đàn bà xa lạ, thương con và thương mình, bà nhận nàng dâu mới: "ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng". Tình thương của bà mênh mông, bà nghĩ "Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ được...". Bà dịu dàng yêu thương gọi nàng dâu mới là "con". Lòng đầy thương xót, bà nói với hai con: năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá. Qua đó ta càng hiểu sâu hơn cái lẽ đời. Nhân dân lao động nghèo khổ đứng trước tai họa, họ đã dựa vào nhau, san sẻ tình thương, san sẻ vật chất cho nhau để vượt qua mọi thử thách, hướng tới ngày mai với niềm tin và hi vọng: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời...". Người đọc cảm thấy ngọn đèn "vàng đục" chiếu sáng trong mái lều đêm tân hôn của vợ chồng Tràng là ngọn đèn hi vọng và hạnh phúc ấm no. Trong truyện Vợ nhặt, bữa cháo cám để đón nàng dâu mới là một điểm nhấn nhân đạo đáng kể. Bà cụ Tứ gọi đó là “chè khoán... ngon đáo để”. Bà tự hào chia sẻ với hai con rằng “xóm ta không có cám để ăn". Trong bữa cháo cám, bà kể chuyện vui, chuyện sung sướng về tương lai. Gia đình mẹ con vui vẻ “đầm ấm hòa hợp”. Dù sau này, vợ chồng Tràng có thể có nhiều bữa cơm ngon hơn, nhưng họ chắc chắn sẽ không bao giờ quên được bữa cháo cám ấm áp buổi sáng hôm ấy. Vị cháo đắng chát nhưng đầy tình thương của mẹ đã đọng lại trong tâm hồn họ. Kim Lân có mối liên hệ chặt chẽ với người dân Việt Nam, ông hiểu rõ tâm lý và tình cảm của họ. Ông đã truyền đạt cái đắng chát của cuộc đời, cũng như tình thương của mẹ đến cho những thế hệ sau mà không có món ăn cao cấp nào có thể sánh bằng được?

Kim Lân đã dành tình cảm đặc biệt, nồng hậu nhất cho cuộc sống của người dân Việt Nam. Khi Tràng lấy vợ, các em nhỏ tinh nghịch reo lên: “chông vợ hài”. Việc Tràng có vợ khiến dân ngụ cư xóm cảm thấy rất vui vẻ và tươi tắn. Bà cụ Tứ vui mừng vì con trai đã có vợ, bà như trẻ lại, tươi cười và hồn nhiên hơn. Vợ Tràng trở thành một người phụ nữ hiền hậu và đúng đắn. Tràng như từ giấc mơ bước ra, anh cảm thấy hạnh phúc đến mức không thể tin được. Sau một ngày một đêm, việc anh lấy vợ trở thành sự thật tuyệt vời của cuộc đời anh.

Sự thay đổi cuộc sống được thể hiện qua cảnh vật. Mẹ và vợ Tràng đã dậy sớm, quét dọn lại nhà cửa, sân ngõ. Tiếng chổi quét sàn vang lên. Hai cái ang được đổ đầy nước. Đống rác mùn đã được dọn sạch khỏi lối đi. Mẹ chồng, nàng dâu mới, con trai, ai cũng đóng góp vào việc sửa sang tổ ấm gia đình hạnh phúc. Họ không nghĩ đến cái chết mà hướng tới sự sống và hạnh phúc. Tràng cảm thấy mình đã "đổi thay", hắn cảm thấy mình có trách nhiệm phải lo lắng cho vợ con trong tương lai!

Một chi tiết thú vị là sau khi nghe tiếng trống thúc thuế, vợ Tràng đã báo tin ở mạn Thái Nguyên, Bắc Giang, rằng người ta không nộp thuế và phá kho thóc của Nhật để chia cho người đói. Còn anh chồng Tràng thấy trong tâm trí mình "lá cờ đỏ bay phấp phới". Cách mạng đang đến. Nạn đói sẽ được đẩy lùi. Hình ảnh lá cờ đỏ trong truyện Vợ nhặt không chỉ nhấn mạnh giá trị nhân đạo mà còn tạo ra một tâm trạng lạc quan và ấn tượng, như một cảm giác tiên tri về một ngày mai an lành, hạnh phúc.

Niềm hạnh phúc của Tràng và niềm vui của mẹ già có sự trì hoãn nhưng rất quý giá và đáng trân trọng! Trên thế giới đã có ai nhặt được vợ? Cái đói do bọn Nhật Pháp gây ra đã lấy đi tất cả, cả tính mạng và phẩm giá của con người. Một điều chắc chắn: niềm khao khát tình yêu và hạnh phúc khao khát sự sống mạnh hơn cái chết. Thực tế, cái vị đời ngọt ngào và con người ấm áp đã tạo nên giá trị nhân đạo trong truyện Vợ nhặt.

Viết đoạn văn 1000 từ phân tích nội dung truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân

Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào lòng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện thành công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân. Bằng bút pháp tả thực Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống bần cùng giai đoạn đó.

Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm, ”người chết như nga ra, không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vấn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả được cái đói đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm.

Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống của những điều khốn khổ, bần hàn nhất. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình huống truyện thắt nút làm nên cuộc đời của từng nhân vật.

Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ với vài chi tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một anh nông dân nghèo rách mùng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ con không buồn trêu tràng nữa, vì chúng đã không còn sức lực. Khung cảnh buồn thiu, đầy ám ảnh bao phủ lên xóm nghèo. Trong khung cảnh chiều tà, suy nghĩ của Tràng được tái hiện “hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái ao nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”.

Với vài chi tiết tiêu biểu, Kim Lân đã vé lên trước mặt người đọc hình ảnh người nông dân nghèo đói, xơ xác, bộn bề lo lâu đến cùng cực.

Tác giả đã thật khéo để xây dựng nên tình huống truyện độc đáo, mới lạ, làm thay đổi cuộc đời của một con người. Tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Là “nhặt” được chứ không phải lấy được. Người đọc nhận ra sự thê thảm, bước đường cùng và đầy éo léo của con người trong xã hội bấy giờ.

Hình anh vợ anh cu Tràng dần dần hiện ra dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn đầy ám ảnh “thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Một người đàn bà nghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi trời sinh.

Giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã xây dựng nên khung cảnh đìu hiu, ảm đảm của xóm nghèo “từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp sụp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ kêu trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Không còn gì thê thảm và hiu hắt hơn khung cảnh chiều tàn nơi xóm nghèo như vậy. Mọi thứ dường như bị cái đói, cài nghèo đè nén đếm chìm nghỉm. Bằng ngòi bút tả thực sinh động, Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc nhiều chua xót, đắng cay cho những phận nghèo long đong.

Điều đáng chú ý chính là cách những người hàng xóm hỏi thăm Tràng về người đàn bà đi bên cạnh tràng. Thực ra thấy lạ nên người ta mới hỏi, thì cũng hiểu ra, có lẽ là vợ Tràng, “nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Người đàn bà bắt không còn chua ngoa, đanh đá nữa mà trở nên thẹn thùng khi quyết định theo Tràng về làm vợ.

Làm vợ một cách bất ngờ, giữa cảnh đói như ngả rạ. Có lẽ cái nghèo đói đã đẩy hai con người đến với nhau, không phải tình yêu nhưng là tình thương. Hẳn người đọc sẽ cảm thông và xót thương cho những mảnh đời dật dờ nơi xóm ngụ cư.

Khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến và sự chuyển đổi trong tâm tinh thật tài tình và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn tấm lòng một người mẹ bao dung và hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người đàn bà ở trong…” Sự băn khoăn lo lắng của bà cụ bắt đầu hiện lên. Nhưng rồi bà cũng nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc làm ăn nên nổi, còn mình…” Những suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim Lân diễn tả qua một loạt động từ tình thái khiến cho cái khổ, cái đói lại vồ vập và hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.

Bà đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Tình huống khiến người đọc nhớ mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu dầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa”. Bà cụ Tứ hôm nay thay đổi tâm trạng, toàn nói những chuyện vui trong nhà, vì bà muốn mang lại không khí vui tươi hơn giữa cái nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám” hiện lên bình dị, đầy chua xót và nước mắt của người mẹ nghèo. Ai cũng muốn có một bữa cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà có thể mang lại cho con.

