Tại sao hitler lại ghét người do thái

Hitler kêu gào tàn sát người Do Thái

Theo cuốn nhật ký của Theo Morell, bác sĩ riêng của Hitler thì có khả năng là do y bị bệnh giang mai, kết quả của một lần truy hoan với một gái bán hoa người Do Thái vào năm 1908, năm y 19 tuổi.

Theo một nghiên cứu khoa học mới đây công bố tại cuộc họp hàng năm của Hội đồng tâm lý học Hoàng gia tại Edinburg thì lòng căm thù người Do Thái đến mức điên cuồng, bệnh hoạn của Hitler có khả năng là hậu quả của sự sai lệch về tâm lý và hành vi  bắt nguồn từ căn bệnh kín kia, một căn bệnh nếu không chữa khỏi sẽ làm cho người mang bệnh có thể dẫn đến loạn trí hoặc mất trí như chứng giận dữ hoang tưởng, sự hung hãn bất ngờ...

Theo tiến sĩ tâm lý học Bassem Habeeb làm việc tại bệnh viện Hollins Park Hospital, Warrington thì nếu nghiên cứu lý giải cuộc đời, các hành vi Hitler dưới góc nhìn một bệnh nhân bị bệnh giang mai sẽ lý giải được nhiều điều. Phải chăng căn bệnh mà y mắc phải đã dày vò y vì  nó đã loại bỏ “thiên chức” đàn ông mà thượng đế ban phát cho y nên y đã căm thù người Do Thái đến tận xương, tận tủy.

Để làm sáng tỏ thêm giả thuyết này, chúng tôi xin giới thiệu một vài đoạn trong chương: “Tiêu diệt người Do Thái, một sứ mệnh Thượng đế trao”  của cuốn Mein Kampf [Cuộc chiến của cá nhân tôi] của Hitler.

Chúng ta hãy xem sự thù hận điên cuồng người Do Thái của Hitler đến mức nào và liệu đó có là bệnh lý, một căn bệnh làm cho y trở nên điên cuồng, độc ác và trả thù người Do Thái đến cùng làm vậy...

Hitler viết rằng y bắt đầu chú ý đến những khác biệt của người Do Thái so với dân tộc Đức khi y sống ở Viên [thủ đô Áo] và bắt đầu căm thù họ. Sự căm thù đó tăng dần. Và sau đây là đoạn liên quan trực tiếp dến khả năng sự thù hận đến mức không hiểu nổi của y là do chuốc bệnh giang mai từ một gái điếm người Do Thái:

“Những hành động cần thiết phải bóc trần sự xấu xa của dân Do Thái đã bắt đầu nhen nhóm trong tôi khi tôi tiếp cận với những phương tiện thông tin đại chúng, những tác phẩm văn học nghệ thuật, những tờ quảng cáo sử dụng những ngôn từ rẻ tiền của đám người Do Thái tung ra để bênh vực cho họ đã làm cho tôi nung nấu ý nghĩ: cần phải tiêu diệt dân Do Thái một cách không thương xót.

Những phương tiện truyền thông này đã lan tỏa tới quảng đại dân chúng giống như một căn bệnh dịch hạch trong đời sống tinh thần, một thứ nọc độc, một thứ rác rưởi làm ô uế đời sống tinh thần của chúng ta. Nhận thức của tôi về sự xấu xa của người Do Thái ngày một thêm tăng nhất là khi hiểu rõ thêm những phong tục tập quán của họ, những thói quen của họ.

Những hình ảnh mà tôi va chạm hàng ngày với đám người Do Thái tại Viên đã làm cho tôi khiếp sợ họ. Đó là vai trò chủ chứa của họ trong các hộp đêm, trong các nhà chứa dành cho người da trắng tại Viên.

Tại Viên, dân Do Thái hoạt động rầm rộ trong lĩnh vực này còn dễ dàng hơn nơi khác ví như ở miền nam nước Pháp. Đêm đêm mọi người khi tản bộ trên đường phố Leopoldstadt, dù muốn hay không du khách cũng dễ dàng bắt gặp những màn kịch chèo kéo khách lố bịch của các tay ma cô người Do Thái...

