So sánh sự giống và khác nhau của kinh tế Việt Nam trước và sau đổi mới

2021: Kinh tế VN từ 1975 đến Đổi mới và nhu cầu cải cách sắp tới

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Một khách hàng thử áo tại một tiệm bán đồ may mặc ở Hội An

Nhân đầu năm mới 2021, bài này thử tổng kết kinh tế Việt Nam từ ngày thống nhất tháng 4/1975 đến cuối năm 2020, nhìn lại những bài học quá khứ qua các giai đoạn chính của Đổi Mới, sự chững lại và các mục tiêu phát triển dài hạn mới công bố cho đến năm 2045.

Phân biệt kinh tế Việt Nam, trước đổi mới ,và trong thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [276.55 KB, 17 trang ]

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: Phân biệt kinh tế Việt Nam trước đổi mới và
trong thời kỳ đổi mới
Giảng viên hướng dẫn : Phan Nguyễn Khánh Long
Nhóm sinh viên thực hiện : Nhóm 6
Lớp : N14
Huế, 4/2012
MỤC LỤC
Nhóm sinh viên thực hiện : Nhóm 6 3
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1.Tính cấp thiết của đề tài 1
2.Mục tiêu nghiên cứu 2
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
4.Phương pháp nghiên cứu 2
PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 15
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cách đây hơn hai mươi năm, nước ta tiến hành đường lối đổi mới dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, bằng sự nỗ lực sáng tạo của toàn đảng toàn dân,
chúng ta đã vượt qua khủng hoảng và đạt được rất nhiều thành tựu to lớn , thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và cải thiện được đời sống của đại bộ
phận quần chúng nhân dân. Có được những điều này chính là nhờ Đảng và Nhà nước
ta đã nhận ra được những sai lầm trong cơ chế quản lý, sự tụt hậu của kinh tế Việt
Nam so với thế giới để từ đó chủ trương chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự
quản lý của Nhà nước. Do đó, nhận thức được sự quan trọng của kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và việc vận dụng nó trong giai đoạn hiện nay là một vấn


đề hết sức quan trọng của mỗi người dân Việt Nam và đặc biệt là những sinh viên kinh
tế như chúng tôi.
Sau một thời gian học tập và tìm hiểu về Đường lối xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, cùng với sự chỉ dẫn nhiệt tình của Thầy
giáo Phan Nguyễn Khánh Long, nhóm chúng tôi đã tìm hiểu về tư tưởng chỉ đạo của
Đảng về kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay và hoàn thành bài nghiên cứu của mình
với đề tài: “Phân biệt kinh tế Việt Nam trước đổi mới và trong thời kỳ đổi mới”.
Trong đó, chúng tôi đã tập trung phân tích và làm rõ sự khác biệt của nền kinh tế Việt
Nam trước và trong thời kì đổi mới, để từ đó rút ra được tác động, kết quả cũng như
hạn chế mà thể chế kinh tế thị trường này đem lại. Đây là một khía cạnh không mới,
nhưng chúng tôi tin rằng, với bài nghiên cứu của mình sẽ giúp mọi người có cái nhìn
tổng quát và khách quan hơn về những thay đổi mà nền kinh tế thị trường đem lại cho
đất nước và xã hội. Bài nghiên cứu của chúng tôi chắc chắn sẽ không tránh khỏi những
sai sót, rất mong nhận được sự góp ý từ phía Thầy giáo và các bạn. Xin chân thành
cảm ơn.
1
2. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ sự phân biệt kinh tế trước thời kỳ đổi mới và trong thời kỳ đổi mới. Từ
đó đưa ra những tác động và kết quả, ý nghĩa cũng như những hạn chế mà nền kinh tế
thị trường đưa lại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nền kinh tế Việt Nam trước và trong thời kỳ đổi mới [nền kinh tế bao cấp và nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa].
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong bài tiểu luận này, nhóm chúng tôi sử dụng phương pháp chính là phương
pháp so sánh, bên cạnh đó chúng tôi sử dụng các phương pháp khác, như: giải thích,
liệt kê, tổng hợp.
2
PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
2.1 Tổng quan về đề tài nghiên cứu

Trong quá trình phát triển của mình xã hội loài người xuất phát từ một nền kinh
tế tự cung tự cấp. Khi sản xuất phát triển nhất định, đã có sản phẩm dư thừa để trao
đổi, mua bán, phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu
sản xuất ra đời thì loài người đã bước vào nền kinh tế hàng hóa. Tuy nhiên, chỉ khi đến
thời kỳ của chủ nghĩa tư bản, chế độ phong kiến bị xóa bỏ, sản xuất phát triển cung
cấp một khối lượng hàng hóa ngày càng lớn thì nền kinh tế thị trường mới thực sự
hình thành và phát triển. Như vậy có thể thấy rằng kinh tế thị trường đã có mầm mống
từ trong xã hội nô lệ, hình thành trong xã hội phong kiến và phát triển cao trong xã hội
tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa tư bản không sản sinh ra kinh tế hàng hóa và do đó kinh tế
thị trường với tư cách là kinh tế hàng hóa ở trình độ cao không phải là sản phẩm riêng
có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu chung của nhân loại. Đồng thời, kinh tế thị
trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bởi xét dưới
góc độ “một kiểu tổ chức kinh tế”, kinh tế thị trường là phương thức tổ chức vận hành,
là phương tiện điều tiết kinh tế lấy kinh tế thị trường làm cơ sở để phân bổ các nguồn
lực kinh tế và điều tiết mối quan hệ giữa người với người, kinh tế thị trường chỉ đối lập
với kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc chứ không đối lập với các chế độ xã hội. Nhận thức
được những vấn đề cơ bản trên đây, Đảng ta đã đề ra đường lối xây dựng một nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hoạt động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước thay cho cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp – một cơ chế được xây dựng trong điều kiện cơ sở vật chất và trình độ phát triển
còn lạc hậu đã làm triệt tiêu những động lực của nền kinh tế, gây ra tình trạng lạc hậu
trì trệ ở nước ta trước đổi mới. Bởi vậy, đường lối đó của Đảng ta trong thời kì đổi mới
đã tạo ra một bước chuyển mình quan trọng đối với kinh tế - xã hội của đất nước. Việc
tiến hành xây dựng cơ chế thị trường với nhiều điểm khác biệt so với cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp là một sự lựa chọn đúng đắn, không phải do ý muốn chủ quan của ai
đó, càng không phải là một sự chuyển hướng theo chủ nghĩa tư bản – xuất phát từ
quan niệm cho rằng kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường chỉ là của chủ nghĩa tư bản,
mà nó phù hợp với quy luật khách quan, phù hợp tất yếu với lịch sử,tạo ra cho đất
3
nước ta cơ hội phát triển, hội nhập với quốc tế dù rằng vẫn còn nhiều khó khăn thách

thức.
2.2 Nội dung nghiên cứu
2.2.1 Chủ trương của Đảng
Để thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, chúng ta đã có những bước cải tiến
nền kinh tế theo hướng thị trường, mặc dù còn chưa toàn diện triệt để nhưng đã mang
lại những tác động tích cực. Có được những điều này là nhờ sự hình thành và hoàn
thiện tư duy của Đảng ta về kinh tế thị trường trong thời kỳ đổi mới, bao gồm những
chủ trương cơ bản sau:
Thứ nhất, Đảng ta đã thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa:
Theo đó, kinh tế thị trường có lịch sử phát triển lâu dài, nó không phải là cái
riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại. Kinh tế
thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, có thể
và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đại hội IX đã xác định:
“kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân
theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi
các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa”.Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của “thị
trường” được sử dụng để “phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng
cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”, còn tính
định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất: sở
hữu, tổ chức quản lý và phân phối.
Thứ hai, hoàn thiện thể chế về sở hữu:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên sự tồn tại khách quan
nhiều hình thức sở hữu. Do vậy, cần có những quy định của pháp luật, bảo đảm các
quyền và lợi ích của các chủ thể sở hữu.
Để hoàn thiện thể chế sở hữu, Đảng ta đã đề ra những phương hướng cơ bản sau:
Khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà đại diện là nhà nước, đồng thời đảm bảo
4
và tôn trọng các quyền của người sử dụng đất; tách biệt vai trò quản lý với vai trò chủ