Đây là một chi tiết vô cùng đắt giá trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân khiến người đọc nhớ mãi. Bên cạnh đó hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện của cuối truyện ngắn đã mang đến chút niềm tin và hi vọng về một tương lai tươi sáng hơn.

Bằng ngòi bút miêu tả chân thực, sinh động, cách khắc họa tâm lý nhân vật sắc sảo, độc đáo và cốt truyện đầy bất ngờ Kim Lân đã vẽ lại trước mắt người đọc khung cảnh đói nghèo tràn lan của xã hội Việt Nam những năm 1945. Qua đó tác giả cũng nhấn mạnh tình yêu thương giữa người với người luôn bất diệt.

Bài văn mẫu 3 - Phân tích giá trị hiện thực trong truyện ngắn Vợ nhặt

Viết về đề tài người nông dân trước cách mạng trên văn đàn Việt Nam đã có rất nhiều những tác phẩm và những cây bút xuất sắc, nhưng ở mỗi một tác giả, tác phẩm ta lại thấy một khía cạnh riêng, mang tính cá nhân của người viết. Ví như Nguyễn Công Hoan là giọt nước mắt đau đớn, nỗi khốn khổ của người nông dân dưới những mẩu truyện ngắn cười ra nước mắt ví như Tinh thần thể dục hay Kép tư bền. Hay Ngô Tất Tố là nỗi đớn đau, xót xa cho những kiếp người cùng cực dưới nạn thuế má trong Tắt đèn. Hoặc một Nam Cao lạnh lùng, với hiện thực trần trụi đau đớn với kiếp sống đầy bi kịch của Chí Phèo.

Và rồi đến với Kim Lân, một tác giả có số lượng tác phẩm cực ít thế nhưng lại là một trong 10 tác giả tiêu biểu nhất của nền văn học hiện thực Việt Nam với hai tác phẩm Làng và Vợ Nhặt. Thành công của Kim Lân đến từ sự khác biệt trong lối hành văn và cách tư duy, ông dùng cái hiện thực để làm nổi bật lên những cá tính và phẩm chất tốt đẹp của con người. Lấy tư tưởng nhân văn nhân đạo phát triển lên, không chỉ có tính phản ánh mà còn mở ra cho nhân vật của mình một lối thoát mới ấy là Cách mạng, thứ mà những nhà văn viết về đề tài này trước đó chưa khai mở được. Trong tác phẩm Vợ nhặt bức tranh hiện thực hiện lên dưới ngòi bút của Kim Lân bằng những câu văn nhẹ nhàng, nhưng vô cùng ám ảnh và u ám.

Bối cảnh trong Vợ nhặt là một bối cảnh rất đặc biệt, là giai đoạn đau thương trong lịch sử dân tộc. Kim Lân đã phản ánh một cách chân thực tình cảnh khốn khổ của người nông dân trong nạn đói những năm 1944-1945 thông qua ba nhân vật Tràng, thị và bà cụ Tứ. Người nông dân đầu tiên hiện lên ấy là Tràng, một chàng trai còn trẻ, vô tư, nhưng cuộc sống nghèo khổ, sống vật vờ lay lắt như một cành củi khô dưới bầu trời u ám, ngày ngày lao động quần quật với công việc kéo xe. Cái đói, cái khổ những năm tháng ấy khiến một anh con trai vốn sức vóc cũng trở nên tiều tụy, mệt mỏi “Tràng cúi đầu bước từng bước chậm chạp”, tàn tạ vô cùng. Còn thị, một người đàn bà, bị cái đói hành hạ đến độ cong cớn, sưng sỉa vì miếng ăn, rồi cuối cùng vì 4 bát bánh đúc mà đánh đổi cả một đời làm vợ người. Thị đã ở bên bờ vực của cái chết, nên thị phải chấp nhận mang trên mình cái danh người “vợ nhặt”, tựa như cọng rơm, cọng rác vứt đâu đó ngoài xó chợ. Cuối cùng là bà cụ Tứ, một người đàn bà tội nghiệp, tuổi cao sức yếu, đáng lý ra nên ở nhà bồng cháu, bồng chắt, thế nhưng bà vẫn đăm đăm nỗi lo không lấy được vợ cho đứa con trai duy nhất, rồi cả nỗi lo đói kém, bà vẫn phải lao động miệt mài, với một tương lai u ám và một tia niềm tin còn lóe sáng, rằng cầm cự được qua cơn đói này tương lai sẽ tốt hơn.

Đó là nạn đói qua số phận ba nhân vật chính, nhưng nó còn khủng khiếp hơn khi người ta nhìn ra ngoài kia, nơi những con người của xóm ngụ cư đang đếm từng bước đến nghĩa địa. Có thể nói rằng chưa từng có một nhà văn nào lại có thể vẽ ra một bi kịch nạn đói kinh hoàng và ám ảnh đến thế, những người dân tản cư, bồng bế, dắt díu nhau nhếch nhác “xanh xám như bóng ma”, “ngổn ngang khắp lều chợ”, cảnh “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh thê lương, tối tăm và lạnh lẽo, “bóng người đói dật dờ lặng lẽ đi lại như bóng ma”, cùng với “tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi khủng khiếp”, như tiếng vẫy gọi đầy ám ảnh của tử thần. Có thể nói rằng nạn đói đã biến một ngôi làng thành nơi mà cái chết hiện diện, bao trùm khắp không gian và thời gian, khiến con người ta không thể trốn chạy, vật vờ, ngột ngạt và tuyệt vọng. Bức tranh hiện thực của Kim Lân hiện lên tàn khốc đến nỗi con người ở đây dường như đã nhìn thấy cái chết của mình, và đang chậm rãi chờ nó tới “khó ai có thể tin mình sống nổi” trong đó có cả 3 con người đang cầm cự là Tràng, thị và cụ Tứ. Bởi dẫu Chí Phèo dù đã ở dưới đáy của xã hội, nhưng vẫn có lúc tin vào hạnh phúc với Thị Nở, còn mẹ con Tràng và những con người ngoài kia thậm chí còn chẳng tin vào việc sống sót chứ đừng nói đến hạnh phúc gia đình. Xóm ngụ cư ấy dường như đã bước một bàn chân sang nghĩa địa, sự sống và cái chết chỉ là một bức màn mỏng, mong manh vô cùng, động một cái thôi là đã có vài người ngã xuống, thảm hại và bi thương. Bi kịch nạn đói còn thể hiện cả trong đời sống của gia đình Tràng, “bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại, giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo”. Nếu trong cảnh khác, mà không phải nạn đói, có lẽ chẳng ai nuốt nổi bữa cơm “đạm bạc” ấy, thế nhưng cả nhà Tràng đều ăn rất ngon lành vui vẻ. Nhưng gây ấn tượng và có giá trị phản ánh hiện thực sâu sắc nhất vẫn là hình ảnh nồi cháo cám mà bà cụ Tứ bảo là món “chè khoán” mừng tân hôn. Vị đắng ngắt, nghẹn ứ nơi cổ họng của Tràng chính là mùi vị khốn khổ của những năm tháng kinh hoàng ấy, con người ta tàn tạ đến mức phải ăn cả thức ăn của gia súc để giành giật lại sự sống. Và còn biết bao nhiêu cảnh đời khốn khổ vật vạ, không có cả cám để ăn rồi chờ thần chết đến đến mang mình đi. Rồi ám ảnh đến mức trong đêm tân hôn của Tràng và thị Kim Lân vẫn đặt vào đó “Tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”, u ám và thiểu não càng làm nổi bật lên cái hiện thực khốc liệt của người nông dân trong nạn đói.

Vợ nhặt của Kim Lân là một tác phẩm văn học hiện thực xuất sắc, người ta thấy ở đó một nạn đói kinh hoàng với những sinh linh bé nhỏ, tàn tạ bước từng bước lần về nghĩa địa, thấy được cái không khí tang thương, u uất, tràn ngập mùi tử thi bao trùm trên xóm nhỏ. Đồng thời có ý nghĩa phản ánh sự tàn ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật những kẻ đã gây ra thảm kịch cho hơn hai triệu đồng bào.