Tại Viên lần đầu tiên tôi được chứng kiến những việc làm trơ trẽn và vô liêm sỉ của dân Do Thái đang chà đạp và làm nhơ bẩn thành phố có nền văn hoá cổ kính này. Nỗi căm giận về dân Do Thái bắt đầu sôi sục trong tôi. Tôi không còn thấy lo  sợ rằng mình chưa hiểu đúng người Do Thái mà tôi thấy mình phải có sứ mạng đối với vấn đề Do Thái”.

Phạm Viết Đào [Lược dịch]

Trong cuộc họp kéo dài đúng 90 phút, nơi các quan chức cấp cao Đức Quốc xã được phục vụ rượu và đồ nhắm, chủ đề chính được thảo luận là "Những bước hoạch định về tổ chức, hậu cần và vật chất cho giải pháp cuối cùng với người Do Thái ở châu Âu". Kết quả là kế hoạch diệt chủng người Do Thái [Holocaust] được lập ra.

Biên bản cuộc họp được đánh máy trên 15 trang giấy không đề cập rõ ràng đến hành vi giết người. Thay vào đó, họ sử dụng các cụm từ như "sơ tán", "giảm thiểu" hay "điều trị" và phân chia nhiệm vụ giữa các cơ quan chính phủ khác nhau với "những chuyên gia thích hợp".

"Bạn đọc biên bản và cảm thấy lạnh sống lưng", Deborah E. Lipstadt, học giả nổi tiếng nghiên cứu về nạn diệt chủng người Do Thái, cho biết. "Tất cả đều là ngôn ngữ ngụy trang. Nhưng sau đó, bạn nhìn vào danh sách các quốc gia và số lượng người Do Thái mà họ định giết. Họ nhắm tới 11 triệu người. Họ đã lên một kế hoạch lớn".

Những người sống sót trong thảm họa Holocaust tại trại tập trung Auschwitz-Birkenau của Đức Quốc xã ở Ba Lan vào năm 1945, sau khi nơi này được giải phóng. Ảnh: Reuters.

80 năm sau, cuộc họp định mệnh bên hồ Wannsee gây chú ý trong bối cảnh những người sống sót sau thảm họa diệt chủng năm xưa đang ngày càng ít dần. Chủ nghĩa bài Do Thái cũng như tư tưởng người da trắng thượng đẳng đang trỗi dậy mạnh mẽ ở châu Âu và Mỹ. Trên khắp thế giới, ngày càng xuất hiện nhiều cuộc tấn công nhằm vào người Do Thái và các dân tộc thiểu số khác.

Tại Đức, nơi nạn bài Do Thái cũng đang có chiều hướng gia tăng, giới chức đã công khai cảnh báo rằng chủ nghĩa cực hữu cực đoan và khủng bố là mối đe dọa lớn nhất với nền dân chủ.

Ngày nay, biệt thự ba tầng trên bờ hồ từng là nhà khách của Đức Quốc xã và là nơi tổ chức Hội nghị Wannsee trông bề ngoài hầu như không thay đổi. Suốt nhiều thập kỷ sau đó, chính quyền Tây Đức đã phải đau đầu trước câu hỏi phải làm gì với tòa nhà.

Trong khi những người sống sót thúc ép chính phủ biến nó thành nơi để tìm hiểu về thảm họa diệt chủng và ghi lại tội ác của phát xít, giới chức lại tỏ ra lưỡng lự. Một số người bày tỏ quan ngại rằng biệt thự sẽ trở thành nơi hành hương của những phần tử ủng hộ Đức Quốc xã. Số khác thì muốn san bằng nó để xóa sổ hoàn toàn mọi thứ thuộc về "ngôi nhà kinh hoàng này".

