Tại sao sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam lại có thêm yếu tố thứ ba

Ngày 3/2/1930 đánh dấu một sự kiện lịch sử của dân tộc Việt Nam cũng như của thế giới, đó là sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. 90 năm trôi qua, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nhân dân ta từ kiếp nô lệ trở thành người tự do, từ kẻ mất nước trở thành người làm chủ, từ đói nghèo lạc hậu đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc..

Đất nước ta đang ngày càng tiến bước mạnh mẽ và vững chắc trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tất cả những vinh quang này có được chính là nhờ sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng như những hy sinh, đóng góp to lớn của các đồng chí lãnh đạo tiền bối.

Sự ra đời của Đảng là tất yếu lịch sử

“Thuận chiều với dòng chảy của lịch sử nhân loại, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu, nằm trong quy luật vận động của cách mạng thế giới, vừa phù hợp với đặc điểm kinh tế, xã hội và văn hóa Việt Nam, đáp ứng những yêu cầu khách quan, thiết yếu và cấp bách của dân tộc Việt Nam là độc lập, tự do và phát triển”.

Đây là đánh giá của Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trần Trọng Thơ, Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng [Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh] khi đề cập đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Theo đó, trong quá trình hình thành quốc gia dân tộc Việt Nam, các thế hệ người Việt Nam thường xuyên và đồng thời thực hiện hai sự nghiệp là dựng nước đi liền với giữ nước.

Chính trong quá trình tạo lập và phát triển giang sơn, gấm vóc, người Việt Nam đã hình thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và Mỗi khi đất nước lâm nguy, người Việt Nam bất kể là thuộc tầng lớp nào, đều dốc sức chống giặc giữ nước, khôi phục nền độc lập. Người Việt Nam, dù là quý tộc hay bình dân, đều có thể trở thành hạt nhân khởi xướng các phong trào yêu nước, các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc; có truyền thống hòa hiếu, giao hảo với các nước lân bang.

Chủ nghĩa dân tộc Việt Nam là một động lực lớn, mang nhiều yếu tố tích cực, xa lạ với chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, rất gần gũi với chủ nghĩa quốc tế. Những đặc điểm kinh tế, xã hội, những tinh hoa văn hóa, những khát vọng của dân tộc Việt Nam rất phù hợp và tương đồng với những giá trị cao đẹp của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Trong lúc các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo các ý thức hệ phong kiến, tư sản bế tắc thì phong trào công nhân xuất hiện. Do tác động của các cuộc khai thác thuộc địa, bộ phận công nhân Việt Nam hình thành và dần trở thành một giai cấp trong xã hội Việt Nam vào năm 1914.

Với đặc điểm tập trung, giàu tinh thần đấu tranh chống áp bức xã hội xã hội, lòng uất hận với bọn xâm lược và ước ao tự giải phóng giai cấp và toàn dân tộc, giai cấp công nhân Việt Nam đã đứng lên đấu tranh, sớm hòa nhập và gắn quyện với các phong trào dân tộc.

Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trần Trọng Thơ cho rằng, sự thống nhất của ý thức đấu tranh giai cấp với chủ nghĩa yêu nước trong phong trào công nhân, sự thống nhất của phong trào công nhân với phong trào yêu nước trong sự nghiệp đấu tranh chống thực dân Pháp là một đặc điểm, giá trị nổi bật, là nền tảng xã hội cho phong trào dân tộc theo khuynh hướng vô sản hình thành khi con đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc được phổ biến và dẫn đến việc ra đời của chính đảng vô sản ở Việt Nam như một tất yếu lịch sử.

Những tấm gương lan tỏa về phẩm chất đạo đức cách mạng

Theo Tiến sỹ Đặng Kim Oanh [Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh], nhìn lại chặng đường 90 năm qua, đặc biệt ở thời kỳ đấu tranh cách mạng giành độc lập, trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với vai trò của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, vai trò của các lãnh đạo tiền bối của Đảng và cách mạng Việt Nam, tiêu biểu như: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Đức Cảnh… Những lãnh đạo tiền bối tiêu biểu đã để lại tấm gương sáng về ý chí cách mạng, lập trường, tư tưởng kiên định, vững vàng sẵn sàng chiến đấu, hy sinh cho sự nghiệp độc lập, tự do của Tổ quốc.