Bài văn mẫu 4 - So sánh nhân vật người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài

Kim Lân là nhà văn chuyên viết về người nông dân, viết về cuộc sống ở nông thôn đầy những cơ cực bày ra trước mắt. Vợ nhặt là một truyện ngắn xuất sắc tại đây đã khắc họa thành công tình huống “nhặt vợ” độc đáo. Cùng gặp gỡ số phận người phụ nữ, ta gặp Nguyễn Minh Châu, phía sau con người nghèo khổ ông cũng thể hiện một tấm lòng của mình với nhân vật người phụ nữ. Thị, và người đàn bà hàng chài đã để lại cho ta nhiều ấn tượng khó phai mờ..

Nhân vật người vợ nhặt xuất thân trong truyện ngắn vợ nhặt và được xây dựng với những tính cách qua ngòi bút góc nhìn của Kim Lân. Tại đây ông đã cho ta thấy một vẻ đẹp tiêu biểu của người phụ nữ, dù có trải qua khốn khổ vẫn đẹp sáng một tâm hồn hướng về cái đẹp, cái thiện.

Phía sau cảnh tình bị trôi dạt trong đói nghèo là một trái tim ham sống đến mãnh liệt và tột cùng. Người đàn bà ấy đã chỉ vì “cơm trắng mấy giò” vì “4 cái bát bánh đúc” đã theo Tràng về làm vợ. Phía sau cái nhếch nhác và đói khổ lại là một tâm hồn có hiểu biết có ý tứ biết bao. Khi mới về nhà Tràng thị rất ý tứ, chỉ dám ngồi mép giường, những hành động ngại ngùng thật nữ tính.

Bên trong cái chao chát, chỏn lỏn lúc gặp Tràng, lại là một tâm hồn cực kì hiền lành và hiền hậu, đúng mực biết lo toan cho gia đình. Sáng sớm Tràng thức dậy đã thấy nhà cửa sạch tinh tươm, là cô vợ mới của Tràng đã giúp Tràng đó.

Còn, đối với người đàn bà hàng chài. Cuộc sống mưu sinh đã nhấn chìm bà thành một con người xấu xí, nghèo đói. Người đàn bà là nhân vật chính trong câu truyện, giữ vai trò quan trọng thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm. Qua nhân vật này ta thấy được sự khắc họa rõ nét và sinh động của nhà văn, theo lối tương phản giữa vẻ bên ngoài và tâm hồn đẹp bên trong. Giữa ngoại hình và phẩm chất của bà.

Người đàn bà hàng chài có vẻ bề ngoài không mấy ưa nhìn. Khi ngoại hình xấu xí, thô kệch, nhưng lại là một người mẹ hi sinh, nhân hậu và bao dung. Trái tim không khi nào vơi tình yêu dành cho con cái của mình. Chỉ cần nhìn thấy chúng ăn no bà đã thấy hạnh phúc. Phía sau vẻ thất học, quê mùa thì ấy lại là một người hiểu biết sâu sắc lẽ đời.

Chính bà đã khiến đẩu và Phùng nhận thức lại được hoàn cảnh và cảm thông sâu sắc trân trọng hơn đối với người phụ nữ ấy. Hóa ra đằng sau đó lại là một con người khác hẳn, đẹp đẽ quá, đáng quý đáng trân trọng.

Cả hai nhân vật đều có nét tương đồng, là những người nhỏ bé, nạn nhân của cuộc sống, nhưng trong họ đều có những vẻ đẹp đáng trân trọng, ngợi ca. Cả hai đều được khắc họa chân thực. Nhưng cũng có khác biệt, vẻ vợ nhặt chủ yếu là hình ảnh của cô con dâu mới. Còn người đàn bà hàng chài được khắc họa chủ yếu thông qua phẩm chất của người mẹ mưu sinh, qua các chi tiết kịch tính, qua nạn bạo lực gia đình.

Cả hai nhà văn đã làm nổi bật lên vẻ đẹp người phụ nữ, họ sống trong hoàn cảnh khác nhau nhưng đều hiện lên vẻ đẹp và một đời sống tâm hồn đáng quý. Từ đó khẳng định tư tưởng nhân đạo và ngòi bút hiện thực sâu sắc của nhà văn.

Bài văn mẫu 5 - Phân tích hình tượng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt

Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân. Trong tác phẩm ta không chỉ nhớ về anh cu Tràng và chị vợ nhặt mà còn nhớ đến bà mẹ tảo tần, chịu nhiều vất vả. Bà cụ Tứ là hình ảnh bà mẹ nông dân Việt Nam trước 1945. Ở nhân vật này, Kim Lân không chú ý vào hành động mà đi sâu vào khai thác tâm trạng nhân vật, qua đó khẳng định tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của ông.

Diện mạo của bà cụ Tứ chỉ được tác giả phác họa bằng vài chi tiết “dáng đi lọng khọng, đôi mắt nghèn dử, vừa đi vừa húng hắng ho”. Nhưng chừng ấy cũng đã đủ để cho người đọc hình dung về một bà mẹ nhân dân lam lũ, vất vả đã bị cái đói cái nghèo đeo bám suốt cả cuộc đời.

Nhưng ngòi bút tập trung đi sâu miêu tả tâm lí bà cụ Tứ, đặc biệt là ở hai thời điểm: trong buổi tối cô vợ nhặt về nhà và buổi sáng hôm sau. Qua hai thời điểm đó đã cho thấy tài năng miêu tả tâm lí bậc thầy của Kim Lân. Khi bà cụ Tứ nhìn thấy cô con dâu, bà ngạc nhiên đến mức ngỡ ngàng vì chưa bao giờ bà thấy con trai bà mong ngóng bà về đến vậy. Sự ngạc nhiên tạo nên tâm lí phấp phỏng khi bà theo anh cu Tràng vào nhà và thấy một người đàn bà lạ ngồi trong nhà. Đến lúc này sự ngạc nhiên của bà đã lên đến đỉnh điểm, bà tự hỏi: “Quái, sao lại có người đàn bà ngồi trong ý nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u”. Sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng đến mức bà không tin nổi vào mắt mình, phải dụi mắt để cho đỡ nhoèn.

Sau khi được anh con trai giải thích, tâm trạng bà ngổn ngang, rối bời. Bằng trái tim yêu thương của người mẹ, lòng bà dâng lên tình yêu thương con sâu sắc. Bởi bà hiểu người ta chỉ lấy vợ lấy chồng khi cuộc sống yên ổn, nhưng con bà lại lấy vợ vào thời điểm cái đói diễn ra ác liệt nhất. Cùng với đó bà nghĩ tủi cho phận người mẹ nghèo khi không làm tròn trách nhiệm lo lắng cho hạnh phúc của con. Tất cả những nỗi lòng ấy được dồn trong cái cúi đầu nín lặng. Sau tình yêu thương bà chuyển sang xót xa, lo lắng “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau vượt qua cơn đói khát này được không?”. Nạn đói đang hoành hành, những lo lắng của bà là hoàn toàn hợp lí. Từ lòng yêu thương, lo lắng cho con, tấm lòng nhân hậu của người mẹ còn chuyển sang người vợ nhặt. Dù Tràng không giới thiệu chi tiết, tỉ mỉ nhưng với kinh nghiệm sống của mình và hiểu đám cưới vội vã của người con dâu. Bà nhìn cô với ánh mắt đầy cảm thông, yêu thương: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ”. Như vậy bà không chỉ là hiện thân của tình mẫu tử thiêng liêng mà còn là hiện thân của tấm lòng bao dung, vị tha, sẵn sàng giúp đỡ những người có số phận bất hạnh, éo le.