Joseph Wulf, thành viên phong trào kháng chiến Do Thái đã thoát khỏi cuộc đại diệt chủng và trở thành nhà sử học nổi tiếng sau chiến tranh, từng dẫn đầu một chiến dịch yêu cầu biến biệt thự thành khu tưởng niệm và viện lịch sử. Phía trên bàn viết của mình, ông ghim một dòng chữ bằng tiếng Do Thái tưởng nhớ 6 triệu người Do Thái đã bị Đức Quốc xã sát hại: "Hãy nhớ!!! 6.000.000".

Đề xuất của Wulf liên tục bị từ chối và trong một bức thư gửi cho con trai mình vào năm 1974, ông đã tỏ rõ nỗi tuyệt vọng: "Bạn có thể cung cấp cho người Đức bằng chứng cho đến khi kiệt sức", ông viết. "Đây là chính phủ dân chủ nhất từng tồn tại nhưng những kẻ sát nhân hàng loạt vẫn tự do đi lại, sở hữu những ngôi nhà nhỏ và trồng hoa trên chúng". Wulf tự sát vài tháng sau đó.

Những năm 1980, ngôi biệt thự trở thành nhà trọ cho các thanh niên trong những chuyến đi học xa. Chỉ sau khi nước Đức tái thống nhất, vào năm 1992, nó mới được biến thành một khu tưởng niệm.

Đối với nhiều người, kỷ niệm Hội nghị Wannsee có lẽ ít quan trọng hơn so với sự kiện giải phóng trại tử thần Auschwitz hay cuộc nổi dậy ở khu ổ chuột Warsaw, vốn tập trung vào các nạn nhân của khủng bố Đức Quốc xã. Nhưng đây là ngày hiếm hoi mà các thủ phạm gây ra họa diệt chủng Do Thái tập trung lại một chỗ, đồng thời cho thấy mức độ tàn khốc của bộ máy diệt chủng của phát xít Đức.

Người chủ trì cuộc họp hôm đó là Reinhard Heydrich, giám đốc quyền lực của cơ quan an ninh và lực lượng Waffen SS, "đội quân đồ tể" tàn bạo bậc nhất phát xít Đức. Heydrich được Hermann Goring, cánh tay phải của Hitler, giao phụ trách lên kế hoạch cho "giải pháp cuối cùng" và phối hợp thực hiện nó với các ban ngành khác trực thuộc chính phủ.

Những người được Heydrich mời họp đều là quan chức cấp cao trong chính quyền Đức Quốc xã. Hầu hết trong số họ ở độ tuổi ngoài 30, 9 người có bằng luật, hơn một nửa có bằng tiến sĩ.

Trong lúc họ tập trung quanh một chiếc bàn nhìn ra hồ Wannsee, tội ác diệt chủng vẫn diễn ra. Việc trục xuất và sát hại người Do Thái ở các vùng lãnh thổ phía đông đất nước đã bắt đầu từ mùa thu trước, nhưng cuộc họp ngày 20/1/1942 đã đặt nền móng cho một cỗ máy giết người hàng loạt có sự tham gia của toàn bộ bộ máy Đức Quốc xã và cuối cùng là hàng triệu người Đức trong các vai trò khác nhau.

Adolf Eichmann, quan chức đứng đầu bộ phận "trục xuất và các vấn đề liên quan đến người Do Thái" thuộc Bộ Nội vụ, người sau này sẽ đảm nhận việc đưa người Do Thái tới các trại tử thần, được yêu cầu lập biên bản cuộc họp. Chỉ một trong 30 bản sao của biên bản 15 trang cộp dấu "mật" còn được lưu lại đến ngày nay. Nó được lính Mỹ phát hiện trong hồ sơ của Bộ Ngoại giao Đức Quốc xã sau chiến tranh.

Biên bản của Eichmann đã tóm tắt phạm vi nhiệm vụ trong một bảng thống kê chi tiết về dân số Do Thái trên khắp châu Âu, không chỉ bao gồm Liên Xô mà còn cả Anh, Ireland và Thụy Sĩ.