sở hữu vốn của nhà nước, tách chức năng chủ sở hữu vốn của nhà nước với chức năng
quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
Quy định rõ, cụ thể về quyền của chủ sở hữu và những người liên quan đối với
các loại tài sản, đồng thời quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của họ đối với xã hội, bổ
sung luật pháp, cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển sở hữu tập thể. Tạo
cơ chế khuyến khích phát triển chế độ sở hữu cổ phần, sở hữu hỗn hợp trở thành hình
thức sở hữu chủ yếu trong nền kinh tế. Ban hành các quy định pháp lý về quyền sở
hữu của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam.
Thứ ba, hoàn thiện thể chế về các loại hình doanh nghiệp và các tổ chức sản
xuất kinh doanh thông qua:
Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, tạo môi
trường cạnh tranh bình đẳng, không phân biệt hình thức sở hữu nhằm giải phóng mọi
tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế, trong mỗi cá nhân và mọi vùng miền… phát
huy tối đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế. Tiến hành đổi mới, phát triển hoạt
động của các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, tổ hợp tác theo cơ chế thị trường
theo nguyên tắc: tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, cùng có lợi và phát triển cộng đồng;
phát huy vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời thu hẹp các lĩnh vực độc quyền nhà nước. Đổi
mới cơ chế quản lý nhà nước để các đơn vị sự nghiệp công lập phát triển mạnh mẽ, có
hiệu quả.
Thứ tư, hoàn thiện thể chế phân phối:
Đầu tiên là hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về phân bổ nguồn lực, phân
phối và phân phối lại theo hướng đảm bảo tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Bên cạnh đó, thực hiện phân
bổ các nguồn lực xã hội theo cơ chế thị trường và chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế của Nhà nước, đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội; thực hiện chính
sách phân phối và phân phối lại phải đảm bảo hài hòa lợi ích của nhà nước, của người
lao động và của doanh nghiệp, tạo động lực cho người lao động.
Thứ năm, hoàn thiện thể chế đảm bảo đồng bộ các yếu tố thị trường:
5

Hoàn thiện thể chế về giá, cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh;
khung pháp lý cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng; cơ chế giám sát, điều tiết thị
trường và xúc tiến thương mại, đầu tư và giải quyết tranh chấp phù hợp với kinh tế thị
trường và cam kết quốc tế.
Thứ sáu, phát triển các loại thị trường:
Phát triển các loại thị trường là việc đa dạng hóa các loại thị trường hàng hóa và
dịch vụ theo hướng hiện đại; tự do hóa thương mại và đầu tư phù hợp cam kết quốc tế.
Đồng thời phải phát huy tốt vai trò điều hành thị trường tiền tệ, vừa thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế vừa kiểm soát lạm phát. Bên cạnh đó, còn cần phải từng bước mở rộng
thị trường tín dụng, các dịch vụ ngân hàng phù hợp với cam kết quốc tế.
Hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách cho hoạt động và phát triển
lành mạnh thị trường chứng khoán, tăng tính minh bạch, chống các giao dịch phi pháp
gây nhiễu loạn thị trường. Hoàn thiện luật pháp, cơ chế chính sách để các quyền về đất
đai và bất động sản vận động theo cơ chế thị trường. Hoàn thiện luật pháp chính sách
về tiền lương, tiền công, trong đó tiền lương phải được coi là giá cả của sức lao động
hình thành theo quy luật thị trường, dựa trên cung cầu về sức lao động. Đổi mới cơ chế
quản lý khoa học và công nghệ phù hợp với cơ chế thị trường.
Thứ bảy, hoàn thiện thể chế gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng
xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường:
Một số biện pháp mà Đảng đã đề ra: Thực hiện chính sách khuyến khích làm
giàu đi đôi với tích cực thực hiện giảm nghèo; xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa
dạng và linh hoạt phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; Phát triển đa dạng các hình thức tổ chức tự nguyện, nhân đạo, hoạt động không
vì mục tiêu lợi nhuận, chăm sóc các đối tượng bảo trợ xã hội; hoàn thiện luật pháp,
chính sách về bảo vệ môi trường, có chế tài đủ mạnh đối với các trường hợp vi phạm.
Thứ tám, hoàn thiện thể chế về vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước:
6
Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện rõ ở chỗ chỉ đạo nghiên cứu lý luận và tổng
kết thực tiễn để xác định rõ, cụ thể và đầy đủ hơn mô hình kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa tạo ra sự đồng thuận trong xã hội.
Vai trò kinh tế của nhà nước thể hiện rõ ở chỗ phát huy mặt tích cực và hạn chế,
ngăn ngừa mặt trái của cơ chế thị trường, tạo điều kiện thuận lợi để nền kinh tế thị
trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế hiệu
quả.
2.2.2 Phân biệt kinh tế Việt Nam trước đổi mới và trong thời kì đổi mới
Tiêu thức Kinh tế Việt Nam trước đổi mới Kinh tế Việt Nam trong thời kì
đổi mới
1. Cơ chế
quản lí
kinh tế
Nhà nước quản lí nền kinh tế
chủ yếu bằng mệnh lệnh hành
chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu
pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên
xuống dưới. Các doanh nghiệp
hoạt động trên cơ sở các quyết
định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp
lệnh được giao. Tất cả phương
hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền
vốn, định giá sản phẩm, tổ chức
bộ máy, nhân sự, tiền lương…đều
do các cấp có thẩm quyền quyết
định.
Thị trường giữ vai trò là
công cụ phân bổ các nguồn lực
kinh tế. Trong quá trình sản xuất
và trao đổi, các yếu tố thị trường
như cung cầu, giá cả có tác động

điều tiết quá trình sản xuất hàng
hóa, phân bổ các nguồn lực kinh
tế và tài nguyên thiên nhiên như
vốn, tư liệu sản xuất, sức lao
động,…
Các cơ quan hành chính can
thiệp quá sâu vào hoạt động sản
xuất, kinh doanh của các doanh
nghiệp nhưng lại không chịu trách
nhiệm gì về vật chất và pháp lý
đối với các quyết định của mình.
Những thiệt hại vật chất do các
Các doanh nghiệp làm chủ
hoạt động kinh doanh, nền kinh tế
xuất hiện dựa trên cơ sở phân
công lao động xã hội và các hình
thức sở hữu về tư liệu sản xuất.
Thị trường có vai trò trực tiếp
hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa
7
quyết định không đúng gây ra thì
ngân sách nhà nước phải gánh
chịu. Các doanh nghiệp không có
quyền tự chủ sản xuất, kinh
doanh, cũng không bị ràng buộc
trách nhiệm đối với kết quả sản
xuất, kinh doanh. Lỗ thì Nhà
nước bù, lãi thì Nhà nước thu.
chọn lĩnh vực hoạt động và
phương án tổ chức sản xuất, kinh

doanh hiệu quả. Doanh nghiệp tự
chịu trách nhiệm về hoạt động
kinh doanh của mình.
2. Mô hình
nền kinh
tế
Nền kinh tế khép kín, chủ
yếu dựa vào nguồn lực của đất
nước, tự cung, tự cấp, tự lực cánh
sinh; chưa chú trọng đến sự hợp
tác, giao lưu; chưa quan tâm đến
việc áp dụng khoa học công nghệ
vào sản xuất.
Nền kinh tế phát triển mạnh,
mở rộng sự liên thông với các thị
trường trong khu vực và trên toàn
thế giới. Ra sức tiếp thu những
thành tựu khoa hoc kĩ thuật. Sản
xuất hiệu quả và có năng suất cao
hơn, quy mô rộng rãi hơn.
3. Hình thức
sở hữu
Nền kinh tế chỉ có hai thành
phần sở hữu về tư liệu sản xuất là:
Sở hữu Nhà nước và sở hữu tập
thể, được thể hiện dưới dạng
Quốc doanh và Hợp tác xã.
Nền kinh tế có 3 chế độ sở
hữu: toàn dân, tập thể, tư nhân.Từ
các hình thức sở hữu cơ bản hình