Dù trong lòng ngập tràn nỗi xót xa, nhưng bà vẫn luôn nói nhưng điều vui vẻ, hạnh phúc với người con dâu mới: “ừ, thôi thì các con đã phải duyên, phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Câu nói vừa xóa đi cái ngượng ngùng cho người con dâu vừa là sự chào đón đầy ấm áp, nhân từ bà dành cho thành viên mới của gia đình. Dù miệng nói ra những điều phấn khởi, vui vẻ nhưng ám ảnh về cái đói, cái chết vẫn là quá lớn. Bởi vậy, khi chìm vào thế giới của riêng mình bà vẫn không khỏi lo lắng, xót xa, và không nén nổi thành dòng nước mắt chảy ròng ròng. Trong buổi sáng hôm sau, Kim Lân tiếp tục đi sâu khai thác tâm lí bà cụ Tứ, đặc biệt nhấn mạnh vào niềm tin, khát vọng tương lai. Cùng với sự thay đổi của Tràng và cô vợ nhặt, bà cụ Tứ cũng có sự thay đổi rõ ràng. Tràng đã cảm nhận thấy người mẹ của mình có dáng vẻ khác hẳn mọi khi, không phải sự nhếch nhác, khổ sở mà thay vào đó là dáng điệu nhẹ nhõm, tươi tỉnh. Bà dậy sớm cùng con dâu quét dọn nhà cửa. Những hành động tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn lao, nó thể hiện sự vun đắp, chăm lo của người mẹ cho hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ. Để tạo niềm tin và hi vọng vào tương lai cho vợ chồng Tràng, trong bữa cơm ngày đói bà lão toàn nói những chuyện sung sướng sau này. Sự tính toán của bà về việc mua lấy đôi gà để ngoảnh đi ngoảnh lại đã có đàn gà, khiến cho đôi vợ chồng có niềm tin vào tương lai. Nhưng dù dùng những câu chuyện vui, lạc quan thì bà lão vẫn không thay đổi được hiện thực là nồi cháo kia chỉ đủ cho mỗi người ăn hai lưng là hết. Và để vượt qua cái đói, bữa cơm đón cô dâu mới có thêm cả nồi cháo cám. Bưng nồi cháo cám ra, phản ứng tâm lí của bà vô cùng đáng thương, bà lật đật, lễ mễ, khuấy khuấy cùng với giọng nói đầy phấn khởi, để giấu bớt đi phần khắc nghiệt của hiện thực là bát cháo cám nghẹn ứ ở cổ. Những hành động đó của bà thật cảm động và đáng trân trọng.

Không phải ngẫu nhiên mà trong ba nhân vật, Kim Lân lại để một bà cụ gần đất xa trời nói về tương lai, nhưng điều tốt đẹp, sau đó còn ẩn chứa thông điệp: Dù thế nào cũng phải giữ lấy niềm tin và hi vọng. Đồng thời cũng là sự ngợi ca của tác giả trước sức sống khỏe khoắn, mãnh liệt của tâm hồn Việt. Người mẹ nghèo nhưng tính cách bao dung, nhân từ đã gieo mầm sự sống, hạnh phúc lứa đôi. Có thể coi bà cụ Tứ là điểm kết tinh của tác phẩm, thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc.

Bằng nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Kim Lân đã lách sâu ngòi bút của mình để thấy được vẻ đẹp tâm hồn, tấm lòng bao dung nhân hậu của bà cụ Tứ với đôi vợ chồng trẻ. Bà cụ Tứ chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất, đại diện tiêu biểu cho hàng triệu bà mẹ Việt Nam. Đồng thời qua nhân vật này cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.

Bài văn mẫu 6 - Hãy bàn luận vẻ đẹp tình mẫu tử qua hình tượng bà cụ Tứ

Truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân được sáng tác sau cách mạng tháng Tám nhưng lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Đặt trong bối cảnh ra đời của tác phẩm, nhà văn đã làm toát lên tấm long yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và khát vọng hạnh phúc của những người người khổ. Vẻ đẹp nhân bản ấy được tác giả xây dựng thành công ở hình tượng nhân vật "bà cụ Tứ" - mẹ anh Tràng - người "nhặt vợ".

Bà cụ Tứ trước hết là người mẹ nghèo khổ đã già yếu với cái lưng "long khòng", kẽ mắt "lèm nhèm ","khuôn mặt bủng beo, u ám ". Những hành động cử chỉ của cụ "nhấp nháy hai con mắt","chậm chạp hỏi", "lập cập bước đi", "lật đật:, "lễ mễ" cũng thể hiện cụ là một người đã già, không còn khỏe mạnh. Hơn nữa người phụ nữ ấy còn bị đặt trong hoàn cảnh nghèo nàn, đói khổ mà cụ nói " cuộc đời cực khổ dài đằng đẵng".

Trong tác phẩm, bà cụ Tứ chỉ xuất hiện ở giữa truyện khi anh Tràng đưa vợ về nhà, nhưng nhân vật này vẫn thu hút được sự quan tâm của người đọc bởi những vẻ đẹp tâm hồn, tính cách.

Trong người mẹ già nua, đói khổ ấy có một tình yêu thương dành cho con cái sâu sắc. Cụ thương người con trai của mình "cảm thấy ai oán xót thương cho số phận đứa con mình". Trong kẽ mắt kèm nhèm của cụ rỉ ra hai dòng nước mắt. Cụ đã sớm lo lắng cho cuộc sống tương lai của đứa con mình" không biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua cơn đói này không". Bà còn dành tình yêu thương cho người con dâu mới của mình. Bà nhìn thị nghĩ: "Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này người ta mới lấy con mình, con mình mới có vợ được". Đó là tấm lòng người mẹ không khinh rẻ mà tỏ ra thông cảm thấu hiểu hoàn cảnh con dâu, thậm chí bà còn cho đó là may mắn của con trai mình, gia đình mình khi có con dâu mới. Điều đó chứng tỏ bà cụ Tứ rất hiểu mình, hiểu người. Tình yêu thương còn thể hiện qua những lời nói của bà cụ dành cho con "Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?…". Bà nói với con dâu bằng lời của một người từng trải – vừa lo lắng, vừa thương xót, đồng thời động viên con bằng triết lý dân gian"ai giàu ba họ ai khó ba đời, hướng con tới tương lai tươi sáng. "… Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…". Câu nói thể hiện tấm lòng thương xót cho số phận của những đứa con. Và để ngày vui của các con thêm trọn vẹn, sáng hôm sau cụ" xăm xắn quét tước nhà cửa". Hành động giản dị thôi nhưng thể hiện tấm lòng người mẹ tuy nghèo nhưng hết lòng thương yêu con. Và thế là đám cưới không nghi lễ, không đón đưa của đôi vợ chồng trẻ được chan đầy bằng tình yêu thương và tấm lòng lo lắng của người mẹ nghèo.

Nhân vật bà cụ Tứ bị đặt trong hoàn cảnh éo le, qua đó ta thấy được tinh thần lạc quan của người mẹ già yếu, tuy sắp đến độ gần đất xa trời nhưng luôn hướng về tương lai thể hiện qua những hành động và lời nói. Cụ tin vào triết lý dân gian: ai giàu ba họ ai khó ba đời- lạc quan về một ngày mai tươi sáng. Cụ đồng tình khi thấy Tràng thắp đèn mặc dù cụ biết lúc đó dầu rất đắt, dầu là thứ xa xỉ. Nếu để ý ta sẽ thấy chính bà lão "gần đất xa trời" này lại là người nói về tương lai nhiều nhất" cụ nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Đó không đơn thuần chỉ là niềm lạc quan của người lao động mà còn là ước mơ về cuộc sống có phần tươi sáng hơn cho các con. Bà cụ trông cũng" tươi tỉnh khác hẳn ngày thường". Chính tâm trạng vui tươi phấn khởi của người mẹ già đã làm sáng lên cái không gian u ám và góp phần vào ngày vui trọng đại của cuộc đời người con trai. Sáng hôm sau cụ xăm xắn quét dọn nhà cửa, đó là những công việc sinh hoạt thường ngày nhưng đặt trong hoàn cảnh này, hành động quét dọn làm nhà cửa trông sạch sẽ, tinh tươm hơn giống như cụ đang muốn tự tay quét đi những tăm tối của ngày cũ và đón chờ những điều tươi sáng hơn. Và hình ảnh người mẹ già, cười đon đả: "Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy", cứ quẩn quanh, ám ảnh tâm chí người đọc. Cái lạc quan không những không bị mất đi mà lại càng trở nên mãnh liệt hơn trong mưa nắng cuộc đời. Trong buổi sáng đầu tiên đón tiếp nang dâu mới, nồi cháo cám "chát xít, nghẹn bứ trong miệng" mà ngon ngọt trong long, ngọt bởi tấm lòng người mẹ nghèo đang cố xua đi cái không khí ảm đạm bằng thái độ lạc quan và sự tươi tỉnh động viên con cố gắng vượt qua hoàn cảnh. Nhưng sự thật là vị đắng ngắt của cháo cám và tiếng thúc thuế từ xa vọng lại đã không làm niềm vui nhỏ của những con người nghèo khổ cất cánh lên được.