"Việc di cư hiện được thay thế bằng cách di tản người Do Thái về phía đông như một giải pháp khả thi khác", biên bản có đoạn. "Trong quá trình giải quyết câu hỏi cuối cùng về người Do Thái này, khoảng 11 triệu người Do Thái sẽ được xem xét".

Tài liệu sau đó tiếp tục trình bày một số chi tiết trong giải pháp cuối cùng.

"Người Do Thái sẽ được điều đến lao động ở phía đông theo cách phù hợp", biên bản cho hay. "Phân theo các nhóm lớn, chia theo giới tính, những người Do Thái có khả năng lao động sẽ được cử đến các vùng này để xây dựng đường sá. Trong quá trình đó, chắc chắn một phần lớn sẽ bị loại bỏ nhờ sàng lọc tự nhiên. Những người cuối cùng còn lại phải được quan tâm phù hợp vì chắc chắn họ đại diện cho những bộ phận kháng cự mạnh nhất".

Biệt thự ở Wannsee, nơi các quan chức Đức Quốc xã lên kế hoạch Holocaust vào năm 1942. Ảnh: AP.

"Những người Do Thái sơ tán trước tiên sẽ được đưa theo từng nhóm đến cái gọi là các khu quá cảnh, từ đó họ sẽ được chuyển về phía đông", văn bản tiếp tục. "Liên quan đến cách thức thực hiện giải pháp cuối cùng ở các lãnh thổ châu Âu mà chúng ta đang kiểm soát hoặc có ảnh hưởng, chúng tôi đề nghị các chuyên gia liên quan trong Bộ Ngoại giao nên trao đổi với quan chức có trách nhiệm của Cảnh sát An ninh và SD".

Ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản không mang sắc thái chết chóc, nhưng ai cũng hiểu mục tiêu mà nó hướng đến: "Loại bỏ hoàn toàn người Do Thái ở châu Âu", như Joseph Goebbels, lãnh đạo cơ quan tuyên truyền của Hitler, viết trong nhật ký sau khi đọc biên bản.

15 người dự Hội nghị Wannsee đều trực tiếp tham gia vào kế hoạch diệt chủng người Do Thái. Một số chỉ huy hoặc tổ chức các đội giết người, số khác xây dựng cơ sở pháp lý cho tội ác này.

6 người trong số họ đã chết vào năm 1945. Chỉ có hai người hầu tòa vì vai trò trong kế hoạch Holocaust sau chiến tranh. Eichmann bị hành quyết ở Israel sau nhiều năm lẩn trốn ở Argentina. Wilhelm Stuckart, đồng tác giả của luật chủng tộc Nuremberg, được trả tự do vào năm 1949.

Ba người khác bị xét xử vì những tội danh không liên quan và được tuyên mức án nhẹ, trong khi 4 người không bao giờ bị kết tội. Gerhard Klopfer, một quan chức cấp cao trong bộ máy của Hitler, đã làm luật sư suốt nhiều thập kỷ sau chiến tranh. Khi Klopfer chết vào năm 1987, gia đình ông đưa ra một bản cáo phó, trong đó ghi rằng ông đã sống "một cuộc đời viên mãn, vì lợi ích của tất cả những ai thuộc phạm vi ảnh hưởng của ông".

80 năm sau Hội nghị Wannsee và 77 năm sau khi Thế chiến II kết thúc, các nhân chứng cho những hành động tàn bạo của Đức Quốc xã đang chết dần.

Khi tiến sĩ Lipstadt, 74 tuổi, lần đầu tiên giảng dạy về Holocaust hơn ba thập kỷ trước, bà rất dễ dàng tìm thấy những người sống sót để trò chuyện với các sinh viên của mình. "Bây giờ, tôi chỉ hy vọng có thể tìm thấy một người đủ sức khỏe để đến dự giờ học cùng chúng tôi", bà nói.

Vũ Hoàng [Theo NY Times]

Video liên quan

Chủ Đề