So sánh câu hỏi trong tiếng Anh và tiếng Việt

58 L. T. B. Thủy / Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 [2020] 58-69

PHÂN TÍCH CÂU HỎI CÓ TỪ ĐỂ HỎI VỀ ĐỊA ĐIỂM

TRONG TIẾNG ĐỨC VÀ TIẾNG VIỆT

XÉT TRÊN BÌNH DIỆN CẤU TRÚC

Lê Thị Bích Thủy*

Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Đức, Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN,

Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam

Nhận bài ngày 14 tháng 11 năm 2019

Chỉnh sửa ngày 19 tháng 12 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 30 tháng 03 năm 2020

Tóm tắt: Bài viết này muốn chỉ ra sự giống nhau và khác nhau của các câu hỏi có từ để hỏi về địa điểm

trong tiếng Đức và tiếng Việt xét từ góc độ cấu trúc hình thức. Để làm được điều đó, nghiên cứu khảo sát

các tác phẩm văn học viết bằng tiếng Đức và tiếng Việt cũng như một số dịch phẩm rồi tổng hợp câu hỏi

có từ để hỏi về địa điểm, sau đó phân tích cấu trúc để từ đó đưa ra các khuôn hỏi. Theo kết quả nghiên cứu,

khuôn hỏi trong tiếng Đức chỉ quy về một dạng điển hình với dạng thức đầy đủ là ĐTNV + ĐT + C [+ B]?

và dạng tỉnh lược là ĐTNV? Trong khi đó, các khuôn hỏi trong tiếng Việt phong phú hơn rất nhiều. Điều đó

là do hai ngôn ngữ thuộc hai loại hình ngôn ngữ khác nhau: một bên là ngôn ngữ biến đổi hình thái [tiếng

Đức] và một bên là ngôn ngữ đơn lập mà trật tự từ đóng vai trò rất quan trọng [tiếng Việt].

Từ khóa: câu hỏi, từ để hỏi, khuôn hỏi, tiếng Đức, tiếng Việt

1. Dẫn nhập1

Cho tới nay, đề tài nghiên cứu về câu hỏi

không còn xa lạ với giới nghiên cứu ngôn ngữ.

Trong tình hình nghiên cứu ở Việt Nam, không

chỉ có các tài liệu viết về vấn đề câu hỏi trong

tiếng Việt mà còn có khá nhiều đề tài so sánh-

đối chiếu câu hỏi tiếng Việt với các ngôn ngữ

khác, đặc biệt là tiếng Anh và tiếng Pháp. Tuy

nhiên, trong số đó vẫn chưa có nhiều nghiên

cứu so sánh-đối chiếu câu hỏi tiếng Việt

tiếng Đức. Bài viết này muốn giới thiệu một

khía cạnh rất nhỏ trong so sánh-đối chiếu câu

hỏi trong tiếng Đức và tiếng Việt nhìn từ bình

diện cấu trúc để làm phong phú thêm địa hạt

nghiên cứu này, giúp người Việt học tiếng

Đức dễ dàng hơn cũng như giúp người Đức

học tiếng Việt nhanh chóng hơn. Cụ thể, bài

viết muốn chỉ ra sự giống nhau và khác nhau

* ĐT.: 84-918483878

Email:

của câu hỏi có từ để hỏi về địa điểm trong cặp

ngôn ngữ trên nhìn từ khía cạnh cấu trúc. Phần

đầu của bài viết sẽ trình bày về khái niệm và

các loại câu hỏi theo quan điểm của các nhà

Đức ngữ học Việt ngữ học. Ở phần tiếp

theo, dựa trên dữ liệu là các tác phẩm văn học

[hai bản tiếng Đức, bốn bản tiếng Việt] cũng

như bốn dịch phẩm bằng tiếng Việt, nghiên

cứu khảo sát, phân tích câu hỏi và cuối cùng là

tổng hợp những điểm tương đồng và khác biệt

của câu hỏi loại này hai thứ tiếng. Phương

pháp được sử dụng chủ yếu trong nghiên cứu

này là định tính, dùng thao tác phân tích cấu

trúc của câu để từ đó khái quát thành các

khuôn hỏi trong cả hai ngôn ngữ.

2. Câu hỏi các loại câu hỏi trong tiếng

Đức và tiếng Việt

2.1. Khái niệm câu hỏi

Genzmer [1995: 56] khẳng định một câu

hỏi bao giờ cũng đi liền với câu trả lời. Trong

một tình huống hội thoại, khi thiếu thông tin

59Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 [2020] 58-69

và muốn lấp đầy khoảng trống đó, người nghe

sẽ đặt câu hỏi cho người đối diện. Nếu người

này đưa ra câu trả lời, có nghĩa là anh ta đã lấp

lỗ hổng đó. Cùng có quan điểm trên là Helbig

và Buscha [2001: 615]. Hai ông cho rằng câu

hỏi được người nói diễn đạt khi không có đủ

thông tin về một sự việc và cần người đối

thoại cung cấp cho mình thông tin này. Câu

hỏi cũng chính là lời yêu cầu theo một cách

đặc biệt. Không chỉ đề cập tới việc người nói

thông qua câu hỏi để nêu/miêu tả một “lỗ hổng

thông tin” đặc biệt [câu hỏi xác định/câu hỏi

có từ để hỏi], Hentschel và Weydt [2013: 376]

còn chú ý tới việc người nói nêu/miêu tả điều

không chắc chắn liên quan tới việc xác định

một nội dung [câu hỏi không có từ để hỏi].

Giới Việt ngữ cũng những quan điểm

khá giống với các nhà nghiên cứu trên của

Đức mặc cách diễn đạt có thể hơi khác.

Hoàng Trọng Phiến [2008: 344-360] nói tới

sự mặt của “cái không rõ” ý định của

người hỏi mong muốn người nghe trả lời về

“cái không rõ”. Trong khi đó, Diệp Quang

Ban [2011: 119] cho rằng người nói muốn

thông qua câu hỏi nêu lên thông tin mà mình

chưa biết hoặc còn hoài nghi và mong người

nghe đưa ra câu trả lời hoặc một sự giải thích.

2.2. Cách phân loại câu hỏi theo quan điểm

của các nhà Đức ngữ học

Đa số các tác giả phân biệt câu hỏi dựa

trên góc độ ngữ pháp, cụ thể là hình thái cấu

trúc. Họ chú ý tới vị trí của động từ trong câu,

tới từ để hỏi hay không có từ để hỏi. Theo đó,

hai loại câu hỏi được nhắc tới nhiều nhất

câu hỏi có từ để hỏi câu hỏi không từ

để hỏi [Hentschel và Weydt, 2013; Eisenberg,

2013; Habermann cộng sự, 2009; Boetcher,

2009; Engel, 2009; Kürschner, 2008; Duden,

2006; Weinrich, 2005; Helbig Buscha,

2001; Zifonun cộng sự, 1997; Wöllstein-

Leisten và cộng sự, 1997; Genzmer, 1995;

Conrad, 1978].