Bằng tài năng và tấm lòng đồng cảm sâu sắc, Kim Lân đã dựng lên "hình ảnh chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm 1945". Nhân vật bà cụ Tứ được khắc họa chủ yếu qua sự vận động trong nội tâm nhân vật. Ngoài ra, qua những lời nói, cử chủ, hành động của nhân vật ta cũng có thể cảm nhận được tấm lòng yêu thương con sâu sắc. Ở bà cụ Tứ thấp thoáng hình ảnh của nhân vật lão Hạc, của mẹ Dần, vợ chồng Dần (Nam Cao) những người nông dân nghèo nhưng chỉ sống vì con, hết lòng yêu thương con. Dẫu chỉ là một nhân vật phụ nhưng bằng tài năng, và tình cảm thiết tha trìu mến đối với tấm lòng người mẹ nghèo, Kim Lân đã khắc họa được chân dung nhân vật vừa sinh động, chân thực, vừa cảm động, day dứt với người đọc. Chính những hành động, lời nói của cụ, nụ cười trên khuôn mặt bủng beo u ám đã làm sáng bừng thiên truyện sau cái tối tăm, cái bế tắc của đói nghèo. Ý nghĩa nhân bản mà nhà văn muốn gửi gắm qua nhân vật này là con người dù có đặt vào hoàn cảnh khốn cùng, cận kề cái chết nhưng vẫn không mất đi những giá trị tinh thần và phẩm chất tốt đẹp: lòng yêu thương con người và thái độ lạc quan hi vọng vào tương lai tươi sáng dù cho chỉ có một tia hy vọng mong manh. Kim Lân đã khám phá và thể hiện thành công điều đó ở nhân vật bà cụ Tứ.

Bài văn mẫu 7 - Phân tích chi tiết "giọt nước mắt của bà cụ Tứ

Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn, ông thường viết về nông thôn và người nông dân, ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của những người nông dân nghèo rất gần gũi với sinh hoạt của ông. Tác phẩm “Vợ nhặt” được in trong tập “Con chó xấu xí” (xuất bản năm 1962). Nhan đề là sự kết hợp lạ lùng về mặt ngữ nghĩa: một vế biểu tượng cho khát vọng hạnh phúc của con người, một vế diễn tả hành động “nhặt” những cái người ta bỏ đi hoặc bỏ rơi, thường gợi sự tầm thường, rẻ rúng. Nhan đề gợi ra tình huống truyện lạ lùng, éo le, bi hài trong cuộc đời: Tràng - một người đàn ông nghèo hèn, xấu xí ở xóm ngụ cư, có vợ theo không về giữa bối cảnh đói khát, người chết như ngả rạ. Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo, đen tối và bế tắc của xã hội VN trước cách mạng tháng Tám. Bối cảnh của câu chuyện là nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945 do phát xít Nhật, thực dân Pháp, phong kiến tay sai bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay để phục vụ chiến tranh, khiến từ Quảng Trị trở ra hơn hai triệu đồng bào ta chết đói.

Bà cụ Tứ là nhân vật xuất hiện muộn nhất trong tác phẩm nhưng lại có vị trí quan trọng thể hiện tư tưởng của truyện ngắn. Ngoại hình của bà nhạt nhòa như ánh hoàng hôn, dật dờ như một cái bóng, được nhà văn giới thiệu bằng một câu văn mang giọng điệu nhẹ nhàng: “Ngoài đầu ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre lọng khọng đi vào. Bà lão vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Gần hơn nữa, cụ Tứ hiện lên với đôi mắt lèm nhèm, da bủng như vỏ chanh, tấm lưng còng hẳn xuống. Qua đó, ta thấy được bà cụ Tứ là một người mẹ nông dân nghèo khổ, từng trải và hiểu đời, mặc dù gia cảnh nghèo, góa bụa, thân phận bèo bọt nhưng bà rất hiền lành, nhân từ và hết mực thương con.

Khi về đến nhà, bà cụ Tứ rất ngạc nhiên vì thấy có một người đàn bà lạ. Tự dưng bà thấy mắt mình nhoèn ra thì phải. Bà cụ không nhận ra đó là ai. Kim Lân đã dựng lên một loạt câu hỏi để diễn tả tâm trạng của bà cụ Tứ: “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong đấy nhỉ? Sao lại chào mình bằng u? Ai thế nhỉ?”… Bà cụ ngạc nhiên đến nỗi người đàn bà kia chào hai lần mà cụ vẫn không trả lời. Nét tâm trạng này là thường tình, tự nhiên, hợp lí bởi người phụ nữ là một người lạ, bà cụ chưa một lần gặp mặt, đồng thời bà cụ không thể tin con trai mình lấy vợ. Trái tim của người mẹ vốn rất nhạy cảm với chuyện riêng tư của con cái khi đến tuổi trưởng thành vậy mà Kim Lân lại để bà cụ Tứ ngơ ngác quá lâu. Phải chăng chính sự quẩn quanh bế tắc của hoàn cảnh đói khát đã đánh mất ở cụ Tứ sự nhạy cảm ấy?

Khi bà lão đã hiểu ra cơ sự rằng người phụ nữ xa lạ kia là vợ của con trai mình, lúc này hai dòng nước mắt bà rỉ xuống từ kẽ mắt kèm nhèm trên gương mặt khắc khổ già nua của bà, đó là những giọt nước mắt xót tủi, mừng vui của một người mẹ hiểu đời. Cụ nói với các con: “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...”. Tác giả dùng từ “mừng lòng” nghĩa là thái độ chấp thuận của bà cụ Tứ không hề khiên cưỡng. Cụ nghĩ con trai mình có vợ là nó đã nên người. Bà cụ còn cảm thông với người vợ nhặt: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Bà cụ nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót. Người ta gặp bước khó khăn đói khổ này mới lấy đến con mình. Qua đó thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng của bà, lòng thương con khi nghĩ đến cảnh chúng nó có nuôi nổi nhau hay không.

Tuy đã mừng lòng chấp thuận, nỗi buồn tủi và thương lo cho con của bà cụ Tứ vẫn rất dữ dội. Bà cụ Tứ buồn vì con có vợ khi gia cảnh nghèo khó đến một mâm cơm cúng tổ tiên cũng không có. Chuyện trăm năm của đời người mà đơn giản đến xót xa, tội nghiệp. Càng tủi phận bao nhiêu, bà cụ lại càng thương con bấy nhiêu. Bà cụ nói với các các con “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá, không biết nó có nuôi nổi nhau qua trận đói này không”. Bà lão miên man nghĩ đến đời ông lão và đời mình, rồi lại lo cho tương lai các con. Bà thở nhẹ ra một hơi dài, bóng tối trùm lấy hai con mắt… lòng bà cụ cũng tối sầm lại vì những ý nghĩ u ám khổ đau. Bà lão nghẹn lời, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Trong suốt tác phẩm, đây là lần cuối cùng bà cụ Tứ rơi nước mắt. Dòng nước mắt ấy là điều đại diện cho một tấm lòng nhân ái, yêu thương con, cùng đó là tình hữu ái giai cấp, một sự cảm thông với người vợ nhặt.

Tác giả Kim Lân đã xây dựng một chi tiết giọt nước mắt đặc sắc, phân tích tâm lí nhân vật bà cụ Tứ một cách sắc sảo. Bên cạnh đó, chi tiết giọt nước mắt đã bao hàm cả giá trị hiện thực lẫn giá trị nhân đạo của tác phẩm: một bên gián tiếp tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít và phong kiến tay sai, phản ánh đời sống vất vả của người lao động trong nạn đói; một bên hé mở vẻ đẹp khuất lấp của con người trong nạn đói.