thành nhiều thành phần kinh tế
với các hình thức tổ chức sản
xuất, kinh doanh đa dạng, đan
xen, hỗn hợp.
4. Thành
phần kinh
tế
Nền kinh tế chỉ có 2 thành
phần trung tâm và giữ vai trò chủ
đạo đó là kinh tế nhà nước và
kinh tế tập thể [hợp tác xã]. Nhà
nước quản lí, làm chủ và chịu
trách nhiệm về mọi mặt.
Phát huy vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước đi đôi với phát
triển mạnh mẽ các thành phần
kinh tế và các loại hình doanh
nghiệp khác. Hình thành một số
tập đoàn kinh tế, các công ty đa
sở hữu, các công ty có vốn đầu tư
từ nước ngoài,…thu hẹp các lĩnh
8
vực độc quyền Nhà nước.
5. Quan hệ
trao đổi
Quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị
coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ
hiện vật là chủ yếu. Nhà nước
quản lí kinh tế thông qua chế độ
“cấp phát - giao nộp”. Được thực

hiện chủ yếu dưới 3 hình thức
sau: bao cấp qua giá, bao cấp qua
chế độ tem phiếu, bao cấp theo
chế độ cấp phát vốn.
Nền kinh tế được thực hiện
thông qua mối quan hệ hàng hóa -
tiền tệ, quy luật cung cầu trên thị
trường. Đây là thời kỳ mà những
phát minh sáng chế, sức lao động
cũng được xem như là một hàng
hóa có giá trị và được trao đổi
trên thị trường.
6. Hình thức
phân phối
Nhà nước quy định chế độ
phân phối vật phẩm tiêu dùng cho
cán bộ, công nhân viên theo định
mức qua hình thức tem phiếu.
Chế độ tem phiếu với mức giá
khác xa so với giá thị trường đã
biến chế độ tiền lương thành hiện
vật, thủ tiêu động lực kích thích
người lao động và phá vỡ nguyên
tắc phân phối theo lao động.
Kết hợp chặt chẽ những
nguyên tắc phân phối của chủ
nghĩa xã hội và nguyên tắc của
kinh tế thị trường, được thể hiện
qua chế độ phân phối chủ yếu
theo kết quả lao động, hiệu quả

kinh tế, phúc lợi xã hội. Đồng
thời để huy động mọi nguồn lực
kinh tế cho sự phát triển chúng ta
còn thực hiện phân phối theo mức
đóng góp vốn và các nguồn lực
khác.
7. Cơ cấu
nền kinh
tế
Chú trọng chủ yếu là vào
nông nghiệp, công nghiệp và dịch
vụ đã xuất hiện nhưng chưa phát
triển.
Phát triển theo hướng công
nghiệp hóa - hiện đại hóa. Giảm tỉ
trọng nông nghiệp, tăng tỉ trọng
công nghiệp - dịch vụ.
8. Tác động Nền kinh tế trì trệ, khủng
hoảng, không có cạnh tranh, kìm
hãm tiến bộ của khoa học kĩ
thuật, triệt tiêu động lực kinh tế
của người lao động, không kích
Nền kinh tế trở nên năng
động và phát triển hơn, cạnh tranh
mạnh mẽ và gay gắt tuân theo quy
luật vốn có của thị trườngnhư quy
luật giá trị, quy luật cung cầu, quy
9
thích được tính năng động, sáng
tạo của đơn vị sản xuất kinh

doanh. Trong thời kỳ này, phân
bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch
là chủ yếu, coi thị trường chỉ là
công cụ thứ yếu bổ sung cho kế
hoạch.
luật cạnh tranh; doanh nghiệp
cũng như người lao động có cơ
hội thể hiện khả năng, năng lực,
cũng như sự sáng tạo của bản
thân.
2.2.3 Tác động đến xã hội
Việc cải tiến nền kinh tế theo hướng thị trường đã có những tác động tới xã hội
về nhiều mặt như sau:
Đầu tiên, vấn đề công bằng trong phân phối các yếu tố sản xuất được đảm bảo.
Theo đó, mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình doanh nghiệp, mọi người lao động đều
có quyền bình đẳng trước pháp luật trong việc sử dụng đất đai, tài nguyên, vốn và các
tài sản công. Quyền đó đã được thể chế hóa và được bảo đảm bằng pháp luật. Về vấn
đề này, Đại hội XI nhấn mạnh: “Đổi mới, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về
sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện đối với đất đai, tài nguyên, vốn và các loại
tài sản công khác Đất đai, tài nguyên, vốn, tài sản do Nhà nước đại diện chủ sở hữu
được giao cho các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế sử dụng theo nguyên tắc hiệu
quả. Các chủ thể có quyền và nghĩa vụ như nhau trong sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực của Nhà nước”.
Tiếp đến, đời sống nhân dân được cải thiện hơn, xã hội phát triển hơn.Việc gắn
phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, xóa đói giảm nghèo đạt được nhiều
kết quả tích cực, con người có cơ hội tìm kiếm việc làm phù hợp với khả năng của bản
thân. Ngoài ra, trong nền kinh tế thị trường thì tư liệu sinh hoạt phong phú và đa dạng
hơn rất nhiều so với trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp.
Cùng với đó, y tế và giáo dục phát triển với cở sở hạ tầng cũng như trang thiết bị
hiện đại và tối tân hơn thời bao cấp. Mục tiêu của giáo dục đào tạo là đào tạo nhân lực,

bồi dưỡng nhân tài cho đất nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo
đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong đó có chú trọng đến việc đào tạo và huấn
luyện lực lượng lao động cho các ngành, các lĩnh vực sản xuất vật chất và phi vật chất.
Với lĩnh vực giáo dục phổ thông, do chức năng và nhiệm vụ giáo dục là hết sức đặc
10
trưng, nên thành quả của giáo dục là đa phương diện; trong đó, thành quả của giáo dục
đáp ứng nhiệm vụ chính trị là quan trọng nhất và mang tính chất quyết định.
2.2.4 Kết quả, ý nghĩa, hạn chế
2.2.4.1 Kết quả, ý nghĩa
Đảng ta thực hiện kinh tế theo hướng thị trường, đã đem lại nhiều kết quả quan
trọng với nhiều ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của đất nước, cụ thể là:
Chúng ta chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu,
bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đường lối của
Đảng thể chế hóa thành pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển.
Chế độ sở hữu với nhiều hình thức và cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được hình
thành. Điều đó đã tạo ra động lực và điều kiện thuận lợi cho giải phóng sức sản xuất,
khai thác tiềm năng trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế xã hội.
Các thị trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển thống nhất trong cả nước,
gắn với thị trường khu vực và thế giới. Cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
đã và đang đi vào cuộc sống thay thế cho cơ chế kế hoạch hóa tập trung.
Bên cạnh đó việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, xóa đói,
giảm nghèo đạt được một số kết quả tích cực.
Như vậy, sau đổi mới, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã
hình thành và từng bước hoàn thiện phù hợp với nhu cầu phát triển bền vững của đất
nước. Thể chế kinh tế mới đã đi vào cuộc sống và phát huy tính tích cực, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững, khắc phục được khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo
ra những tiền đề cần thiết đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.
2.2.4.2 Hạn chế và nguyên nhân