Trong diễn văn đọc tại Đại hội II của Đảng [tháng 2/1951], Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Các đồng chí ta như đồng chí Trần Phú, đồng chí Ngô Gia Tự, đồng chí Lê Hồng Phong, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, đồng chí Hà Huy Tập, đồng chí Nguyễn Văn Cừ, đồng chí Hoàng Văn Thụ và trăm nghìn đồng chí khác đã đặt lợi ích của Đảng, của giai cấp, của dân tộc lên trên hết, lên trước hết.

Các đồng chí đó đã tin tưởng sâu sắc, chắc chắn vào lực lượng vĩ đại và tương lai vẻ vang của giai cấp và của dân tộc. Các đồng chí ấy đã vui vẻ hy sinh hết thảy, hy sinh cả tính mệnh mình cho Đảng, cho giai cấp, cho dân tộc.

Các đồng chí ấy đã đem xương máu mình vun tưới cho cây cách mạng, cho nên cây cách mạng đã khai hoa, kết quả tốt đẹp như ngày nay. Tất cả chúng ta phải noi theo các gương anh dũng, gương chí công vô tư ấy, mới xứng đáng là người cách mạng”.

Tiến sỹ Đặng Kim Oanh đánh giá, trong hoạt động cách mạng, các đồng chí lãnh đạo tiền bối đã luôn sống với thực tế đời sống của nhân dân, là tấm gương lan tỏa về phẩm chất đạo đức cách mạng, gắn lời nói với việc làm, tuân thủ chặt chẽ kỷ luật, kỷ cương của Đảng và tổ chức; nói ít làm nhiều và đã làm là làm tới nơi tới chốn; không ham danh vị, lợi quyền; đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng lên trên hết, trước hết.

Đây là những tấm gương thể hiện nhân cách cao đẹp, có giá trị lan tỏa mạnh mẽ, khích lệ tinh thần cách mạng trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước trong giai đoạn hiện nay.

Cho rằng một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền, Tiến sỹ Đặng Kim Oanh khẳng định: Cuộc đời hoạt động cách mạng của các đồng chí lãnh đạo tiền bối là niềm tự hào của cán bộ, đảng viên và nhân dân; là tài sản tinh thần vô giá để mỗi người có quyền tự hào, bày tỏ tình cảm tri ân những cống hiến của các đồng chí với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc Việt Nam.

Tiếp nối truyền thống “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn ghi nhớ công ơn của các bậc tiền bối. Tháng 4/1999, Thường trực Bộ Chính trị đã có Công văn số 2118-CV/CPTW về: “Sưu tầm tư liệu, nghiên cứu và viết tiểu sử các đồng chí lãnh đạo chủ chốt và các đồng chí lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và Nhà nước”.

Đặc biệt, tháng 4/2014, Bộ Chính trị đã thông báo Kết luận số 88-KL/TƯ về “Tổ chức kỷ niệm 100 năm, trên 100 năm ngày sinh; xây dựng khu lưu niệm, nhà lưu niệm; xây dựng, công bố phim tài liệu về thân thế, sự nghiệp các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước và lãnh đạo tiền bối tiêu biểu”.

Tiến sỹ Đặng Kim Oanh khẳng định: Thực tiễn 90 năm qua cho thấy, trong các dịp lễ, Tết, dịp kỷ niệm các sự kiện lớn của Đảng, đất nước, dân tộc, Đảng luôn chú trọng tôn vinh, tri ân các bậc tiên liệt của dân tộc, các lãnh đạo tiền bối của Đảng, của cách mạng, những người đã không tiếc tuổi thanh xuân, hy sinh cho sự nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam, để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam tấm gương sáng ngời về tinh thần yêu nước và đạo đức cách mạng của người cộng sản.