Giọt nước mắt vốn là một biểu hiện của nhiều sắc thái khác nhau. Ngoài giọt nước mắt yêu thương của bà cụ Tứ trong “Vợ nhặt”, chúng ta còn có giọt nước mắt giả tạo (Hạnh phúc của một tang gia – Vũ Trọng Phụng), giọt nước mắt đau đớn (Lão Hạc)… và đặc biệt là giọt nước mắt đầy nhân tính của Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao. Khi được thị Nở nấu cho bát cháo hành, Chí cảm thấy vô cùng ngạc nhiên và xúc động, vì đây là lần đầu tiên có một người đàn bà đối xử tốt với Chí đến vậy. Chí có những cảm xúc đi từ bâng khuâng, êm ái nhẹ nhàng, đến vừa vui vừa buồn, và có lẽ cuối cùng là có chút gì đó ăn năn… Một con quỷ dữ như Chí cũng phải khóc khi cảm nhận được tình yêu thương nồng ấm đến từ thị Nở. Đây cũng là một biểu hiện của niềm khát khao hạnh phúc gia đình ẩn sâu trong con người thô kệch, xấu xí của Chí.

Chi tiết giọt nước mắt của bà cụ Tứ ở tác phẩm “Vợ nhặt” đạt thành công cả về nội dung và nghệ thuật. Nó điểm tô thêm màu sắc riêng biệt của tác phẩm “Vợ nhặt” để người đọc tìm đến văn học, tìm đến hiện thực, tìm đến các giá trị nhân văn nuôi dưỡng tâm hồn con người thêm đẹp.

Bài văn mẫu 8 - Hãy phân tích nhân vật bà cụ Tứ để làm sáng tỏ vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam và tài năng nghệ thuật của nhà văn Kim Lân qua đoạn văn bản sau:

Bà lão phấp phỏng bước theo con vào trong nhà. Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, bà lão càng ngạc nhiên hơn.. Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu.

... Thấy mẹ vẫn chưa hiểu, hắn bước lại gần nói tiếp:

- Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau… Chẳng qua nó cũng là cái số cả...

Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?

Bà lão khẽ thở dài đứng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được... Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con... May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?

Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với "nàng dâu mới":

- Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...

Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hắn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài ra sân. Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:

- Nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.

Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đưa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?...

- Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân.

Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi, người đàn bà khẽ nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ. Bà lão hạ thấp giọng xuống thân mật:

- Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chỉ cái lúc này, cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy.

Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...

(Vợ nhặt - Kim Lân - SGK Ngữ văn 12, tập Hai)

Luận điểm 1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm

Kim Lân cây bút chuyên viết truyện ngắn, ông có những trang viết đặc sắc về con người, phong tục làng quê với những thú chơi và sinh hoạt văn hóa cổ truyền của người dân đồng bằng Bắc Bộ được gọi là những “thú đồng quê”, “phong lưu đồng ruộng” như: chơi núi non bộ, thả chim, đánh vật, chọi gà.. .Cách viết chân thực xúc động về những người dân quê mà ông am hiểu sâu sắc, cảnh ngộ và tâm lý. Ông là nhà văn của người nông dân “đi về với đất, với người thuần hậu, nguyên thủy” (Nguyễn Huy Thiệp).

Truyện ngắn “Vợ nhặt” tái hiện nạn đói thê thảm 1945, đồng thời thể hiện được vẻ đẹp tình người và sức sống diệu kỳ. Kim Lân tự đánh giá: “Chất nhân ái, tình thương của người đối với người trong cảnh khốn cùng. Điều đáng nói nhất là trong cái đói con người vẫn nghĩ tới điều sung sướng cho nên người ta mới lấy nhau”, đó là nội dung cơ bản nhất của tác phẩm.

Luận điểm 2. Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn văn bản để làm sáng tỏ vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ Việt Nam

  • Khái quát nhân vật bà cụ Tứ:

Trong ba nhân vật của truyện thì bà cụ Tứ - mẹ anh Tràng gây được nhiều thiện cảm đối với người đọc hơn cả bởi tấm lòng nhân hậu rất đáng trân trọng, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Giá trị nhân văn của tác phẩm sẽ giảm đi rất nhiều nếu thiếu vắng nhân vật này. Tác giả đã đặt bà cụ Tứ vào tình huống hoàn toàn bất ngờ: Giữa những ngày đói kém khủng khiếp, đứa con trai của bà cụ bỗng dưng nhặt được vợ và dẫn về nhà. Sự kiện đột ngột đó là đầu mối dẫn dắt câu chuyện và làm nổi bật tâm trạng nhân vật cùng chủ đề tác phẩm. Nhân vật bà cụ Tứ tuy mãi đến cuối tác phẩm mới xuất hiện nhưng đã làm cho câu chuyện về người “vợ nhặt” có chiều sâu của tính nhân văn và tính trữ tình. Xây dựng nhân vật này, dường như nhà văn có chủ ý hướng người đọc đến sự nhìn nhận và suy ngẫm về chuyện lấy vợ của Tràng từ cảm nhận của người mẹ nghèo khổ đối với việc đại sự trong đời của con trai mình. Khi miêu tả và thể hiện tính cách của bà cụ Tứ, ngòi bút Kim Lân chân thật trong từng hình ảnh và từng chi tiết. Tác giả khéo léo dẫn dắt để người đọc cùng suy nghĩ, cùng nói cười với bà cụ. Nỗi khổ đau, tủi nhục suốt đời đè nặng lên thân phận đã tạo nên tính cách của bà.

  • Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn văn bản:

+ Bà cụ Tứ đã trở về trong sự trông mong, chờ đợi của Tràng. Bà lão lấy làm ngạc nhiên khi thấy Tràng reo lên như một đứa trẻ và lật đật chạy ra đón mình. Bà nhấp nháy hai con mắt nhìn Tràng, chậm chạp hỏi; Có việc gì thế vậy? rồi phấp phỏng bước theo con vào trong nhà. Tác giả đã dùng ngôn ngữ độc thoại nội tâm để diễn tả tâm trạng băn khoăn, thắc mắc của bà cụ Tứ lúc này. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà: Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, bà lão càng ngạc nhiên hơn. Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?. Những câu hỏi liên tiếp đẩy sự ngạc nhiên lên cao độ. Trong sự ngạc nhiên hơi quá lâu ấy, dường như có một nỗi ngậm ngùi, xót xa. Có lẽ cái đói, cái chết gần kề đã khiến cho sự tinh ý của người mẹ mòn mỏi đi nhiều. + Sự ngạc nhiên vẫn tiếp tục. Bà lão không tin vào mắt mình: Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thay mắt mình nhoèn ra thì phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu. Người mẹ mãi ngỡ ngàng ngạc nhiên có lẽ cũng vì trong hoàn cảnh đói khát này và với một người như Tràng, bà không dám nghĩ con trai mình có vợ.

+ Khi bà lão vỡ lẽ và cúi đầu nín lặng. Cái tư thế cúi đầu nín lặng của bà cụ Tứ chất chứa biết bao suy nghĩ, giúp người đọc dần dần nhận ra nội tâm phong phú bên trong cái vẻ tưởng như già nua, lẩm cẩm: Bà lão hiểu rồi. Ra thế! Thằng con mình nó đã có vợ... Đọc đến đây tự dưng ta lại nhớ đến bà mẹ trong Một đám cưới (Nam Cao), bà mẹ ấy trong đám cưới của con mình dù là một đám cưới nghèo nhưng hoạt bát và nhanh nhẹn biết bao. Giá trong hoàn cảnh khác, có lẽ mẹ Tứ cũng vui mừng và hớn hở như ai, làm cha làm mẹ có ai lại không mong con cái yên bề gia thất có cháu để ẵm bồng, nhưng qua cái giọng ngập ngừng đứt quãng của Tràng hình như phần nào ta cũng nhận ra cái xót xa đến tội nghiệp. Tràng không ngờ. Bà lão càng không ngờ. Ai có thể ngờ rằng Tràng sẽ cưới vợ đúng hơn là nhặt vợ trong lúc này đâu. “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi.”. Trong cái khoảnh khắc lặng im ấy có đến hàng trăm hàng nghìn nỗi lo toan giữa lòng mẹ. “Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa tiếc thương cho số kiếp đứa con mình”. Chính giữa lúc này chấp nhận “nàng dâu” là mẹ Tứ đồng tình với cái khó cái khổ cái đói đang de doạ tính mạng của gia đình bà. Cuộc đời mà ai có thể biết được ngày mai sẽ còn ai sẽ mất ai trong những năm tháng đói khổ này.