Tuy nhiên, bất kỳ vấn đề gì cũng tồn tại hai mặt, mặt tích cực và hạn chế. Và việc
xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta vẫn còn vấp phải những hạn chế sau:
Trước tiên, quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập
kinh tế quốc tế. Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, đồng bộ và thống
nhất. Ngoài ra, vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối trong doanh nghiệp nhà nước chưa
11
giải quyết tốt, gây khó khăn cho sự phát triển và làm thất thoát tài sản nhà nước, nhất
là khi cổ phần hóa. Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác còn bị phân biệt
đối xử. Việc xử lý các vấn đề liên quan đến đất đai còn nhiều vướng mắc. Các yếu tố
thị trường và các loại thị trường hình thành, phát triển còn chậm, thiếu đồng bộ, vận
hành chưa thông suốt. Thị trường tài chính, bất động sản, khoa học và công nghệ phát
triển chậm; quản lý nhà nước đối với các loại thị trường còn nhiều bất cập, phân bổ
nguồn lực quốc gia chưa hợp lý, cơ chế “xin - cho” chưa được xóa bỏ triệt để, chính
sách tiền lương còn mang tính bình quân. Bên cạnh đó, cơ cấu tổ chức, cơ chế vận
hành của bộ máy nhà nước còn nhiều bất cập và hiệu quả, hiệu lực quản lý còn thấp.
Không những thế, cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội đổi mới
còn chậm, chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục và đào tạo còn thấp.
Những hạn chế đó do nhiều nguyên nhân khác nhau, đó là:
Việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề
hoàn toàn mới chưa có tiền lệ trong lịch sử. Nhận thức về kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều hạn chế do công tác lý luận chưa theo kịp đòi hỏi
của thực tiễn. Năng lực thể chế hóa và quản lý, tổ chức thực hiện của nhà nước còn
yếu, nhất là trong việc giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc. Vai trò tham gia hoạch
định chính sách, thực hiện và giám sát của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn
thể chính trị - xã hội, nghề nghiệp còn yếu.
2.3 Tổng kết đề tài
Tóm lại, với các sự khác biệt vừa nêu trên thì ta có thể thấy được mục tiêu hàng
đầu phát triển kinh tế thị trường ở nước ta được xác định là giải phóng và phát triển
lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế, động viên mọi nguồn lực trong nước và

ngoài nước để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội tạo ra sự phát
triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế, trên cơ sở đó, cải thiện từng bước đời
sống của nhân dân, từng bước thực hiện sự công bằng, bình đẳng và lành mạnh các
quan hệ xã hội. Từ đó sẽ khắc phục được tình trạng tự túc tự cấp của nền kinh tế, thúc
đẩy phân công lao động xã hội phát triển, mở rộng ngành nghề, tạo việc làm cho người
lao động. Áp dụng khoa học, công nghệ, kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm tăng năng
suất lao động xã hội, tăng số lượng, chủng loại và chất lượng hàng hóa, dịch vụ, thúc
đẩy tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng
lãnh thổ, với các nước trên thế giới, động viên mọi nguồn lực trong nước và tranh thủ
12
các nguồn lực bên ngoài, phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của mỗi người lao
động, mỗi đơn vị kinh tế, tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế,
tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng
một nước nghèo và kém phát triển, thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, có thể nói, phát triển kinh tế thị trường ở
nước ta là "đòn bẩy" để phát triển kinh tế nhanh và bền vững, là phương tiện để thực
hiện xã hội hóa xã hội chủ nghĩa nền sản xuất, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nền kinh tế quốc dân, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
13
PHẦN III: KẾT LUẬN
Qua bài nghiên cứu này, nhóm chúng tôi hy vọng các bạn sẽ có cái nhìn đầy đủ
hơn về sự thay đổi của nền kinh tế Việt Nam trước và sau thời kì đổi mới. Vấn đề đặt
ra trước mắt chúng ta bây giờ là: Làm thế nào để xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa thành công và bền vững? Đó là một câu hỏi mang tầm cỡ vĩ
mô rất cần sự can thiệp của Đảng và Nhà nước, và cũng khó để có câu trả lời trong nay
mai. Trong bài nghiên cứu của mình, nhóm chúng tôi đã không đề cập đến vấn đề này.
Một mặt vì những hạn chế chủ mặt và khách quan trong quá trình nghiên cứu. Mặt
khác, chúng tôi cũng muốn tạo cho bài nghiên cứu của mình một kết thúc mở. Hy
vọng rằng từ những gì mà chúng tôi đã nhìn nhận, các bạn sẽ có những biện pháp và
cách thức cho riêng mình để góp phần xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhưng với những gì mà Đảng và Nhà nước ta đã làm được
từ trước cho đến nay, thì chúng ta hoàn toàn có quyền mơ ước về một tương lai “ Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.
14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Đinh Xuân Lý – CN. Nguyễn Đăng Quang, Giáo trình đường lối cách
mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, 2010.
2. Bài giảng tóm tắt môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Phan
Nguyễn Khánh Long.
3. Các thông tin trên các trang web:
//www.thongtinphapluatdansu.wordpress.com
//www.laodong.com.vn
//www.fpe.hnue.edu.vn
15

Kinh tế nhiều thành phần trong nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta

[ĐCSVN] – Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế quá độ, luôn vận động, phát triển theo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.
Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của DNNN trên nền tảng công nghệ hiện đại nhằm huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, bảo toàn, phát triển vốn nhà nước tại doanh nghiệp...

Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay do trình độ phát triển chưa cao, chưa đồng đều của lực lượng sản xuất mà còn tồn tại khách quan cả chế độ sở hữu tư nhân [chế độ tư hữu] với nhiều hình thức sở hữu như: hình thức sở hữu tư nhân của cá thể, của hộ gia đình, của tiểu chủ, của nhà tư bản [sở hữu tư nhân tư bản], của tập đoàn tư bản… và cả chế độ sở hữu xã hội [chế độ công hữu] với các hình thức sở hữu như: sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể…, đồng thời còn có hình thức sở hữu hỗn hợp là hình thức sở hữu đan xen các hình thức sở hữu trong cùng một đơn vị kinh tế. Đó là cơ sở tồn tại của nhiều thành phần kinh tế.

Nền kinh tế quá độ trong thời kỳ quá độ ở nước ta được phân thành ba thành phần: kinh tế công, kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp:

Thành phần kinh tế công bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, giữ vị trí, vai trò then chốt trong nền kinh tế. Chủ thể của thành phần kinh tế này là Nhà nước [được Nhân dân ủy quyền]. Nhà nước thông qua Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đầu tư vốn [cả vốn bằng hiện vật và vốn bằng tiền] cho các doanh nghiệp nhà nước [DNNN] thông qua hợp đồng tín dụng. Ban Lãnh đạo DNNN được giao quyền quản lý, sử dụng vốn một cách hiệu quả theo cơ chế thị trường. Các DNNN tập trung phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Các DNNN hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của DNNN. Nhà nước không can thiệp vào hoạt động của DNNN, mà Nhà nước thông qua những hợp đồng kinh tế để đặt hàng cho DNNN sản xuất những hàng hóa có vai trò quan trọng đến quốc kế dân sinh, kể cả những hàng quân sự, quốc phòng. Nhà nước chỉ đóng vai trò là "nhạc trưởng", "bà đỡ", quản lý vĩ mô nền kinh tế, chứ không can thiệp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, kể cả DNNN. DNNN phải tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất - kinh doanh của mình... Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của DNNN trên nền tảng công nghệ hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, quản trị doanh nghiệp theo chuẩn mực tiên tiến của quốc tế, thực sự hoạt động theo cơ chế thị trường, nhằm huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, bảo toàn, phát triển vốn nhà nước tại doanh nghiệp...