Loại câu hỏi đầu tiên, còn được gọi là câu

hỏi xác định/ câu hỏi bộ phận hay câu hỏi

bổ sung thông tin, thường bắt đầu với một từ

để hỏi hoặc một diễn đạt hỏi bao gồm nhiều

thành phần, hỏi về một phần của câu [ví dụ:

Wer hat das Haus gekauft?Ai đã mua ngôi

nhà đó?].

Câu hỏi không có từ để hỏi còn được gọi

câu hỏi CÓ-KHÔNG hay câu hỏi tổng quát,

đánh dấu nội dung câu là không chắc chắn.

Hình thức ngữ pháp điển hình là động từ đứng

ở đầu câu [ví dụ: Kommst du morgen?

Ngày mai anh đến không?], nhưng cũng

có ngoại lệ là câu có cấu trúc của một câu trần

thuật, động từ chia theo ngôi đứng ở vị trí thứ

hai, tính nghi vấn thể hiện qua ngữ điệu, khi

đó ta có câu hỏi ngữ điệu [ví dụ: Anna hat ein

Haus gekauft? - Ja/ Nein Anna đã mua một

ngôi nhà? - Ừ/ Không].

Bên cạnh câu hỏi không từ để hỏi còn

câu hỏi lựa chọn [Hentschel và Weydt, 2013;

Habermann và cộng sự, 2009; Boetcher, 2009;

Engel, 2009; Kürschner, 2008; Weinrich,

2005; Helbig và Buscha 2001; Zifonun và

cộng sự, 1997; Genzmer, 1995; Conrad,

1978], thể hiện sự kết hợp giữa hai câu hỏi

không có từ để hỏi [ví dụ: Willst du Honig

oder Mamelade? → Em muốn dùng mật ong

hay mứt?]. Khi trả lời, người đối thoại sẽ

phải chọn một trong các khả năng được đưa

ra. Một loại đặc biệt của câu hỏi dạng này là

câu hỏi láy lại. Nó gắn cách hỏi: nicht wahr,

nicht, woll, gell, na, wa, v.v. vào phía sau câu

trần thuật và là một câu hỏi ở dạng rút gọn có

chức năng của một câu hỏi lại, câu hỏi xác

tín: Sie ist so schön, [ist es] nicht [so]/ [ist es]

nicht wahr? [Cô ấy thật đẹp, chẳng phải vậy

sao/ chẳng phải thật thế hay sao?].

Ngoài cách phân loại câu hỏi theo cấu

trúc ngữ pháp, các nhà nghiên cứu cũng rất

quan tâm chức năng của câu hỏi, hay xem xét

các hành động ngôn trung khác được tạo ra

60 L. T. B. Thủy / Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 [2020] 58-69

dưới hình thức câu hỏi. Theo đó, câu hỏi

mà người nghe muốn kiểm tra xem mình

đã hiểu thông tin nhận được đúng hay chưa

[Engel, 2009; Zifonun và cộng sự, 1997],

hỏi vặn lại [Engel, 2009], câu hỏi kiểm tra,

câu hỏi ngờ vực/ câu hỏi tự vấn [Zifonun

cộng sự, 1997], câu hỏi xác nhận thông tin

[Zifonun và cộng sự, 1997; Helbig và Buscha,

2001; Weinrich, 2005], câu hỏi lặp1 [Duden,

2006; Wöllstein-Leinstein và cộng sự, 1997;

Meibauer, 1987] câu hỏi tu từ [Hentschel

Weydt, 2013; Zifonun và cộng sự, 1997;

Genzmer, 1995].

Cho rằng câu hỏi thường được định nghĩa

trong sự so sánh đối chiếu với lời khẳng định,

trong đó nó ở dạng trung lập giữa hai cực

“khẳng định” “phủ định”, Confais [1995:

1-5] đã đưa ra một bảng so sánh giữa điều

khẳng định và điều được hỏi. Theo đó, có các

loại câu hỏi sau:

1. Câu hỏi thông báo: Người nói muốn

nhận được từ người nghe một thông báo [ví

dụ: Ist Peter krank? → Peter bị ốm à?]

2. Câu hỏi thể hiện sự ngạc nhiên [ví

dụ: Bist du noch nicht angezogen?/ Du bist

noch nicht angezogen? → Con còn chưa mặc

quần áo hay sao?]

3. Câu hỏi kêu gọi [chủ yếu là câu hỏi

yêu cầu] [ví dụ: Gehst du jetzt ins Bett?

Bây giờ con đi ngủ chứ?]

Thực ra, trong danh sách các câu hỏi trên,

chỉ câu hỏi thông báo thực sự ngôn

trung là hỏi, còn những loại câu hỏi khác đều

liên quan tới một hành động nói gián tiếp,

nghĩa là, thông qua hình thức câu hỏi, người

nói muốn truyền đi một ý định khác.

Bên cạnh các nghiên cứu về loại câu hỏi

tiếng Đức, ta có thể thấy một số nghiên cứu

1 câu hỏi lặp [echo question], các yếu tố xuất hiện

dưới hình thức lặp lại phát ngôn có liên quan [Rost-

Rothe 2003]. dụ: Anna hat ein Haus gekauft. -

Anna hat [was] gekauft? → Anna đã mua một ngôi

nhà. - Anna đã mua [cái gì]?

hẹp hoặc theo hướng khác về câu hỏi. Có thể

kể đến Meibauer, Rost-Rothe, Lötscher, v.v.

Trong khi Meibauer có một nghiên cứu rất

dày dặn về “câu hỏi tu từ” [1986], về hình

thức và chức năng của câu hỏi lặp [1987],

Rost-Rothe [2003] nghiên cứu về câu hỏi hỏi

lại câu hỏi lặp trong tiếng Đức giao tiếp,

Lötscher [1995] tập trung vào câu hỏi trần

thuật, Bresson [1995] tìm hiểu quan hệ giữa

ngữ điệu và hành động hỏi, Hindelang [1995]

tập trung nghiên cứu hành động hỏi trong

quan hệ với câu trả lời gọi đó là cặp Hỏi

- Trả lời, thì Marillier [1995] nghiên cứu câu

hỏi theo tính hàm chân trị.