+ Trong hoàn cảnh này, bà cụ Tứ có thể có những phản ứng khác, bà hoàn toàn có thể từ chối thẳng thừng “nàng dâu” mà anh con trai đã nhặt được. Nhưng... làm sao bà cụ có thể hành động như thế một khi bà nghĩ đến cái được vợ của con và cái mất của người kia thì người ta theo không về ở với con mình. Làm sao bà có thể chối từ khi người đàn bà đáng thương kia cũng đang đói khổ như bà. Tục ngữ có câu: “Thương người như thể thương thân”. Phải rồi, bà đã khổ và đã hiểu thế nào là đói khổ thì lẽ nào... Nhiều khi cái khổ, cái đói lại giúp người ta xích đến gần nhau hơn, là một động lực thúc đẩy người ta hiểu và thông cảm nhau hơn.

+ Bà lão đã khóc, “trong đôi mắt kèm nhèm của bà rỏ xuống hai dòng nước mắt”. Có thể nói đoạn này Kim Lân đã trở thành một nhà quay phim tài ba. Từ từ trong cận cảnh hiện lên đôi mắt hằn dấu chân chim một thời vất vả của bà cụ Tứ và trên khoé mắt nứt nẻ ấy rịn ra một giọt nước mắt khô héo. Bà khóc cho niềm vui và khóc cho cả nỗi buồn. Bà lão tự động viên mình “May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo hết được”. Bà lão nghĩ thế nên bà quyết định. Người già hay cả nghĩ, lắm lo xa, bà lão chợt: “Nghĩ đến ông lão, đến đứa con út”, “đến cuộc đời cực khổ dằng dặc của mình mà lo lắng” đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không? Bà như nhìn suốt cả quá khứ, hiện tại và tương lai mà cảm thương cho con mình.

+ Giữa lúc đói nghèo lại phải “đèo bòng” thêm một miệng ăn bà cụ Tứ nghĩ về nàng dâu mới không phải ở cảm giác của một người biết ơn, mà tràn đầy tình yêu thương. Người mẹ nghèo nhân hậu ấy càng thấu hiểu cảnh ngộ xót xa của nàng dâu càng thương chị ta hơn. Tâm trạng bà cụ là sự đan xen nhiều cung bậc cảm xúc buồn vui lẫn lộn. Hình như niềm vui của bà cụ Tứ ở đây cũng trở nên héo hon, như không thể thoát ra khỏi nỗi ám ảnh của sự buồn tủi, xót thương của cái không khí thời đại lúc bấy giờ. Từ chỗ xót xa cho đứa con trai, bà chuyển sang thương xót cho người đàn bà. Lòng người mẹ nghèo ấy hiểu ngay cho cảnh ngộ của người đàn bà xa lạ kia: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình....Mà con mình có được vợ...Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con...May ra mà qua khỏi cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó”. Đó là lòng khoan dung đầy vị tha của người mẹ đầy trải nghiệm, thấu tình đạt lí, vị tha độ lượng, đối ngược hẳn với những quan niệm phong kiến nghiệt ngã, xem nhẹ, đối xử hắt hủi với nàng dâu, nhất là nàng dâu lại theo không con mình về giữa thời buổi đói kém này. Người mẹ già với những lời lẽ đầy cảm thông, thấu hiểu: “Ừ! Thôi thì các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Hai chữ “mừng lòng” nghe thật mộc mạc, thân thương, Tràng thở đánh phào nhẹ nhõm. Kim Lân đã thể hiện thành công thần thái của một tấm lòng vị tha, cao quý mà rất đỗi giản dị của người mẹ. Bà đã đem đến danh phận cho nàng dâu, thừa nhận thị như dâu con trong nhà.

+ Với bổn phận của một người mẹ, bà ao ước có được dăm ba mâm, trước trình tổ tiên, ông bà, sau mời làng xóm. Nhưng ao ước ấy không thể thực hiện được vì bà nghèo quá. Bà rất biết trước biết sau, song cái khó bó cái khôn, bà đành chịu. Và cũng như biết bao bà mẹ nhân từ khác, bà cụ Tứ chỉ mong: Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá... Như vậy nghĩa là “đám cưới” đã xong. Chẳng có lễ nghi, cỗ bàn gì nhưng tấm lòng bao dung, nhân hậu của người mẹ nghèo đã thay thế tất cả. Những giọt nước mắt đã nói lên rất nhiều điều về bà cụ Tứ. Bà cụ để dành lời cho bữa cơm mừng con dâu ngày hôm sau.

  • Khái quát lại:

+ Nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích đã được khắc họa chân thực và sống động, gần gũi như thể một người mẹ mộc mạc đã bước thẳng từ cuộc đời vào trang giấy.

+ Các cung bậc cảm xúc của bà cụ Tứ đã được nhà văn khai thác rất tinh tế, vừa tô đậm thêm nỗi uất nghẹn, cay đắng của phận người trong nạn đói, vừa thể hiện vẻ đẹp của tình người.

Luận điểm 3. Đánh giá chung

Kim Lân đã đưa ra một nghịch lí, đáng lẽ niềm tin, hi vọng phải gắn với tuổi trẻ nhưng ở đây lại gắn với hình ảnh bà cụ đã gần đất xa trời? Phải chăng đó là truyền thống nhân bản của người Việt - cây cao bóng cả: “Có manh áo cộc tre nhường cho con”. Người mẹ không ao ước gì cho mình mà luôn sống vì con, cho con, hi vọng cho lớp con cháu mai sau. Vì thế niềm hi vọng không bị tàn héo theo nghèo đói, theo tuổi tác. Có con dâu về nhà thêm người, thêm của, bà thấy trong lòng đổi thay: “Nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác thường ngày, cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Trong bức tranh xã hội xám ngắt ấy, có thể nói bà cụ Tứ và người vợ nhặt của bà là điểm sáng tươi đẹp nhất của đạo lí làm người.

Nhà văn miêu tả bà cụ Tứ với giọng văn trân trọng yêu thương, niềm trân trọng yêu thương đó dường như giành cho tất cả người phụ nữ Việt Nam. Kim Lân hướng tới vẫn là sự đồng cảm, trân trọng, ngợi ca đức hi sinh và phẩm chất tốt đẹp nơi tâm hồn người phụ nữ Việt Nam. Chúng ta cũng trân trọng biết bao những con người trong hoàn cảnh đói khổ, trong sự tuyệt vọng đối diện với cái chết nhưng vẫn không từ bỏ tình yêu thương, lòng tin và niềm lạc quan về một tương lai tươi sáng hơn

Bài văn mẫu 9 - Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt

Kim Lân là một nhà văn có nhiều trang viết gắn liền với cuộc sống của những người nông dân Bắc bộ Việt Nam. Ông có nhiều tác phẩm viết về con người và mảnh đất này như: “Làng”, “Vợ nhặt”, “Con chó xấu xí”… Tác phẩm “Vợ nhặt” được trích từ tập truyện “Con chó xấu xí” là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân. Tác phẩm vừa là bức tranh chân thực về nạn đói khủng khiếp năm 1945 vừa là bài ca ca ngợi về vẻ đẹp tình người và khát vọng sống, niềm tin vào tương lai của người lao động nghèo. Dường như nạn đói định mệnh ấy đã làm cho con người ta quên đi cả danh dự, họ bất chấp để được sống, thậm chí chuyện hạnh phúc cả đời cũng tặc lưỡi cho qua. Nhân vật Thị là một điển hình trong số những nạn nhân xấu số của nạn đói đó.

Tác phẩm “Vợ nhặt” được viết ngay sau Cách mạng với tên gọi “Xóm ngụ cư”. Nhưng do thất lạc bản thảo nên sau khi hòa bình lập lại, tác giả đã viết lại thành “Vợ nhặt”. Tác phẩm có nhiều nhân vật nhưng nhân vật người “vợ nhặt” là nhân vật mang lại nhiều thương cảm nhất cho người đọc. Nhân vật này được xây dựng dựa trên sự đối lập giữa hình thức bên ngoài và phẩm chất bên trong, giữa trước và sau khi về làm vợ Tràng.