Thành phần kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Chủ thể của thành phần kinh tế này là các chủ sở hữu tư nhân như: các hộ kinh doanh cá thể, các hộ tiểu chủ, các chủ tư nhân, các nhà tư bản, các tập đoàn tư bản... với các loại hình kinh doanh tương ứng như hộ sản xuất, kinh doanh cá thể [hộ nông dân, hộ tiểu - thủ công nghiệp, hộ kinh doanh dịch vụ...], chủ trang trại, hộ tiểu chủ, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân tư bản [tư bản trong nước và tư bản ngoài nước], tập đoàn tư bản. "Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế..."[1]. Hoàn thiện thể chế, tạo thuận lợi phát triển kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Thúc đẩy hình thành, phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có công nghệ hiện đại, năng lực quản trị tiên tiến của thế giới. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa[2]. Ngày nay, phân công lao động đã phát triển theo chi tiết sản phẩm, do đó doanh nghiệp không cần quy mô lớn vẫn có thể áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại. Đồng thời, với công nghệ kỹ thuật số, mạng Internet, máy tính điện tử, robot, trí tuệ nhân tạo... có thể kết nối để tạo thành sự hợp tác ở quy mô lớn trong việc sản xuất sản phẩm, mà không cần tập trung đông lao động vào một địa điểm.

Thành phần kinh tế hỗn hợp [một phần trong đó là chủ nghĩa tư bản nhà nước theo cách gọi của V.I.Lênin] bao gồm các công ty, các doanh nghiệp, các hợp tác xã, các tổ chức kinh tế được hình thành trên cơ sở liên kết các chủ sở hữu khác nhau với nhau: giữa chủ thể kinh tế công và chủ thể kinh tế tư nhân trong nước; giữa chủ thể kinh tế công và chủ thể kinh tế tư nhân nước ngoài; giữa các chủ thể kinh tế tư nhân trong nước với nhau; giữa chủ thể kinh tế tư nhân trong nước và chủ thể kinh tế tư nhân nước ngoài... để thúc đẩy phát triển mọi hình thức liên kết sản xuất kinh doanh, cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo mạng sản xuất và chuỗi giá trị thị trường nhằm tiếp nhận, chuyển giao, tạo sự lan tỏa về công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng và mở rộng thị trường tiêu thụ. Loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh thường là công ty liên doanh, công ty hợp doanh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai chủ sở hữu trở lên, các loại hình hợp tác xã... Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế đa sở hữu có đủ khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu. Điểm chung của các loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh này là đối tượng sở hữu gồm tài sản hữu hình và vô hình của các tổ chức sản xuất - kinh doanh được hình thành từ sự đóng góp của các chủ sở hữu riêng theo nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi. Mỗi chủ sở hữu được hưởng lợi ích khi công ty, doanh nghiệp hỗn hợp này hoạt động có hiệu quả hoặc chịu trách nhiệm khi bị thua lỗ tương ứng với tỷ lệ tài sản đóng góp. Ngoài tài sản đóng góp từ các chủ sở hữu, còn có các tài sản từ các nguồn khác [được hỗ trợ, tài trợ, được cho, tặng, hoặc từ kết quả sản xuất - kinh doanh tích lũy lại...] thuộc sở hữu chung của các thành viên trong tổ chức kinh tế này. Các tổ chức sản xuất - kinh doanh hỗn hợp thuộc loại này có điều lệ hoạt động và bầu ra Ban Lãnh đạo theo nguyên tắc nhất định do Điều lệ công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã quy định, để thay mặt các chủ sở hữu quản lý, điều hành, sử dụng có hiệu quả tài sản chung của tổ chức sản xuất - kinh doanh, mang lại lợi ích cho các chủ thể và đóng góp vào lợi ích chung. Có quy chế chặt chẽ ràng buộc trách nhiệm của những người trong Ban Lãnh đạo được ủy quyền quản lý sản xuất - kinh doanh với kết quả, hiệu quả hoạt động của tổ chức sản xuất - kinh doanh. Loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh hỗn hợp rất đa dạng, từ các tập đoàn đa quốc gia, xuyên quốc gia đến các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, có quy mô nhỏ. Xếp các loại hình hợp tác xã cũng thuộc thành phần kinh tế hỗn hợp vì các hợp tác xã cũng dựa trên sự đóng góp tài sản, vốn của các chủ sở hữu tư nhân, của những người sản xuất hàng hóa nhỏ và hoạt động như các tổ chức sản xuất - kinh doanh hỗn hợp. V.I.Lênin coi hợp tác xã của những công nhân văn minh là hợp tác xã XHCN [ở nước ta chưa có loại hình hợp tác xã này], còn hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ vẫn tôn trọng sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là một loại hình kinh tế hỗn hợp...

Đối tượng sở hữu của các thành phần kinh tế chỉ bao hàm các tài sản hữu hình và vô hình đang được sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các loại hình tổ chức kinh doanh khác nhau và mang lại lợi ích kinh tế cho các chủ sở hữu, đồng thời góp phần vào lợi ích chung. . "Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật"[3] . Thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế.

Toàn bộ tài sản quốc gia [như đất đai và các tài nguyên gắn với đất đai, vùng biển, đảo và các tài nguyên gắn với vùng biển, đảo, vùng trời và các tài nguyên gắn với vùng trời, ngân sách nhà nước và các nguồn vốn khác mà Nhà nước huy động được, các loại quỹ dự trữ...] thuộc về sở hữu toàn dân thì không thuộc thành phần kinh tế nào cả. Nhân dân giao quyền, ủy quyền cho Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, cho Nhà nước thống nhất quản lý bằng pháp luật và có trách nhiệm sử dụng hiệu quả toàn bộ tài sản quốc gia thuộc sở hữu toàn dân nhằm tạo ra những điều kiện mang tính chất nền tảng, điều kiện vật chất - kỹ thuật, điều kiện tài chính, xây dựng và phát triển kết cấu kinh tế-xã hội... chung cho sự phát triển bình đẳng của các thành phần kinh tế và cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhà nước không thuộc thành phần kinh tế nào cả. Các tài sản quốc gia thuộc sở hữu toàn dân này, nếu các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế muốn sử dụng thì phải thực hiện theo cơ chế thị trường thông qua đấu giá, thông qua hợp đồng với cơ quan quản lý nhà nước một cách công khai, minh bạch, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Nhà nước được Nhân dân ủy quyền để thực hiện vai trò "người nhạc trưởng", vai trò "bà đỡ" cho sự phát triển của các thành phần kinh tế, cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vai trò kinh tế của Nhà nước là tạo môi trường pháp lý, tạo môi trường kinh tế, tạo môi trường xã hội, cung cấp các dịch vụ công, hàng hóa công, tạo "sân chơi" bình đẳng để các thành phần kinh tế phát triển. Nhà nước không "thiên vị", không "nghiêng" về thành phần kinh tế nào cả. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế; sử dụng các công cụ, chính sách, nguồn lực của Nhà nước để điều tiết nền kinh tế… Nhà nước tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, lành mạnh, thông thoáng, theo cơ chế thị trường để các thành phần kinh tế cùng huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Và vì vậy, mà các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế không chỉ mang lại lợi ích cho các chủ sở hữu của mình, mà còn phải đóng góp vào lợi ích chung của đất nước và thực hiện trách nhiệm xã hội. Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu toàn dân, được Nhân dân ủy quyền, thay mặt Nhân dân quản lý, điều hành, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, mọi tài sản thuộc sở hữu toàn dân tạo các điều kiện nền tảng, định hướng, dẫn dắt, thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển theo mục tiêu chung là phát triển kinh tế - xã hội đất nước nhanh, bền vững, toàn diện, sáng tạo, bao trùm, để đất nước vững bước đi lên CNXH. Nhà nước với vai trò chủ thể có trách nhiệm tạo tất cả những điều kiện nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cho sự phát triển của các thành phần kinh tế, Nhà nước giữ vị trí quyết định, vai trò chủ đạo trong phát triển hệ thống kinh tế quốc dân, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Các thành phần kinh tế là các bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân thống nhất đều bình đẳng với nhau và bình đẳng trước pháp luật. Giữa các thành phần kinh tế có quan hệ tương hỗ với nhau, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với nhau. Các thành phần kinh tế đều có vị trí, vai trò quan trọng khác nhau và gần tương đương nhau; nhưng thành phần kinh tế công với các DNNN "tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần khác không đầu tư"[4] , thì thành phần kinh tế công giữ vị trí, vai trò then chốt, thành phần kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Kinh tế công cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển nền kinh tế có tính tự chủ cao. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế cùng hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, bình đẳng trước pháp luật, cùng nhau huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực xã hội đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước với mục tiêu chung "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Phần kiến nghị trên được luận chứng dựa trên những cơ sở sau:

Về thành phần kinh tế trong nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta

Trong thời kỳ quá độ lên CNXH: sự tồn tại của nhiều chế độ sở hữu, nhiều hình thức sở hữu là cơ sở tồn tại của nhiều thành phần kinh tế. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về thuật ngữ "thành phần kinh tế". Có ý kiến muốn thay thuật ngữ "thành phần kinh tế" bằng "khu vực kinh tế" hay "loại hình kinh tế". Có ý kiến cho rằng: không dùng các thuật ngữ trên, mà gọi trực tiếp tên của mỗi bộ phận của nền kinh tế là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân... Điều quan trọng không phải là tên gọi, mà cần quan tâm xem mỗi bộ phận và mối quan hệ giữa các bộ phận của nền kinh tế quốc dân vận động, phát triển và đóng góp như thế nào vào sự phát triển chung của nền kinh tế, trong đó có việc giải phóng, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực xã hội cho sự phát triển chung của đất nước.

"Thành phần" ở đây xét về góc độ nào đó cũng được hiểu như là "bộ phận", "thành phần" và "bộ phận" về mặt nào đó có ý nghĩa tương đồng. Thuật ngữ "thành phần kinh tế" được dùng nhiều từ khi V.I.Lênin và Đảng Bônsêvích [Nga] chủ trương và thực hiện Chính sách kinh tế mới [NEP] ở nước Nga Xôviết. V.I.Lênin viết: "Vậy thì danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có. Song không phải mỗi người thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế - xã hội khác nhau hiện có ở Nga, chính là như thế nào. Mà tất cả then chốt của vấn đề lại chính là ở chỗ đó”[5].

Theo Lênin, thuật ngữ thành phần kinh tế hàm nghĩa quan hệ sản xuất [trong đó cơ bản là quan hệ sở hữu] ứng với một trình độ phát triển lực lượng sản xuất nhất định đại diện cho một phương thức sản xuất đã lỗi thời, nhưng chưa bị xóa bỏ, hoặc đang trong quá trình phát triển để trở thành phương thức sản xuất thống trị [với nghĩa phổ biến]. Việc xác định thành phần kinh tế là để có chính sách đúng đắn đối với chúng.

Trong thời kỳ quá độ, do trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất, nên còn nhiều chế độ sở hữu, nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Vì vậy còn nhiều thành phần kinh tế trong nền kinh tế là một tất yếu khách quan. Việc phân định các thành phần kinh tế mới hiểu được các đặc trưng cơ bản và xu hướng vận động của chúng để có chính sách phù hợp nhằm phát huy được tiềm lực của chúng vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Khi phân định thành phần kinh tế V.I.Lênin nhấn mạnh hai điểm: phải phản ánh đúng tình hình thực tế và nêu rõ mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế.

Tiêu thức chủ yếu làm cơ sở cho việc phân định các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là:

- Quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu phải phù hợp, gắn với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Mỗi hình thức sở hữu, mỗi thành phần kinh tế phản ánh một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.

- Cơ cấu các thành phần kinh tế phải phản ánh đúng tình hình thực tế của nền kinh tế trong mỗi giai đoạn lịch sử - cụ thể.

- Sự phát triển của các thành phần kinh tế có mối liên hệ tất yếu khách quan theo một quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển lực lượng sản xuất từ thấp lên cao và theo định hướng XHCN.

Khi xác định các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta cần phải xét tới "tính tương đương", "đồng đẳng" giữa các thành phần kinh tế thì mới phù hợp với chủ trương: "các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh"[6] . Như vậy, phải coi các thành phần kinh tế là những bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân thống nhất đều có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và có quan hệ tương hỗ với nhau, bình đẳng với nhau, không nên đặt cho một bộ phận này có vai trò quan trọng hơn bộ phận khác. Với ý nghĩa đó, cần phân chia "thành phần kinh tế nhà nước" hiện nay thành hai cấu phần: phi doanh nghiệp và doanh nghiệp. Phần phi doanh nghiệp bao gồm toàn bộ tài sản quốc gia thuộc về sở hữu toàn dân mà Nhà nước được nhân dân giao quyền đại diện chủ sở hữu thì không thuộc thành phần kinh tế nào cả. Toàn bộ tài sản quốc gia thuộc về sở hữu toàn dân này thì Nhân dân giao quyền, ủy quyền cho Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, Nhà nước quản lý bằng pháp luật và sử dụng hiệu quả nhằm tạo ra những điều kiện vật chất - kỹ thuật, điều kiện tài chính..., tạo ra môi trường kinh tế - xã hội chung để các thành phần kinh tế đều phát triển bình đẳng. Nhà nước không thuộc thành phần kinh tế nào cả, Nhà nước được Nhân dân ủy quyền, giao quyền thống nhất quản lý, sử dụng có hiệu quả các tài sản thuộc sở hữu toàn dân [như đất đai và các tài nguyên gắn với đất đai, vùng biển, đảo và các tài nguyên gắn với vùng biển, đảo, vùng trời và các tài nguyên gắn với vùng trời, ngân sách nhà nước và các nguồn vốn khác mà Nhà nước huy động được, các loại quỹ dự trữ...]. Các tài sản thuộc sở hữu toàn dân này, nếu các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế muốn sử dụng thì phải thực hiện theo cơ chế thị trường thông qua đấu giá, thông qua hợp đồng với cơ quan quản lý nhà nước một cách công khai, minh bạch, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Nhà nước thay mặt Nhân dân quản lý, sử dụng những tài sản thuộc sở hữu toàn dân, tạo ra những điều kiện mang tính chất nền tảng cho sự phát triển của các thành phần kinh tế và cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật cho nền kinh tế để các thành phần kinh tế phát triển. Nhà nước được Nhân dân ủy quyền để thực hiện vai trò "người nhạc trưởng", vai trò "bà đỡ" cho sự phát triển của các thành phần kinh tế, cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vai trò kinh tế của Nhà nước là tạo môi trường pháp lý, tạo môi trường kinh tế, tạo môi trường xã hội, cung cấp các dịch vụ công, hàng hóa công, tạo "sân chơi" bình đẳng để các thành phần kinh tế phát triển. Nhà nước không "thiên vị", không "nghiêng" về thành phần kinh tế nào cả. Nhà nước với vai trò chủ thể có trách nhiệm tạo tất cả những điều kiện nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cho sự phát triển của các thành phần kinh tế giữ vai trò quyết định, vai trò chủ đạo trong phát triển hệ thống kinh tế quốc dân. Như vậy "thành phần kinh tế nhà nước" chỉ còn lại phần doanh nghiệp nhà nước. Có thể giữ nguyên tên là thành phần kinh tế nhà nước, nhưng chỉ bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, hay để cho không lầm lẫn với thành phần kinh tế nhà nước theo quan niệm hiện nay [bao gồm cả hai cấu phần phi doanh nghiệp và doanh nghiệp], thì có thể gọi là thành phần kinh tế công [chỉ bao gồm các doanh nghiệp nhà nước]. Thành phần kinh tế công này mới "tương đương", mới "đồng đẳng" với các thành phần kinh tế khác. Đối tượng sở hữu của các thành phần kinh tế chỉ bao hàm các tài sản hữu hình và vô hình đang được sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các loại hình tổ chức kinh doanh khác nhau và mang lại lợi ích kinh tế cho các chủ sở hữu, đồng thời góp phần vào lợi ích chung. Có như vậy thì thành phần kinh tế công mới thực sự bình đẳng, tương đồng với các thành phần kinh tế khác. "Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật"[7] . Thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế.

Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam còn tồn tại cả chế độ sở hữu tư nhân [chế độ tư hữu], cả chế độ sở hữu xã hội [chế độ công hữu] và hình thức sở hữu hỗn hợp, thì nên phân chia nền kinh tế nước ta thành ba thành phần: kinh tế công, kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp:

Thành phần kinh tế công bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, giữ vị trí, vai trò then chốt trong nền kinh tế. Chủ thể của thành phần kinh tế này là Nhà nước [được Nhân dân ủy quyền]. Nhà nước thông qua Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đầu tư vốn [cả vốn bằng hiện vật và vốn bằng tiền] cho các doanh nghiệp nhà nước [DNNN] thông qua hợp đồng tín dụng. Ban Lãnh đạo DNNN được giao quyền quản lý, sử dụng vốn một cách hiệu quả theo cơ chế thị trường. Các DNNN tập trung phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Các DNNN hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của DNNN. Nhà nước không can thiệp vào hoạt động của DNNN, mà Nhà nước thông qua những hợp đồng kinh tế để đặt hàng cho DNNN sản xuất những hàng hóa có vai trò quan trọng đến quốc kế dân sinh, kể cả những hàng quân sự, quốc phòng. Nhà nước chỉ đóng vai trò là "nhạc trưởng", "bà đỡ", quản lý vĩ mô nền kinh tế, chứ không can thiệp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, kể cả DNNN. DNNN phải tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất - kinh doanh của mình... Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của DNNN trên nền tảng công nghệ hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, quản trị doanh nghiệp theo chuẩn mực tiên tiến của quốc tế, thực sự hoạt động theo cơ chế thị trường, nhằm huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, bảo toàn, phát triển vốn nhà nước tại doanh nghiệp...

Thành phần kinh tế tư nhân[8] là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Chủ thể của thành phần kinh tế này là các chủ sở hữu tư nhân như: các hộ kinh doanh cá thể, các hộ tiểu chủ, các chủ tư nhân, các nhà tư bản, các tập đoàn tư bản... với các loại hình kinh doanh tương ứng như hộ sản xuất, kinh doanh cá thể [hộ nông dân, hộ tiểu - thủ công nghiệp, hộ kinh doanh dịch vụ...], chủ trang trại, hộ tiểu chủ, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân tư bản [tư bản trong nước và tư bản ngoài nước], tập đoàn tư bản. "Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế..."[9]. Hoàn thiện thể chế, tạo thuận lợi phát triển kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Thúc đẩy hình thành, phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có công nghệ hiện đại, năng lực quản trị tiên tiến của thế giới. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa[10]. Ngày nay, phân công lao động đã phát triển theo chi tiết sản phẩm, do đó doanh nghiệp không cần quy mô lớn vẫn có thể áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại. Đồng thời, với công nghệ kỹ thuật số, mạng Internet, máy tính điện tử, robot, trí tuệ nhân tạo... có thể kết nối để tạo thành sự hợp tác ở quy mô lớn trong việc sản xuất sản phẩm, mà không cần tập trung đông lao động vào một địa điểm. Những thay đổi đó làm cho tính tất yếu chuyển sở hữu tư nhân thành sở hữu xã hội để đáp ứng nhu cầu quản lý và sử dụng tư liệu sản xuất có tính xã hội đã trở nên yếu đi, không còn thực sự cấp bách. Nói cách khác, có thể có nhiều cách hợp tác sản xuất giữa những con người với nhau trong xã hội mà không cần sở hữu chung với vai trò trung gian của Nhà nước. Ngoài ra, việc sở hữu chung dưới hình thái sở hữu nhà nước khi nguồn lực và của cải còn khan hiếm so với nhu cầu sẽ có thể dẫn tới sử dụng tài sản chung một cách lãng phí hoặc bị công chức nhà nước lạm dụng, tham nhũng vì lợi ích riêng của họ.

Thành phần kinh tế hỗn hợp [một phần trong đó là chủ nghĩa tư bản nhà nước theo cách gọi của V.I.Lênin] bao gồm các công ty, các doanh nghiệp, các hợp tác xã, các tổ chức kinh tế được hình thành trên cơ sở liên kết các chủ sở hữu khác nhau với nhau: giữa chủ thể kinh tế công và chủ thể kinh tế tư nhân trong nước; giữa chủ thể kinh tế công và chủ thể kinh tế tư nhân nước ngoài; giữa các chủ thể kinh tế tư nhân trong nước với nhau; giữa chủ thể kinh tế tư nhân trong nước và chủ thể kinh tế tư nhân nước ngoài... để thúc đẩy phát triển mọi hình thức liên kết sản xuất kinh doanh, cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo mạng sản xuất và chuỗi giá trị thị trường nhằm tiếp nhận, chuyển giao, tạo sự lan tỏa về công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng và mở rộng thị trường tiêu thụ. Loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh thường là công ty liên doanh, công ty hợp doanh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai chủ sở hữu trở lên, các loại hình hợp tác xã... Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế đa sở hữu có đủ khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu. Điểm chung của các loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh này là đối tượng sở hữu gồm tài sản hữu hình và vô hình của các tổ chức sản xuất - kinh doanh được hình thành từ sự đóng góp của các chủ sở hữu riêng theo nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi. Mỗi chủ sở hữu được hưởng lợi ích khi công ty, doanh nghiệp hỗn hợp này hoạt động có hiệu quả hoặc chịu trách nhiệm khi bị thua lỗ tương ứng với tỷ lệ tài sản đóng góp. Ngoài tài sản đóng góp từ các chủ sở hữu, còn có các tài sản từ các nguồn khác [được hỗ trợ, tài trợ, được cho, tặng, hoặc từ kết quả sản xuất - kinh doanh tích lũy lại...] thuộc sở hữu chung của các thành viên trong tổ chức kinh tế này. Các tổ chức sản xuất - kinh doanh hỗn hợp thuộc loại này có điều lệ hoạt động và bầu ra Ban Lãnh đạo theo nguyên tắc nhất định do Điều lệ công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã quy định, để thay mặt các chủ sở hữu quản lý, điều hành, sử dụng có hiệu quả tài sản chung của tổ chức sản xuất - kinh doanh, mang lại lợi ích cho các chủ thể và đóng góp vào lợi ích chung. Có quy chế chặt chẽ ràng buộc trách nhiệm của những người trong Ban Lãnh đạo được ủy quyền quản lý sản xuất - kinh doanh với kết quả, hiệu quả hoạt động của tổ chức sản xuất - kinh doanh. Loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh hỗn hợp rất đa dạng, từ các tập đoàn đa quốc gia, xuyên quốc gia đến các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, có quy mô nhỏ. Xếp các loại hình hợp tác xã cũng thuộc thành phần kinh tế hỗn hợp vì các hợp tác xã cũng dựa trên sự đóng góp tài sản, vốn của các chủ sở hữu tư nhân, của những người sản xuất hàng hóa nhỏ và hoạt động như các tổ chức sản xuất - kinh doanh hỗn hợp. V.I.Lênin coi hợp tác xã của những công nhân văn minh là hợp tác xã XHCN [ở nước ta chưa có loại hình hợp tác xã này], còn hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ vẫn tôn trọng sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là chủ nghĩa tư bản nhà nước, là một loại hình kinh tế hỗn hợp.