Giữa cấu trúc hình thức câu thức của

câu có mối quan hệ qua lại chặt chẽ. Boettcher

[2009: 48-51] cho rằng thể thực hiện các loại

hành động hỏi sau đây với dạng thức câu hỏi:

1] Hỏi để biết [thường được gọi là câu hỏi

chính danh];

2] Hỏi để kiểm tra kiến thức;

3] Hỏi mang tính gợi mở;

4] Hỏi tu từ;

5] Hỏi lặp;

6] Trách cứ;

7] Yêu cầu có tính trách cứ;

8] Yêu cầu gián tiếp;

9] Câu hỏi có thể được thực hiện thông

qua một câu trần thuật/ một câu động từ

chia theo ngôi đứng ở cuối hay các diễn đạt

tính hỏi.

2.3. Cách phân loại câu hỏi theo quan điểm

của các nhà Việt ngữ học

Trong ngữ pháp truyền thống, câu thường

được phân loại theo mục đích phát ngôn.

khá nhiều nhà Việt ngữ học đã phân loại câu

hỏi theo hướng này. Cho rằng câu hỏi phân

biệt với câu kể và câu cầu khiến phương

diện biểu hiện các cấu trúc cú pháp, Hoàng

Trọng Phiến [2008: 344-360] xác định “cái

không rõ” chính là yếu tố quyết định tới việc

61Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 [2020] 58-69

tổ chức cú pháp của câu hỏi và việc xuất hiện

nội dung ngữ nghĩa của câu hỏi là nhờ sự có

mặt của “cái không rõ” ý định của người

hỏi mong muốn người nghe trả lời về “cái

không rõ”. Dựa vào tính chất của câu hỏi cũng

như câu trả lời, tác giả phân câu hỏi thành

hai loại lớn là: 1] Hỏi trống [hỏi đơn giản]:

thường dùng các từ chuyên dùng để hỏi như:

cái gì, ai, ...; 2] Hỏi có dự kiến chọn lựa để trả

lời: loại này lại bao gồm hai tiểu loại lựa

chọn xác định mang tính chất khẳng định hay

phủ định [thường các từ: hay, hay ]

lựa chọn không xác định [chỉ chọn một trong

nhiều khả năng để trả lời]. Hoàng Trọng Phiến

cũng nhắc tới “câu hỏi tu từ”, song không đi

sâu vào loại này. Bên cạnh đó, ông còn giới

thiệu câu có cấu trúc câu hỏi phụ thuộc [ví dụ:

Tôi không biết nó muốn gì?].

Cũng phân loại câu theo mục đích giao

tiếp, Nguyễn Thiện Giáp [2004] nêu ba loại

câu hỏi sau đây: 1] Câu hỏi tổng quát: việc

hỏi về sự tồn tại của cả một sự việc, được đặc

trưng hóa bởi các dấu hiệu ngôn hành như

à, ư, hả, v.v. đặt ở cuối câu [ví dụ: Anh chưa

đi à?], hoặc đưa cả câu vào khuôn hỏi: “có

... không” [ví dụ: Có phải cậu làm hỏng xe

không?]; 2] Câu hỏi bộ phận: việc hỏi hướng

vào một bộ phận, một chi tiết trong sự việc.

Câu hỏi loại này có dấu hiệu ngôn hành là:

ai, cái gì, ở đâu, v.v. [ví dụ: Ai làm nó ngã?],

hoặc đặt chi tiết cần hỏi vào khuôn hỏi “có

[phải]... không” [như: Cậu có phải đi làm vào

chủ nhật không?]; 3] Câu hỏi lựa chọn: nêu

ra hai hoặc một số khả năng để lựa chọn, dấu

hiệu ngôn hành “hay” và ngữ điệu [ví dụ:

Em thích hoa hồng hay hoa cúc?].

Dựa vào việc sử dụng các phương tiện hỏi

khác nhau, Diệp Quang Ban [2008: 213-225]

chia câu hỏi thành bốn loại là: 1] Câu hỏi dùng

đại từ nghi vấn [còn gọi câu hỏi trọng

điểm] [đại từ nghi vấn như: ai, thế nào, bao

giờ, v.v. dùng để hỏi vào những điểm xác định

trong câu]; 2] Câu hỏi dùng phó từ [như: có ...

không, xong ... chưa]; 3] Câu hỏi dùng quan

hệ từ lựa chọn “hay” [câu hỏi lựa chọn]; 4]

Câu hỏi dùng tiểu từ chuyên dụng [còn gọi là

câu hỏi không trọng điểm, với các tiểu từ

như: à, ư, hử, hả, v.v.].

Khác với các tác giả trên, Cao Xuân Hạo

[2005: 392] phân loại câu hỏi dựa trên quan

điểm của ngữ pháp chức năng. Ông cho rằng

câu hỏi của tiếng Việt có giá trị hỏi giá trị

ngôn trung trực tiếp hoặc giá trị ngôn trung

phái sinh. Câu hỏi giá trị ngôn trung trực tiếp

câu hỏi chính danh. Loại câu hỏi này được

Cao Xuân Hạo [2007: 497-505] chia thành bốn

tiểu loại câu hỏi có-không [còn gọi là câu hỏi

tổng quát] [ví dụ: Lan có đến không?], câu hỏi

chuyên biệt [dùng đại từ nghi vấn] [ví dụ: Ai sẽ

lái xe?], câu hỏi lựa chọn [câu hỏi song tuyển]

[ví dụ: Anh đi xe đạp hay đi xe máy] câu hỏi

dùng tiểu tố tình thái [như: à, ư, nhỉ, nhé] [ví

dụ: Cậu không tin tớ à?].

Câu hỏi có giá trị ngôn trung phái sinh

[như phủ định, khẳng định, tỏ ý ngờ vực,

thách thức, tranh luận, v.v.] được Quang

Thiêm [2004: 222] gọi là câu hỏi phi chính

danh. Nhiều khi, chính giá trị ngôn trung phái

sinh này mới là mục đích duy nhất của phát

ngôn. Loại câu hỏi này theo Cao Xuân Hạo

[2005] bao gồm:

1. Câu hỏi có giá trị cầu khiến: hình thức

câu hỏi nhưng đích ngôn trung lại

một lời yêu cầu [ví dụ: Anh chờ tôi một

lát được không? hàm ý là: Tôi đề nghị anh

chờ tôi một lát];

2. Câu hỏi có giá trị khẳng định: hình thức

là câu hỏi nhưng đích ngôn trung lại là lời

khẳng định [ví dụ: Chính cậu làm hỏng xe

chứ ai? hàm ý: Cậu làm hỏng xe];

3. Câu hỏi có giá trị phủ định: hình thức là

câu hỏi, nhưng đích ngôn trung là lời phủ

định [ví dụ: Thế này thì ai ăn được?

hàm ý là: Thế này thì không ai ăn được];

4. Câu hỏi giá trị phỏng đoán, ngờ vực

[ví dụ: Phải chăng nó không tới? hàm ý:

Tôi đoán là nó không tới];

62 L. T. B. Thủy / Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 [2020] 58-69

5. Câu hỏi có giá trị cảm thán: có hình

thức hỏi, có các từ để hỏi như “làm sao”,

“chưa”, v.v. để biểu thị sắc thái cảm xúc

[ví dụ: Nó hát mới hay làm sao?].