Theo Tiến sỹ Đặng Kim Oanh, hiện nay, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị khóa XII về: “Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.

Kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng cũng là lúc cả nước đang tích cực phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết XII của Đảng, tích cực chuẩn bị tiến tới tổ chức Đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hội lần thứ XIII của Đảng.

Tri ân, ghi nhận và học tập những tấm gương cộng sản kiên cường của các thế hệ lãnh đạo cách mạng tiền bối tiêu biểu của Đảng trong chặng đường 90 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ góp phần tạo xung lực mới để mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là những người đứng đầu, có trách nhiệm nêu gương, ra sức học tập làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh, của lãnh đạo tiền bối tiêu biểu.

Đồng thời, nêu cao tính gương mẫu trong quá trình tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, nhất là đối với thế hệ trẻ; củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Phương Thanh [TTXVN]

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ khi thành lập cho đến nay, Đảng luôn thể hiện rõ là một đảng cách mạng chân chính, hội tụ sức mạnh của dân tộc, của giai cấp, là đội tiên phong của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam. Những thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam suốt 90 năm qua đã minh chứng cho tầm vóc bản lĩnh, trí tuệ của Đảng trên con đường lãnh đạo xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Ảnh minh họa: internet

Trải qua 90 năm lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản [ĐCS] Việt Nam luôn ý thức được vị trí, vai trò, trọng trách của mình trước vận mệnh dân tộc, tương lai của đất nước, tạo ra những dấu mốc quan trọng của cách mạng Việt Nam “Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành được những thắng lợi vĩ đại: thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội”[1].

ĐCS Việt Nam - chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam ra đời mang bản chất giai cấp công nhân, là lãnh tụ chính trị, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam. Do đó, lợi ích của Đảng trước hết đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân và lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động, lợi ích của toàn dân tộc. Có thể nói, sứ mệnh lịch sử của ĐCS Việt Nam là do thời đại, giai cấp và dân tộc quyết định.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng không chỉ là lãnh tụ chính trị, đội tiên phong và đại biểu cho lợi ích của giai cấp, của dân tộc mà còn là lãnh tụ chính trị, đội tiên phong và đại biểu cho lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Đảng phải vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Người khẳng định: “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác - con đường cách mạng vô sản”[2]. Để thực hiện được mục tiêu đó, Người chỉ rõ: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”[3]. ĐCS Việt Nam đóng vai trò lãnh đạo nhân dân cùng một lúc phải làm tư sản cách mạng, làm dân tộc cách mạng và làm giai cấp cách mạng. Đây là đặc điểm nổi bật nhất của cách mạng vô sản ở Việt Nam do ĐCS lãnh đạo và cũng là một đặc điểm của sứ mệnh lịch sử của Đảng đối với giai cấp, dân tộc và xã hội Việt Nam.

Vai trò lãnh đạo của Đảng ta được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi của Đảng khi Đảng mới thành lập, đó là: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”;... “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”;... Làm cho nước Việt Nam được độc lập;... giải phóng công nhân và nông dân thoát khỏi ách tư bản; mở mang công nghiệp và nông nghiệp;... đem lại mọi quyền lợi tự do cho nhân dân”.