Với cách tiếp cận và xác định thành phần kinh tế như trên, thì các thành phần kinh tế là các bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân thống nhất đều bình đẳng với nhau và bình đẳng trước pháp luật. Giữa các thành phần kinh tế có quan hệ tương hỗ với nhau, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với nhau. Các thành phần kinh tế đều vận động, phát triển trên nền tảng chung là các nguồn lực [đất đai, vùng biển, đảo, vùng trời và các tài nguyên gắn với chúng; ngân sách nhà nước và các nguồn vốn khác mà Nhà nước huy động được, các quỹ dự trữ; các nguồn lực trí tuệ...] thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước được Nhân dân ủy quyền đại diện chủ sở hữu, quản lý, sử dụng hiệu quả vì mục tiêu phát triển đất nước. Muốn sử dụng các nguồn lực chung đó các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phải thông qua đấu giá công khai, minh bạch, hoặc thông qua các hợp đồng kinh tế với Nhà nước theo cơ chế thị trường. Đồng thời, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cũng được sử dụng các cơ sở kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội do Nhà nước sử dụng nguồn lực chung thuộc sở hữu toàn dân, xây dựng để phục vụ chung cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được sử dụng thị trường chung, đồng tiền chung, các dịch vụ công... của Nhà nước. Nhà nước tạo lập môi trường bình đẳng, minh bạch, thông thoáng, theo cơ chế thị trường để các thành phần kinh tế cùng huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Và vì vậy, mà các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế không chỉ mang lại lợi ích cho các chủ sở hữu của mình, mà còn phải đóng góp vào lợi ích chung của đất nước và thực hiện trách nhiệm xã hội. Việc tiếp cận và xác định các thành phần kinh tế như trên cũng cho thấy vị trí, vai trò các thành phần kinh tế là tương đương nhau; nhưng thành phần kinh tế công với các DNNN "tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần khác không đầu tư"[11] , thì thành phần kinh tế công giữ vị trí, vai trò then chốt trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. DNNN phải vươn lên để có hiệu quả sản xuất - kinh doanh tương xứng với lượng vốn và các nguồn lực khác mà các DNNN đang nắm giữ; DNNN phấn đấu đi đầu trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ mới, phấn đấu đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao nhất.

Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên CNXH thì sự tồn tại, phát triển của nhiều chế độ sở hữu, nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan. Các thành phần kinh tế, các bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân đều có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách, nguồn lực của Nhà nước để định hướng, điều tiết nền kinh tế… Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu toàn dân, được Nhân dân ủy quyền, thay mặt Nhân dân quản lý, điều hành, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, mọi tài sản thuộc sở hữu toàn dân tạo các điều kiện nền tảng, định hướng, dẫn dắt, thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển theo mục tiêu chung là phát triển kinh tế - xã hội đất nước nhanh, bền vững, toàn diện, sáng tạo, bao trùm, để đất nước vững bước đi lên CNXH. Với vai trò "nhạc trưởng", "bà đỡ" như vậy, Nhà nước giữ vị trí, vai trò quyết định, vai trò chủ đạo trong hệ thống kinh tế quốc dân, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên CNXH có nhiều chế độ sở hữu, nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Mỗi thành phần kinh tế có vị trí, vai trò quan trọng khác nhau, trong đó thành phần kinh tế công giữ vị trí, vai trò then chốt, thành phần kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Kinh tế công cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển nền kinh tế có tính tự chủ cao. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế cùng hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, bình đẳng trước pháp luật, cùng nhau huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực xã hội đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước với mục tiêu chung "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"./.

C.Mác đã viết: "... chúng ta đau khổ không những vì sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà còn đau khổ vì nó phát triển chưa đầy đủ..."[12] bởi vì khi chủ nghĩa tư bản phát triển chưa đầy đủ thì còn những tàn dư của những phương thức sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu, chúng gây ra nhiều tai họa hơn.

V.I.Lênin cũng so sánh: "chủ nghĩa tư bản là xấu so với chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản lại là tốt so với thời trung cổ, với nền tiểu sản xuất, với chủ nghĩa quan liêu do tình trạng phân tán của những người sản xuất tạo nên. Vì chúng ta chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội, bởi vậy trong một mứcđộ nào đó, chủ nghĩa tư bản là không thể tránh khỏi, nó là sản vật tự nhiên của nền tiểu sản xuất và trao đổi; bởi vậy phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản [nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước] làm mắt xích trung gian giữa người tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên" [13].

V.I.Lênin nhấn mạnh: có thể sử dụng chủ nghĩa tư bản tư nhân [chứ đừng nói gì chủ nghĩa tư bản nhà nước nữa] để xúc tiến chủ nghĩa xã hội, để đóng vai trò trợ thủ cho chủ nghĩa xã hội. Điều đó không có gì là ngược đời.

Hơn nữa, ở một nước tiểu nông, "hễ có trao đổi, thì sự phát triển của nền kinh tế nhỏ là một sự phát triển tiểu tư sản, một sự phát triển tư bản chủ nghĩa, đó là một chân lý không thể chối cãi được, một chân lý sơ đẳng của kinh tế chính trị học, đã được kinh nghiệm hàng ngày và sự quan sát của ngay cả những người bình thường xác nhận"[14].

"Hoặc giả tìm cách ngăn cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của sự trao đổi tư nhân, không phải là quốc doanh, tức là của thương mại, tức là của chủ nghĩa tư bản, một sự phát triển không thể tránh được khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ. Chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn áp dụng nó. Dại dột vì về phương diện kinh tế, chính sách ấy là không thể nào thực hiện được; tự sát, vì những đảng nào định thi hành một chính sách như thế, nhất định sẽ bị phá sản... Hoặc giả [chính sách cuối cùng có thể áp dụng được và duy nhất hợp lý] không tìm cách ngăn cấm hay chặn đứng sự phát triển của chủ nghĩa tư bản mà tìm cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước"[15].

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 107-108

[2] Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3 tháng 6 năm 2017 của Hội nghị Trung ương lần thứ năm [khóa XII] đã xác định 6 quan điểm chỉ đạo, trong đó nhấn mạnh: “Phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh theo cơ chế thị trường là một yêu cầu khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài….; là một phương sách quan trọng để giải phóng sức sản xuất; huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển”; “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế…. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, da dạng với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô, chất lượng và tỷ trọng đóng góp trong GDP”; “Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh và đúng định hướng”; “Kinh tế tư nhân được phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Phát huy phong trào khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo…” [Tài liệu nghiên cứu..., NXB CTQG ST,H.,2017,tr. 72-73]

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 105

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 106

[5] V.I. Lê nin, toàn tập, tập 43, Nxb Tiến Bộ, Matxcva, 1978, tr. 248

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 83

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 105

[8] Xem thêm phần phụ lục cuối bài viết

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 107-108

[10] Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3 tháng 6 năm 2017 của Hội nghị Trung ương lần thứ năm [khóa XII] đã xác định 6 quan điểm chỉ đạo, trong đó nhấn mạnh: “Phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh theo cơ chế thị trường là một yêu cầu khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài….; là một phương sách quan trọng để giải phóng sức sản xuất; huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển”; “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế…. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, da dạng với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô, chất lượng và tỷ trọng đóng góp trong GDP”; “Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh và đúng định hướng”; “Kinh tế tư nhân được phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Phát huy phong trào khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo…” [Tài liệu nghiên cứu..., NXB CTQG ST,H.,2017,tr. 72-73]

[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 106

[12] C. Mác- Ph. Ănghen: Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 19

[13] V.I. Lê nin, toàn tập, tập 43, Nxb Tiến Bộ, Matxcva, 1978, tr. 276

[14] V.I. Lê nin, toàn tập, tập 43, Nxb Tiến Bộ, Matxcva, 1978, tr. 276

[15] V.I. Lê nin, toàn tập, tập 43, Nxb Tiến Bộ, Matxcva, 1978, tr. 276

PGS.TS Vũ Văn Phúc - Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương

Video liên quan

Chủ Đề