Như vậy, khi nghiên cứu về câu hỏi, các

nhà nghiên cứu người Đức và người Việt

thường phân loại câu hỏi theo phương diện

biểu hiện của hình thức cấu trúc. Theo hướng

này, câu hỏi được chia thành ba loại bản

là: câu hỏi có từ để hỏi, câu hỏi không có từ

để hỏi câu hỏi lựa chọn. Các nhà nghiên

cứu của cả hai ngôn ngữ đều chú ý tới yếu tố

đại từ nghi vấn khi phân loại câu hỏi vì yếu tố

này đều tồn tại ở tiếng Đức và tiếng Việt. Tuy

nhiên, các nhà Đức ngữ học rất quan tâm tới

vị trí của động từ chia theo ngôi trong câu hỏi,

còn các nhà Việt ngữ học thì không. Trong

tiếng Việt, cái được quan tâm nhiều là các tiểu

từ, các phó từ dùng để hỏi. do là câu hỏi

tiếng Việt không làm xáo trộn trật tự từ, kể cả

câu hỏi có từ để hỏi, tức là không có sự dịch

chuyển, còn tiếng Đức lại có dịch chuyển, đảo

vị, thay đổi trật tự từ. Ngoài cách phân loại

trên, một số tác giả ở cả hai ngôn ngữ đi theo

hướng chức năng và nghiên cứu câu hỏi theo

cách nhìn nhận giá trị ngôn trung trực tiếp

hoặc phái sinh của phát ngôn, theo đó có câu

hỏi chính danh câu hỏi phi chính danh.

3. Câu hỏi từ để hỏi về địa điểm trong

tiếng Đức và tiếng Việt

Trong tiếng Đức, khi muốn biết thông tin

về vị trí, địa điểm và về hướng, người nói đặt

câu hỏi bổ sung thông tin bằng cách dùng đại

từ nghi vấn [Fragewort, viết tắt là FW] wo [ở

đâu], wohin [tới đâu] woher [từ đâu], còn

tiếng Việt dùng các đại từ nghi vấn như đâu,

ở đâu, chỗ nào, v.v.

3.1. Hỏi về địa điểm

Trong tiếng Đức, khi đặt câu hỏi với từ để

hỏi wo, người nói muốn biết vị trí của người,

sự vật, hiện tượng nào đó. Từ để hỏi [FW]

luôn đứng ở đầu câu hỏi, liền sau đó là động

từ [V] chia theo ngôi của chủ ngữ, và ở vị trí

thứ ba là chủ ngữ [S]. Nếu V là nội động từ thì

khuôn hỏi thường FW + V + S? [tương ứng

trong tiếng Việt ĐTNV + ĐT + C?], còn

nếu V là ngoại động từ thì khuôn hỏi là FW +

V + S + O? [ĐTNV + ĐT + C + B?].

Ví dụ:

[1] Wo wohnen Sie? [Remarque, 1989:

83] [Anh [sống] ở đâu?] [Lê Phát, 2001: 120]

[2] Wo waren die Engel? [Remarque,

1989: 95] [Các thiên thần đâu rồi?] [Lê Phát,

2001: 137]

[3] Wo kann ich das erfahren?

[Remarque, 1989: 92] [Có thể hỏi thăm tin

tức ở đâu nhỉ?] [Lê Phát, 2001: 133]

Ở ví dụ [1], wo là từ để hỏi [ĐTNV],

wohnt là nội động từ [ĐT], còn Sie là chủ ngữ

[C], còn ở ví dụ [3], erfahren là ngoại động từ

[ĐT]1, ich là chủ ngữ [C], das là bổ ngữ [B].

Tuy nhiên, cũng có khi khuôn hỏi chỉ bao

gồm từ để hỏi wo? [ĐTNV?] các yếu tố

khác đã bị tỉnh lược.

Ví dụ:

[4] Dies ist nicht achtzehn. Meine Eltern

sind drüben. - Wo? [Remarque, 1989:

94] [Nhà số 18 ở đằng kia, bố mẹ tôi bị

chôn dưới đó, mau lên. - Đâu?] [Lê Phát

2001: 135]

Khi muốn hỏi về địa điểm, người Việt

dùng đại từ nghi vấn như [ở] đâu và cấu trúc

thường là chủ ngữ [C] đứng đầu, sau đó là nội

động từ [ĐT] rồi đến đại từ nghi vấn [ĐTNV]:

C + ĐT + ĐTNV?

Ví dụ:

[5] Đêm nay cháu định ngủ ở đâu? [Lê

Lựu, 2001: 164]

[6] Nhà em ở đâu? [Lê Lựu, 2001: 48]

Nhưng cũng có khi động từ trong câu bị

lược bớt nếu như động từ đó “thì, là, ở”.

Theo đó, khuôn hỏi chỉ còn lại chủ ngữ và từ

1. kann là động từ tình thái.

63Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 [2020] 58-69

để hỏi như đâu: C + ĐTNV?

Ví dụ:

[7] Con đâu? [Lê Lựu, 2001: 156]

[8] Thế giờ bác ta đâu? [Thạch Lam,

2004: 57]

[9] Hùng ơi, Hương ơi, các con đâu cả

rồi? [Hồ Anh Thái, 2015: 67]

Nếu chủ ngữ cũng đã rõ ràng, thì khuôn

hỏi chỉ còn lại từ để hỏi: ĐTNV?

Ví dụ:

[10] Gia đình mình ở xa lắm. - đâu hả

Tân? [Hồ Anh Thái. 2015: 70]

Nhưng nếu câu hỏi có một ngoại động từ

[ĐT], câu sẽ thêm bổ ngữ [B] và vì vậy khuôn

hỏi sẽ là: C + ĐT + B + ĐTNV?

Ví dụ:

[11] Mày tìm ra ngựa ở đâu vậy? [Ngọc

Anh & Phạm Bích Liễu, 2006: 373]

Cũng có khi bổ ngữ được đặt ở đầu câu để

nhấn mạnh. Khi đó khuôn hỏi sẽ là: B + C +

ĐT + ĐTNV?

Trong dụ [12], chủ ngữ đã ràng

nên người nói có thể lược bớt thành phần này,

còn ở ví dụ [13], cả yếu tố chủ ngữ và bổ ngữ

đều bị tỉnh lược. Khi đó, khuôn hỏi lần lượt là:

B + ĐT + ĐTNV?ĐT + ĐTNV?