90 năm qua, Đảng ta đã từng bước thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. 15 năm sau khi thành lập, Đảng đã lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đánh đuổi đế quốc, thực dân, lật đổ chế độ phong kiến, lập ra nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, cả dân tộc ta đã nghe theo lời kêu gọi của Đảng, của lãnh tụ Hồ Chí Minh tham gia kháng chiến giải phóng dân tộc và đã giành được thắng lợi to lớn, đánh thắng đế quốc xâm lược; lập lại hoà bình ở miền Bắc Việt Nam. Trong hoàn cảnh đất nước tạm thời bị chia làm hai miền, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân tiến hành đồng thời hai cuộc cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Khi đế quốc Mỹ đưa quân vào xâm lược miền Nam [năm 1965], tiến hành chiến tranh cục bộ đánh phá các căn cứ cách mạng ở miền Nam và mở rộng chiến tranh xâm lược ra miền Bắc [năm 1964], Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả nước đánh cho Mỹ cút [năm 1973], đánh cho ngụy nhào, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước [ngày 30/4/1975], đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Với thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp [1946-1954] và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước [1954-1975] do ĐCS Việt Nam lãnh đạo, dân tộc Việt Nam trở thành một trong những dân tộc đầu tiên làm cách mạng giải phóng dân tộc thành công ở một nước thuộc địa và lệ thuộc; một trong những dân tộc đầu tiên đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới, mở đầu phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ - La tinh.

Sau thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975, đất nước Việt Nam thống nhất, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước tình hình đất nước gặp nhiều khó khăn về kinh tế, đời sống nhân dân còn thiếu thốn, Đảng đã chủ động khởi xướng và lãnh đạo thành công công cuộc đổi mới đất nước. Những thành tựu to lớn sau hơn 30 năm đổi mới trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh, quan hệ quốc tế... đã khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo trong vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam. Từ một đất nước bị tàn phá nặng nề bởi nhiều cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, bị các thế lực thù địch chống phá, bị bao vây, cấm vận kinh tế, lại phải chịu nhiều tổn thất do thiên tai khắc nghiệt gây ra, Việt Nam đã nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội; đời sống của các tầng lớp nhân dân lao động không ngừng được cải thiện; chính trị ổn định; lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng được củng cố; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Với những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới đất nước, Việt Nam trở thành một trong những nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên tiến hành đổi mới thành công theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhân dân, dân tộc Việt Nam có quyền tự hào về ĐCS Việt Nam - người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân. Từ thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước, có thể khẳng định rằng: đường lối lãnh đạo của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh là đúng đắn, sáng suốt và luôn được các tầng lớp nhân dân ủng hộ, tin tưởng. Đảng có đủ bản lĩnh, trí tuệ, năng lực lãnh đạo nhân dân Việt Nam không chỉ giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến giành và giữ chính quyền, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, mà cả trong xây dựng và phát triển kinh tế, xây dựng đất nước theo mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Cách mạng Việt Nam hiện nay đã chuyển sang giai đoạn mới. Những mục tiêu cơ bản của cách mạng do Đảng xác định từ những năm 30 của thế kỷ XX đến nay đang được thực hiện. Đất nước đã được độc lập, nhân dân được tự do. Tuy nhiên, đời sống của nhân dân lao động vẫn còn nhiều khó khăn, kinh tế đất nước vẫn chưa phát triển mạnh. Đảng ta chỉ rõ: “Nguy cơ “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên,... sự tồn tại và những diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí”[4],... chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Các thế lực thù địch, cơ hội thực hiện âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam đã thực hiện nhiều hoạt động thâm độc nhằm gây chia rẽ, mất đoàn kết từ bên trong nội bộ Đảng và Nhà nước ta. Đặc biệt trong thời điểm hiện nay, khi Đảng ta đang tiến hành thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng thì các thế lực thù địch càng ráo riết dùng mọi thủ đoạn để chống phá Đảng, đòi “đổi mới thể chế chính trị” ở Việt Nam. Trên mạng xã hội xuất hiện nhiều bài viết xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo sự thật, kích động, lôi kéo những người bất mãn với chế độ, bôi nhọ, nói xấu Đảng và Nhà nước... gây ra sự bất ổn về chính trị ở một số nơi, gây hoài nghi về vai trò, khả năng lãnh đạo của Đảng, nhằm từng bước làm mất lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng với mưu đồ tiến đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của ĐCS đối với giai cấp, dân tộc và xã hội.