Trước hết, hình ảnh người vợ nhặt hiện lên là một “người phụ nữ nghèo, cùng đường và liều lĩnh”. Vì đói mà sẵn sàng bất chấp cả thể diện để có được miếng ăn để sống được qua ngày. Ẩn sau cái vẻ ngoài bất cần ấy Thị là một người đầy “nữ tính và giàu khát vọng”. Điều này đã góp phần tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ và lòng ham sống, khát vọng sống vươn lên hướng đến ánh sáng ngày mai. Tất cả những điều này đã mang đến cho người đọc cái nhìn đúng đắn về người vợ nhặt – nạn nhân của nạn đói năm 1945. Đi suốt chiều dài của tác phẩm đúng là người vợ nhặt là “người phụ nữ nghèo, cùng đường và liều lĩnh”. Thị là một trong số vô vàn các nạn nhân của nạn đói năm Đinh Dậu. Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt của anh Tràng chẳng biết từ đâu xuất hiện, không có cái tên để gọi, không có nguồn gốc sinh thành, không quê hương bản xứ, mọi thứ về Thị chỉ là một con số không tròn trĩnh. Không phải là nhà văn không thể đặt cho thị một cái tên mà bởi vì thị là cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, là người đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Nhưng chính nhân vật này để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc, đã làm nên tiếng vang cho truyện ngắn Vợ Nhặt. Thị bị cơn bão nạn đói thổi cho phiêu dạt đến miền đất này, cuộc sống lê la tháng ngày không biết đến ngày mai nếu như không có cái lần anh Tràng “hò một câu chơi cho đỡ nhọc” ấy. Thị xuất hiện với ngoại hình không xinh đẹp, hấp dẫn. Chân dung của thị được gợi tả với “những nét không dễ nhìn”. Đó là người phụ nữ gầy vêu vao, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng hoáy”. Phải chăng, sức tàn phá của nạn đói đã khiến thị càng nhếch nhác, tội nghiệp lại càng nhếch nhác, tội nghiệp hơn nữa, nó đã làm cho người phụ nữ ấy chở nên thê thảm hơn bao giờ hết. Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan của thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm. Vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện. Cái đói đã xui khiến thị quên đi ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Được cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Với Thị lúc đó miếng ăn để duy trì cuộc sống còn cao hơn nhân cách, nếu như chết thì nhân cách có cũng chẳng để làm gì .

Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, người “vợ nhặt” lại có một lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo Tràng là vì để được sống chứ không phải là loại đàn bà con gái lẳng lơ. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Đó là ý thức bám lấy sự sống. Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng về”. Thị không trả lời mà lặng lẽ theo Tràng về, Thị đã gián tiếp đồng ý, một sự đồng ý không hề có sự băn khoăn hay phân vân gì cả, dường như chuyện dựng vợ gả chồng trở nên dễ dàng và rẻ rúng hơn bao giờ hết. Cái giá của người phụ nữ ít nhất cũng là “Ba trăm một mụ đàn bà/ Mua về mà trải chiếu hoa cho ngồi”. Ở đây, thị đã “đại hạ giá” xuống còn bốn bát bánh đúc, hai hào dầu, một thúng con… Thị nào có biết Tràng là ai, tốt xấu như thế nào, quê quán, gốc tích ra sao? Chỉ một câu hò bâng quơ và mấy bát bánh đúc là thị đã theo về làm vợ anh Tràng. Phải chăng thị theo Tràng chỉ vì miếng ăn ? Thị dễ dàng, hời hợt thế ư? Thực ra hành động theo Tràng của thị xuất phát từ lòng khao khát được sống. Khi đã cận kề cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Tinh thần lạc quan yêu sự sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý. Nói như Kim Lân: "Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.

Trên đường về nhà chồng, trước cái nhìn “săm soi”, trước những lời bông đùa, chòng ghẹo của người dân ngụ cư. Nếu như anh cu Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì người đàn bà lại cảm thấy xấu hổ. Thị ngượng nghịu, thiếu tự tin “chân nọ bước díu cả vào chân kia… cái nón rách tàng che nửa khuôn mặt”. Đấy là nữ tính cũng là hình ảnh của một người phụ nữ giàu lòng tự trọng. Thực ra, cái đói đã đẩy đưa thị phải theo Tràng. Cơn bão tố cuộc đời đã xô đẩy thân phận cùng cực ấy ngã vào đôi vai người đàn ông thô kệch. Nhưng biết đâu đấy lại là cái may mắn của thị. Bởi cũng biết đâu, nếu không có câu bông đùa ấy của Tràng, ít bữa nữa thôi, thị có khi lại trở thành thây ma giữa nạn đói khủng khiếp này.

Kim Lân rất tinh tế khi miêu tả nét tâm lý, tính cách của thị. Nhà văn như lọt vào trong nỗi thẳm sâu tâm tư tình cảm ấy của người phụ nữ năm đói. Ông như nhìn thấy cả nỗi tủi nhục của kiếp người, thấy cả trong bước chân liêu xiêu, bước díu vào nhau kia là cả tủi hờn, xấu hổ. Cả tiếng thở dài não nuột kia cũng đáng để ông xót xa và mến yêu. Ấy là lúc thị về đến nhà Tràng, nhìn thấy “ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà thị vừa bám vào lại là một chiếc phao rách.

Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh nhà chồng đó phải chăng là thị đã ý thức được phận trách của mình đối với việc cùng chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm lòng của thị thật đáng quý biết bao. Hay chính Kim Lân đã thổi vào tâm hồn thị niềm lạc quan ấy để thị vững lòng cho một cuộc sống ngày mai. Quả thật là thị không tìm thấy ở Tràng một chút gì gọi là nương tựa về vật chất nhưng Tràng chính là chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất cho thị vào lúc này. Cuộc sống này xét về tình nghĩa như thế cũng đáng để sống lắm chứ.

Đến lúc này người đọc chợt nhận ra, bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, thị lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan và cũng giàu lòng tự trọng. Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường. Thị ý tứ, cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Thị thể hiện mình là một nàng dâu hiếu thảo, lễ phép với mẹ chồng..

Sáng hôm sau, thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, sắp xếp lại nhà cửa, ngôi nhà của bà cụ Tứ giờ đây như được hồi sinh.. Đến đây, người đọc dễ nhận thấy: bao nhiêu vẻ “chỏng lỏn”, “sưng sỉa” của thị trước kia không còn nữa. Dường như Thị đã lột xác trở nên nữ tính hơn. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đủ đầy sự thay đổi tuyệt vời ấy “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Lúc này Tràng cảm thấy vợ mình đã thật sự thay đổi. Chính sức mạnh của tình yêu đã cảm hóa và làm thay đổi con người Thị.

Trong bữa cơm đầu đón nàng dâu: Dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng thị vẫn vui vẻ, bằng lòng. Thị đã làm cho không khí gia đình ấm cúng, thân thương hơn bao giờ hết. Thị chính là ngọn gió mát lành thổi vào cuộc sống của gia đình Tràng, thổi vào cả tâm hồn người đàn ông phu xe cục mịch, thổi cả vào khuôn mặt “bủng beo u ám” của bà cụ Tứ để hôm nay trông bà “rạng rỡ hẳn lên”. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng: "Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy". Sự hiểu biết này của thị như đã giúp Tràng giác ngộ về con đường phía trước mà anh sẽ lựa chọn. Qua đó, ta cảm thấy nhân vật vợ Tràng, "nàng dâu mới" cũng là Người truyền tin cách mạng.

Có thể nói, người vợ nhặt được miêu tả ít, song đó lại là nhân vật không thể thiếu trong tác phẩm. Thiếu thị, Tràng vẫn chỉ là Tràng của ngày xưa; bà cụ Tứ vẫn lặng thầm trong đau khổ, cùng cực. Chính thị đã thổi một luồng sinh khí, một luồng gió mới vào cuộc sống tối tăm, nghèo khổ của Tràng, làm ngời sáng lên niềm tin vào cuộc sống. Chính Thị là một hình tượng mà nhà văn Kim Lân đã dựng lên để nói với nhân dân và bè lũ độc ác kia rằng người phụ nữ Việt Nam nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung không bao giờ từ bỏ sự sống ở bất cứ hoàn cảnh nào.