[12] Anh công an tuy không phải là người

quen cũ nhưng nói năng với hắn như

hai người đã hiểu rất tường tận công

việc của nhau.

- Tiền để ở đâu rồi?

- Vẫn ở trong người này. Sao anh biết

em lấy.

[Lê Lựu 2001: 218]

[13] - Hôm qua mày lấy tiền của bà bán

khô phải không?

- Vâng.

- Bao nhiêu?

- Bẩy trăm năm mươi đồng.

- Để đâu rồi?

[Lê Lựu, 2001: 211]

Trong trường hợp hỏi về một hiện tượng,

sự việc, tiếng Đức phải dùng đến chủ ngữ hình

thức es”, thì khuôn hỏi FW + V + S +

A/O?[ĐTNV + ĐT + C + TT/B?]. Đi sau

chủ ngữ “es” có thể là một tính từ [TT] hoặc

một bổ ngữ [B]. Tuy nhiên, trong khối liệu

khảo sát chỉ xuất hiện trường hợp ĐTNV +

ĐT + C + TT?

Ví dụ:

[14] Wo war es kühler und trockener?

[Hagena, 2010: 250]

Đối với trường hợp tương tự ở tiếng Việt,

khuôn hỏi sẽ là: ĐTNV + ĐT + TT/B? Trong

ví dụ [15], động từ đã đã được tỉnh lược nên

khuôn hỏi chỉ còn lại là ĐTNV + TT?

[15] đâu mát và khô hơn? [Lê Quang,

2016: 241]

3.2. Hỏi về hướng chuyển động

Để hỏi về hướng chuyển động, tiếng Đức

dùng đại từ nghi vấn wohin woher. Khi

muốn hỏi về hướng xuất phát từ người nói

hoặc người được hỏi tới chỗ khác, tiếng Đức

sử dụng wohin, còn khi muốn hỏi về hướng

xuất phát từ nơi khác tới chỗ người nói, tiếng

Đức dùng woher.

Cũng giống như câu hỏi với wo, khuôn hỏi

với wohinwoher là: FW + V + S? [ĐTNV

+ ĐT + C?] và FW + V + S + O? [ĐTNV +

ĐT + C + B?]

[16] Wohin stellen wir die Vase? [Fandrych

& Tallowitz, 2000: 60] [Chúng ta nên

đặt lọ hoa vào chỗ nào đây?]

Trong ví dụ trên, wohin là từ để hỏi,

stellen là động từ chia theo chủ ngữ wirdie

Vase là bổ ngữ.

Cũng có khi từ để hỏi đứng một mình

[ĐTNV?] các thành phần khác đã bị tỉnh lược.

Ví dụ:

[17] Raus aus dieser Rattenfalle! - Idiot!

Wohin denn? Ruhe! [...] [Remarque,

1989: 52] [Chuồn ngay khỏi cái bẫy

64 L. T. B. Thủy / Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 [2020] 58-69

chuột này thôi. - Đồ ngốc! Mày còn

muốn đi đâu nữa. Câm đi. [...] [Lê

Phát, 2001: 75]

Một đặc điểm của các câu hỏi từ để

hỏi woherwohin là: Động từ trong câu

các nội động từ chỉ sự thay đổi vị trí từ

chỗ này đến chỗ khác, ví dụ như: gehen [đi],

kommen [đến], iegen [bay], v.v., hoặc các

ngoại động từ chỉ sự tác động lên một đối

tượng nào đó [người hoặc vật] làm thay

đổi vị trí của đối tượng đó, ví dụ: legen [đặt

nằm], stellen [đặt đứng], hängen [treo lên],

v.v. [dẫn theo Fandrych & Tallowitz, 2000:

60-62]

Ví dụ:

[18] Woher kommt es? [Remarque, 1989:

161] [Tiếng đàn đâu ra thế?] [Lê Phát, 2001: 234]

[19] Wohin fährst du jetzt? [Remarque,

1989: 76] [Thế cậu định đi đâu?] [Lê Phát,

2001: 110]

[20] Wohin wollen Sie statt dessen?

[Remarque, 1989: 76] [Anh muốn đi đâu?]

[Lê Phát, 2001: 109]

Tuy nhiên, nếu động từ trong câu có tiền

tố là hin [chỉ hướng xuất phát từ phía người

nói hoặc người được hỏi tới nơi khác] hoặc

her [chỉ hướng từ nơi khác tới phía người

nói] [ví dụ: herkommen, hingehen, v.v.] thì

woherwohin được thay bằng wo. Tuy

nhiên, nội dung các câu đó vẫn hỏi về hướng

di chuyển.

Ví dụ:

[21] Wo mag der herkommen?

[Remarque, 1989: 46] [Chó đâu đến thế?]

[Lê Phát, 2001: 67]

[22] Er stand auf. Wo willst du hin?“

fragte Böttcher. Ich weiß nicht. -

Irgendwohin.“ [Remarque, 1989:

121] [Anh đứng dậy. - Cậu đi đâu?

Bốtsê hỏi. - Tôi không biết nữa. Đi

đâu cũng được.] [Lê Phát, 2001: 175]

Tương ứng với cấu trúc của câu hỏi woher

trong tiếng Đức, tiếng Việt có các khuôn hỏi

sau đây:

Nếu câu hỏi có động từ chỉ sự chuyển

động như đến, “tới”, v.v. thì khuôn hỏi sẽ là

C + ĐTNV + ĐT?

Ví dụ:

[23] đâu đến đấy? [Lê Lựu, 2001: 157]

[24] Người làng này hay từ đâu đến?

[Lê Lựu, 2001: 59-60]

[25] Cháu tên là gì, cháu từ đâu tới đây?

[Hồ Anh Thái, 2015: 26]

Tuy nhiên khuôn hỏi trên thể biến

thể khác: C + ĐT + ĐTNV?

[26] Tôi vừa chợt nhớ ra một chuyện: trò

hẹn hò và nhận dạng của chúng ra đi

đến đâu rồi nhỉ? [Lê Quang, 2010: 49]

[27] Chuyện sẽ dẫn đến đâu? [Lê Quang,

2010: 83]

Khi câu có ngoại động từ và người nói

muốn nhấn mạnh thông tin mới [đề] có chức

năng là bổ ngữ, khuôn hỏi sẽ có sự thay đổi

như sau: B + C + ĐT + ĐTNV? Bổ ngữ

yếu tố đứng đầu câu, sau đó là chủ ngữ, tiếp

theo là động từ, rồi tới từ để hỏi như [ở] đâu”.