Có hay không vai trò lãnh đạo của ĐCS đối với giai cấp và xã hội, câu hỏi này chỉ có người dân Việt Nam mới có câu trả lời chính xác. Chính nhân dân - chứ không phải ai khác mới là cán cân chân lý, là người đánh giá chính xác nhất vai trò, uy tín của Đảng, là người có tiếng nói quyết định trong việc lựa chọn sự lãnh đạo đối với cách mạng Việt Nam, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Những kẻ bán nước cầu vinh, vụ lợi chính trị tuyên truyền bịa đặt, giả danh, giả nghĩa… thì không đủ tư cách, nhân phẩm để có tiếng nói trong vấn đề này. Dù họ có nỗ lực đến đâu và cố tình bịa đặt “bóp méo sự thật” đến mức độ nào thì kết quả nhận được cũng sẽ là sự tuyệt vọng. Đảng ta không có quyền lợi nào khác ngoài quyền lợi được phục vụ nhân dân, được phục vụ đất nước và trên thực tế Đảng ta đã là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cho dù thời cuộc có thay đổi phức tạp, khó khăn, nhưng người dân Việt Nam vẫn một lòng theo Đảng; vai trò lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp, dân tộc và xã hội ngày càng được khẳng định.

Có thể nói, vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam đối với giai cấp, dân tộc và xã hội được xây dựng trên cơ sở pháp lý đồng bộ [hệ thống các văn bản pháp luật] và đồng thuận [điều lệ, quy định] của các tổ chức có liên quan. Đây là một yếu tố quan trọng, bảo đảm tính chính danh đầy đủ của Đảng được quy định tại Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013: 1] Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; 2] Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; 3] Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Việc quy định Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội không chỉ là tư tưởng xuyên suốt, nhất quán để khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, mà còn là một nguyên tắc nhất quán của cách mạng Việt Nam, phù hợp với thể chế chính trị - xã hội mà Đảng ta, nhân dân ta đã lựa chọn.

Sự lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt, là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XII của Đảng yêu cầu: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”[5]. Đảng ta chỉ rõ: “Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng. Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả; bản lĩnh chính trị của Đảng, của các tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên”[6]. Vấn đề đặt ra hiện nay là, mọi tổ chức đảng từ Trung ương đến địa phương, cán bộ, đảng viên phải nắm vững toàn bộ nội dung xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và phương thức lãnh đạo; đổi mới phương thức lãnh đạo, phong cách và lề lối làm việc thật sự dân chủ, thiết thực, nói đi đôi với làm; quán triệt và thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị [khóa XII] về: “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đó là những vấn đề cơ bản, cấp thiết nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Kiên định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp, dân tộc và xã hội là vấn đề chiến lược có tính nguyên tắc đã và đang đặt ra những yêu cầu mới và toàn diện, song bên cạnh đó cũng còn nhiều khó khăn, thách thức. Với bản lĩnh đã được tôi luyện trong thực tiễn cách mạng, nhất định Đảng ta sẽ vượt qua và làm tốt sứ mệnh lịch sử mà dân tộc và nhân dân giao phó. Mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng của các thế lực thù địch nhằm làm mất uy tín, danh dự, phủ nhận vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam đối với giai cấp và xã hội chắc chắn sẽ vị vạch trần và thất bại. Bởi vậy, Đảng cần kế thừa và phát huy những bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng cần tích cực tổng kết thực tiễn kết hợp với nghiên cứu lý luận để nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về vai trò lãnh đạo của Đảng, không ngừng bổ sung, hoàn thiện và nâng cao hiệu lực cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, xã hội nói chung và các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam nói riêng trong thời kỳ mới./.

-----------------------------

Ghi chú:

[1] ĐCS Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001, tr.12.

[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb CTQG, H.1995, tr.314.

[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H.1995, tr.267 - 268.

[4], [5], [6] ĐCS Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG-ST, H.2016, tr.18-19, tr.217, tr.199.

Trung tướng, TS Lê Huy Vịnh - Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam

Theo: //tcnn.vn

Video liên quan

Chủ Đề