Trong nhiều trường hợp, chủ ngữ hoặc vị ngữ

có thể được lược bớt vì nhờ ngữ cảnh, người

nghe có thể hiểu được câu tỉnh lược đó. Các

tiểu từ như vậy, thế, hả, v.v. là yếu tố không

bắt buộc trong câu. Ta có thể thêm chúng vào

để tạo nghĩa tình thái cho câu.

Ví dụ:

[28] Tiền lấy ở đâu ra? [Lê Lựu, 2001: 208]

[29] Táo đâu ra thế? [Lê Quang, 2016: 241]

[30] Tiền đâu thế? [Thạch Lam, 2004: 154]

Khi muốn nhấn mạnh yếu tố cần hỏi, đại

từ nghi vấn sẽ được đặt ở đầu câu, khi đó

khuôn hỏi: ĐTNV + ĐT + C?

Ví dụ:

[31] Nhưng từ đâu sinh ra sự tự mãn hãnh

65Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 [2020] 58-69

tiến mà tôi hay chứng kiến ở họ? [Lê Quang,

2016: 143]

Cũng tương tự như tiếng Đức, trong các

câu hỏi về hướng xuất phát từ người nói hoặc

người đối thoại đến một nơi khác, người Việt

cũng thường dùng các từ chỉ sự chuyển động

như đi”, v.v. Khuôn hỏi đối với trường hợp

này là: C + ĐT + ĐTNV? [Ví dụ [32] - [33]]

hay C + ĐT + B + ĐTNV? [Ví dụ [34]].

[32] Bây giờ em định đi đâu? [Lê Lựu,

2001: 162]

[33] Từ đêm hôm ấy đến giờ, bạn biến đi

đâu vậy? [Hồ Anh Thái, 2015: 70]

[34] Chúng bắt đưa em đi đâu rồi?

[Bảo Ninh, 2011: 44]

Cũng có khi khuôn hỏi được rút gọn

thành: ĐT + ĐTNV? nếu như chủ ngữ đã

ràng nhờ ngữ cảnh.

Ví dụ:

[35] Mặt mũi tái nhợt, Tân lao vào chộp

lấy tay bà, hối hả kéo bà chạy ra hành

lang. - kìa, đi đâu thế này? Để

xem nồi chè ra sao [Hồ Anh Thái,

2015: 7]

[36] Trong cảnh thiếu nhà ở, người ta

thường hóa liều, kêu ca thì vẫn kêu

ca, nhưng chẳng gia đình nào chuyển

đi, mà biết chuyển đi đâu? [Hồ Anh

Thái, 2015: 16]

[37] - Nếu mọi người không đồng ý, em có

dám bỏ đi với anh không?

- Đi đâu hả anh?

- Đi bất kể đâu. Em dám không?

[Lê Lựu, 2001: 64]

3.3. Hỏi về nguồn gốc, xuất xứ

Trong tiếng Đức cũng có trường hợp trong

câu không xuất hiện các động từ chuyển động

[như fahren, gehen] hay các ngoại động từ

[như legen, stellen] như đã nêu ở trên, nhưng

woher vẫn được dùng vì người nói muốn hỏi

về nguồn gốc, xuất xứ. Khi đó, khuôn hỏi vẫn

là: FW + V + S + O? [ĐTNV + ĐT + C + B?]

hoặc dạng rút gọn FW + V + S? [ĐTNV + ĐT

+ C?]FW? [ĐTNV?].

Ví dụ:

[38] Woher hast du das? - Aus dem

Weinkeller. [Remarque, 1989: 203] [Anh lấy

của này ở đâu vậy? - Trong hầm rượu. [Lê Phát,

2001: 294]]

[39] Woher wissen Sie, dass sie tot sind?

[Remarque, 1989: 107] [Sao bác biết bố

mẹ cháu đã chết? [Lê Phát, 2001: 155]]

[40] Panzer haben sie auch genug. Woher

bloß?- Von Amerika. Oder aus Sibirien. Da

sollen sie ja einen Haufen Fabriken haben.

[Remarque, 1989: 61]

[Lại xe tăng nữa. Không biết cơ man nào

kể. - Từ bên Mỹ hay ở Xiberi. Hình như

chúng có nhiều xí nghiệp ở đấy lắm.] [Lê

Phát, 2001: 88]

Tương tự như tiếng Đức, tiếng Việt cũng

dùng đại từ để hỏi như đâu để hỏi về nguồn

gốc, xuất xứ. Khi đó có khuôn hỏi là: ĐTNV

+ ĐT + C? C + ĐT + ĐTNV + B?

Ví dụ:

[41] anh có ác cảm nặng với thư tập thể

chúc Giáng Sinh! đâu ra cái ác

cảm đó vậy? [Lê Quang, 2010: 19]

[42] Chị lấy đâu ra thời gian rảnh rỗi để

bận bịu với loài gấu Bắc Cực xa lạ?

[Lê, Quang 2010 : 41-42]

[43] Anh đọc ở đâu ra ý đấy? [Lê Quang,

2010 : 85]

4. Sự tương đồng và khác biệt của câu hỏi

có từ hỏi về địa điểm Đức-Việt

Sau đây là bảng tổng hợp các khuôn hỏi

trong tiếng Đức và tiếng Việt:

66 L. T. B. Thủy / Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 [2020] 58-69

Bảng 1. Các khuôn hỏi trong tiếng Đức và tiếng Việt

Tiếng Đức Tiếng Việt

Hỏi về địa điểm ĐTNV?

ĐTNV + ĐT + C + TT/B?

ĐTNV + ĐT + C?

ĐTNV + ĐT + C + B?

ĐTNV + ĐT + TT/B?

ĐTNV + TT?

C + ĐT + ĐTNV?

C + ĐTNV?

C + ĐT + B + ĐTNV?

B + C + ĐT + ĐTNV?

B + ĐT + ĐTNV?

Hỏi về hướng

chuyển động

ĐTNV + ĐT + C?

ĐTNV + ĐT + C + B?

ĐTNV?

ĐT + ĐTNV?

C + ĐTNV + ĐT?

C + ĐT + ĐTNV?

C + ĐT + B + ĐTNV?

B + C + ĐT + ĐTNV?

B + ĐT + ĐTNV?

B + ĐTNV?

Hỏi về nguồn gốc,

xuất xứ

ĐTNV + ĐT + C?

ĐTNV + ĐT + C + B?

ĐTNV?

C + ĐT + ĐTNV + B?

Để cấu tạo câu hỏi về địa điểm, nơi chốn,

tiếng Đức dùng ba đại từ nghi vấn là wo,

wohin woher, trong đó wo dùng để hỏi về

một địa điểm người hoặc vật đang hiện

hữu, tồn tại, còn wohinwoher dùng để hỏi

về hướng chuyển động, hướng đó có thể xuất

phát từ phía người nói hoặc người đối thoại

để đi tới chỗ khác [wohin] hoặc xuất phát từ

địa điểm nào đó tới chỗ người nói [woher].

Đối với trường hợp wohin woher, người

hỏi có thể tách chúng ra và đặt wo ở đầu câu

her hoặc hin để ở cuối câu. Tiếng Việt

không có hiện tượng tách đại từ nghi vấn như

vậy. Trong tiếng Việt, từ để hỏi phong phú

hơn. thể kể đến: đâu, nơi nào, chỗ nào,

nơi đâu, v.v. Việc dùng từ hỏi nào trong số

các từ trên tùy thuộc vào hoàn cảnh giao tiếp.

Khi hỏi về địa điểm, hướng chuyển động

hay về nguồn gốc xuất xứ, cả hai ngôn ngữ

đều có những khuôn hỏi giống nhau. Theo

ngữ liệu khảo sát, trường hợp hỏi về địa

điểm, cả tiếng Đức tiếng Việt đều chung

khuôn hỏi ở dạng tỉnh lược là ĐTNV?; ở hai

trường hợp còn lại đều có khuôn hỏi chung là

ĐTNV + ĐT + C?.

Ở cả ba trường hợp, trong tiếng Đức luôn

luôn có sự xuất hiện của khuôn hỏi ĐTNV +

ĐT + C? [xem ví dụ [1] ở trên], ĐTNV + ĐT

+ C + B? [xem ví dụ [3] ở trên] và dạng tỉnh

lược ĐTNV? [xem dụ [4] ở trên]. Chỉ

khi hỏi về địa điểm và hỏi về hướng chuyển

động, ngôn ngữ này chung khuôn hỏi

C + ĐT + B + ĐTNV? [xem dụ [11]

[34] ở trên]; trường hợp hỏi về hướng chuyển

động nguồn gốc xuất xứ có chung một

khuôn hỏi ĐTNV + ĐT + C? [xem dụ

[31] và [41] ở trên].

Cả hai ngôn ngữ đều có khuôn hỏi ở

dạng tỉnh lược, song tiếng Đức chỉ duy

nhất một dạng tỉnh lược là ĐTNV?, trong khi

dạng tỉnh lược của khuôn hỏi trong tiếng Việt

phong phú hơn. Có thể thấy điều đó trong kết

quả được liệt kê dưới đây.

67Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 [2020] 58-69

Bên cạnh ba khuôn hỏi chung đã nêu

trên, tiếng Đức chỉ thêm một khuôn hỏi

nữa vốn được sử dụng khi hỏi về địa điểm

ĐTNV + ĐT + C + TT? Ngược lại, trong

tiếng Việt, số các khuôn hỏi khác được sử

dụng nhiều hơn và đa dạng hơn rất nhiều.

Khi hỏi về địa điểm: Trong khi tiếng Đức

bốn khuôn hỏi thì tiếng Việt tới tám.

Ngoài các khuôn hỏi chung đã được liệt

trên, có thể kể tới các khuôn hỏi chủ

ngữ đứng đầu như C + ĐTNV? [xem dụ

[7]], C + ĐT + ĐTNV? [xem ví dụ [5]], bổ

ngữ đứng đầu như B + C + ĐT + ĐTNV?

dạng rút gọn B + ĐT + ĐTNV? [xem dụ

[12]] hay các dạng tỉnh lược khác như ĐT +

ĐTNV? [xem ví dụ [13]] ĐTNV + TT?

[xem ví dụ [15]].

Đối với trường hợp hỏi về hướng chuyển

động, số lượng khuôn hỏi trong tiếng Việt gấp

ba lần số lượng khuôn hỏi trong tiếng Đức.

Khuôn hỏi trong tiếng Việt không chỉ bắt đầu

bằng ĐTNV như trong tiếng Đức mà còn bắt

đầu bằng chủ ngữ như C + ĐTNV + ĐT?

[xem ví dụ [23]], C + ĐT + ĐTNV? [xem ví

dụ [26]], dạng tỉnh lược ĐT + ĐTNV? [xem

ví dụ [35]]; bắt đầu bằng bổ ngữ như B + C

+ ĐT + ĐTNV? với dạng tỉnh lược B + ĐT

+ ĐTNV? [xem ví dụ [28]] và B + ĐTNV?

[xem ví dụ [29]].

Chỉ khi hỏi về nguồn gốc xuất xứ, kết quả

khảo sát cho thấy số khuôn hỏi trong tiếng

Việt [2] ít hơn trong tiếng Đức [3]. Bên cạnh

ĐTNV + ĐT + C? là khuôn hỏi chung trong

hai ngôn ngữ thì tiếng Việt còn có C + ĐT +

ĐTNV + B? [xem ví dụ [42]]; tiếng Đức

ĐTNV + ĐT + C + B? [xem ví dụ [38]] và

dạng tỉnh lược ĐTNV? [xem ví dụ [46]].

5. Kết luận

Bài viết này chỉ ra rằng câu hỏi có từ để

hỏi về địa điểm trong tiếng Đức và tiếng Việt

khá nhiều điểm tương đồng nhưng cũng

không ít sự khác biệt. cả hai ngôn ngữ,

câu hỏi chứa từ hỏi về địa điểm ở dạng đầy

đủ đều các thành phần bản là đại từ

nghi vấn, động từ, chủ ngữ. Trong tiếng Đức,

khuôn hỏi cố định của câu hỏi loại này luôn

ĐTNV + ĐT + C?. Tùy theo động từ hay

ngữ cảnh mà khuôn hỏi trên có thể mở rộng

thành phần thành ĐTNV + ĐT + C + B/TT

hay được rút gọn thành ĐTNV?. Tiếng Việt

cũng có khuôn hỏi tương tự, tuy nhiên, bên

cạnh đó còn có rất nhiều khuôn hỏi khác, kể

cả ở dạng hoàn chỉnh cũng như dạng tỉnh

lược. Trong khi khuôn hỏi ở tiếng Đức luôn

bắt đầu bằng từ để hỏi động từ chia theo

ngôi đứng vị trí thứ hai, thì tiếng Việt,

đứng đầu có thể đại từ nghi vấn, nhưng

cũng có thể là chủ ngữ, bổ ngữ hoặc động từ

và theo đó các thành phần câu đứng sau cũng

rất linh động.

Bài viết này chỉ là một nghiên cứu rất

nhỏ trong so sánh - đối chiếu câu nói chung

và câu hỏi nói riêng khi nghiên cứu cặp ngôn

ngữ tiếng Đức và tiếng Việt. Chúng tôi mong

muốn sẽ một nghiên cứu so sánh - đối

chiếu dày dặn hơn về các loại câu hỏi khác

trong hai thứ tiếng nói trên.

Tài liệu tham khảo

Tiếng Việt

Diệp Quang Ban [2008]. Ngữ pháp Tiếng Việt. Hà Nội:

Nxb Giáo dục.

Diệp Quang Ban [2011]. Ngữ pháp Tiếng Việt, tập 2. Hà

Nội: Nxb Giáo dục Việt Nam.

Nguyễn Thiện Giáp [2004]. Dụng học Việt ngữ. Hà Nội:

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

Cao Xuân Hạo [2005]. Tiếng Việt. thảo ngữ pháp

chức năng. Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội.

Cao Xuân Hạo [2006]. Tiếng Việt. Mấy vấn đề ngữ âm,

ngữ pháp, ngữ nghĩa. Hà Nội: Nxb Giáo dục.

Hoàng Trọng Phiến [2008]. Ngữ pháp tiếng Việt. Câu.

Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

Lê Quang Thiêm [2004]. Nghiên cứu đối chiếu các ngôn

ngữ. Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

68 L. T. B. Thủy / Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 [2020] 58-69

Tiếng nước ngoài

Boettcher, W. [2004]. Grammatik verstehen. II

Einfache Satz. Tübingen: Niemeyer.

Conrad, R. [1978]. Studien zur Syntax und Semantik von

Frage und Antwort. Berlin: Akademie.

Duden [2006]. Die Grammatik, Band 4.

Eisenberg, P. [2013]. Der Satz. Grundriss der deutschen

Grammatik. Band 2. 3. Auage. Stuttgart/ Weimar:

J. B. Metzler.

Engel, U. [2009]. Deutsche Grammatik

Neubearbeitung. München: Iudicium.

Fandrych, C., & Tallowitz, U. [2000]. Klipp und Klar.

Stuttgart: Ernst Klett International.

Genzmer, H. [1995]. Deutsche Grammatik. Frankfurt

am Main und Leipzig: , Insel.

Habermann, M., Diewald, G., & Thurmair, M. [2009].

Duden, Fit für das Bachelorstudium. Grundwissen

Grammatik. Mannheim & Zürich: Dudenverlag.

Helbig, G., & Buscha, J. [2001]. Deutsche Grammatik.

Ein Handbuch für den Ausländerunterricht. Berlin

u.a.: Langenscheidt.

Hentschel, E., & Weydt, H. [2013]. Handbuch der

deutschen Grammatik, 4. Auage. Berlin u.a.:

Walter de Gruyter.

Hindelang, G. [1995]. Frageklassikation und

Dialoganalyse. In Hindelang, G./Rolf, E./ Zillig,

W. [Hrsg.] [1995]: Der Gebrauch der Sprache.

Festschrift für Franz Hundsnurscher zum 60.

Geburtstag. Lit., Münster, pp. 176-196.

Lötscher, A. [1995]. Aussagesätze, die Fragen [mit]

meinen. In Schecker, M. [Hrsg.]: Fragen und

Fragesätze im Deutschen, Stauffenburg, Tübingen,

pp. 221-236.

Marillier, J.-F. [1995]. Zum Wahrheitswert der

Fragesätze am Beispiel der Koordination von/

mit Fragesätzen. In Schecker, Michael [Hrsg.]:

Fragen und Fragesätze im Deutschen. Tübingen:

Stauffenburg, 52-61.

Meibauer, J. [1987]. Zur Form und Funktion von

Echofragen. In Rosengren, I. [Hrsg.]: Sprache und

Pragmatik. Lunder Symposium 1986, Almqvist &

Wiksell International, Stockholm, pp. 335-355.

Meibauer, J. [1986]. Rhetorische Fragen, Max

Niemeyer, Tübingen.

Rost-Rothe, M. [2003]. Fragen - Nachfragen

- Echofragen Formen und Funktionen von

Interrogationen im gesprochenen Deutsch. In

Linguistik online 13, pp. 325-378.

Weinrich, H. [2005]. Textgrammatik der deutschen

Sprache. Hildesheim u.a.: Olms.

Wöllstein-Leisten, A./ Heilmann, A./ Stephan, P./

Vikner, S. [1997]. Deutsche Satzstruktur.

Grundlagen der syntaktischen Analyse. Tübingen:

Stauffenburg.

Zifonun, G./ Hoffmann, L./ Strecker, B. et al. [1997].

Grammatik der deutschen Sprache. Berlin/ New

York: de Gruyter.

Tư liệu khảo sát

Ngọc Anh & Phạm Bích Liễu [dịch giả] [2006]. Truyện

cổ Grimm. Hải Phòng: Nxb Hải Phòng.

Hagena, K. [2010]. Der Geschmack von Apfelkernen.

Köln: Kiepenheuer & Witsch.

Thạch Lam [2004]. Tuyển tập truyện ngắn. Hà Nội: Nxb

Văn học.

Lê Lựu [2001]. Sóng ở đáy sông. Hải Phòng: Nxb Hải

Phòng.

Bảo Ninh [2011]. Nỗi buồn chiến tranh. Nội: Nxb

Trẻ.

Phát [dịch giả] [2001]. Thời gian để sống và thời

gian để chết. TP. Hồ Chí Minh: Nxb Văn Nghệ TP.

Hồ Chí Minh.

Quang [dịch giả] [2016]. Vị hạt táo. Nội: Nxb

Phụ nữ.

Lê Quang [dịch giả] [2010]. Cưỡng cơn gió bấc.

Nội: Nxb Phụ nữ.

Remarque, E. M. [1989]. Zeit zum Leben, Zeit zum

Sterben. Köln: Kiepenheuer und Witsch.

Hồ Anh Thái [2015]. Trong sương hồng hiện ra. Hà Nội:

Nxb Trẻ.

69Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 [2020] 58-69

QUESTIONS WITH QUESTION WORDS ABOUT PLACES

IN GERMAN AND VIETNAMESE FROM

SYNTACTIC PERSPECTIVE

Le Thi Bich Thuy

Faculty of German Language and Culture,

VNU University of Languages and International Studies

Pham Van Dong, Cau Giay, Hanoi, Vietnam

Abstract: This paper points out the similarities and differences of questions with question words about

places in German and Vietnamese seen from syntactical perspective. For this purpose, those questions

in literary works written in German and Vietnamese and their translations are analysed to identify their

syntactic patterns. The results show there is only one question structure in German: QW + V + S [+ O]?

[elliptical construction: QW?] whereas question structures in Vietname are far more varied. This is because

the two languages belong to two different types of languages: German is an inectional language while

Vietnamese is an isolating one whose word order plays a very important role.

Keywords: question, question word, question structure, German, Vietnamese

Video liên quan

Chủ Đề