Trên thế giới có bao nhiêu dân tộc

Thống Kê Dân Số 2020 đã sử dụng hai câu hỏi bắt buộc riêng biệt [một về Người La-tinh nói tiếng Tây Ban Nha hoặc nguồn gốc Mỹ La-tinh [Chỉ có bằng tiếng Anh], và một về chủ đề chủng tộc [Chỉ có bằng tiếng Anh]] để thu thập thông tin về chủng tộc và dân tộc của dân số Hoa Kỳ - thể theo các tiêu chuẩn [Chỉ có bằng tiếng Anh] do Văn Phòng Quản Lý Và Ngân Sách Hoa Kỳ Văn Phòng Quản Lý và Ngân Sách Văn Phòng Quản Lý và Ngân Sách [OMB] đề ra vào năm 1997. Dựa trên nghiên cứu trong thập kỷ qua của chúng tôi [Chỉ có bằng tiếng Anh], chúng tôi đã cải tiến thiết kế hai câu hỏi riêng biệt này và cập nhật quy trình xử lý và mã hóa dữ liệu cho Thống Kê Dân Số 2020. Công việc này bắt đầu vào năm 2015 với nghiên cứu và thử nghiệm tập trung vào các phát hiện từ quá trình Thử Nghiệm Nội Dung Quốc Gia 2015, và các thiết kế này đã được đưa vào cuộc Thử Nghiệm Thống Kê Dân Số 2018 [Chỉ có bằng tiếng Anh].

Những cải tiến và thay đổi [Chỉ có bằng tiếng Anh] này đã cho phép chúng tôi mô tả một cách kỹ lưỡng và chính xác hơn cách mọi người tự xác định danh tính của họ, từ đó chúng tôi có được một bức tranh chính xác hơn về cách mọi người kê khai chủng tộc và nguồn gốc Tây Ban Nha của họ theo định dạng hai câu hỏi. Những thay đổi này cho thấy rằng dân số Hoa Kỳ là đa chủng tộc và đa dạng hơn nhiều so với những gì chúng tôi đã đo lường được trong quá khứ.

Chúng tôi tin tưởng rằng phần lớn là do những cải tiến về mặt thiết kế của hai câu hỏi đặc biệt dành cho mục đích thu thập dữ liệu và xử lý dữ liệu về chủng tộc, cũng như một số thay đổi về nhân khẩu học trong 10 năm qua.

Bộ dữ liệu tái phân chia khu vực từ Thống Kê Dân Số 2020 được công bố hôm nay cho chúng ta một cái nhìn nhanh mới về thành phần chủng tộc và dân tộc của đất nước chúng ta, là kết quả của những cải tiến trong quá trình thiết kế, xử lý và mã hóa các câu hỏi về chủng tộc và dân tộc.

“Khi đất nước chúng ta phát triển, chúng tôi đã tiếp tục phát triển cách chúng tôi xác định chủng tộc và dân tộc [Chỉ có bằng tiếng Anh] của những người sống ở đây," Nicholas Jones, giám đốc và cố vấn cấp cao về nghiên cứu và tiếp cận chủng tộc và sắc tộc tại Cục Thống Kê Dân Số cho biết. “Đợt công bố ngày hôm nay về dữ liệu tái phân chia khu vực từ Thống Kê Dân Số 2020 cho chúng ta một cái nhìn tổng thể mới về thành phần chủng tộc và dân tộc cũng như sự đa dạng của đất nước chúng ta. Những cải tiến mà chúng tôi đã đạt được cho Thống Kê Dân Số 2020 cho chúng ta một bức tranh chính xác hơn về cách mọi người tự xác định bản thân khi trả lời hai câu hỏi đặc biệt về chủng tộc và nguồn gốc Tây Ban Nha, điều mà cho chúng ta thấy rằng dân số Hoa Kỳ đa chủng tộc và đa dạng hơn nhiều so với những gì chúng tôi đã đo lường trước đây.”

Điểm nổi bật về chủng tộc và dân tộc:

  • Dân số người Da Trắng vẫn là chủng tộc hoặc nhóm dân tộc đông nhất ở Hoa Kỳ, với 204,3 triệu người được xác định là người Da Trắng. Nhìn chung, 235,4 triệu người đã xác định họ là người Da Trắng riêng biệt hoặc kết hợp với một nhóm khác. Tuy nhiên, dân số chỉ là người Da Trắng đã giảm 8,6% kể từ năm 2010.
  • Dân số có Hai hoặc Nhiều Chủng Tộc [còn được gọi là dân số Đa Chủng Tộc ] đã thay đổi đáng kể tính từ năm 2010. Dân số Đa Chủng Tộc được xác định là 9 triệu người vào năm 2010 và hiện là 33,8 triệu người vào năm 2020, tăng lên 276%.
  • Các dân số đa chủng tộc “kết hợp” ở tất cả các nhóm chủng tộc chịu trách nhiệm cho hầu hết những thay đổi tổng thể trong mỗi nhóm chủng tộc.
  • Dân số thuộc tất cả các chủng tộc đơn lẻ hoặc nhóm kết hợp đã tăng lên. Dân số thuộc Một Số Chủng Tộc Khác hoặc theo nhóm kết hợp [49,9 triệu] đã tăng 129%, vượt cả dân số người Da Đen hay người Mỹ Đen [46,9 triệu] và trở thành chủng tộc đơn lẻ hoặc theo nhóm kết hợp đông người thứ hai.
  • Các dân số chủng tộc lớn nhất tiếp theo là người Châu Á đơn lẻ hoặc theo nhóm kết hợp [24 triệu], người Thổ dân Châu Mỹ Da Đỏ hay Thổ dân Alaska đơn lẻ hoặc nhóm kết hợp [9,7 triệu], và người Thổ dân Hawaii hoặc người Đảo Thái Bình Dương khác đơn lẻ hoặc theo nhóm kết hợp [1,6 triệu].
  • Dân số Người La-tinh nói tiếng Ban Nha hoặc Mỹ La-tinh , bao gồm người thuộc bất kỳ chủng tộc nào, là 62,1 triệu vào năm 2020. Dân số người La-tinh nói tiếng Tây Ban Nha hoặc Mỹ La-tinh đã tăng 23%, trong khi dân số không phải người La-tinh nói tiếng Tây Ban Nha hoặc nguồn gốc Mỹ La-tinh đã tăng 4,3% kể từ năm 2010.

Điều quan trọng cần lưu ý là việc so sánh dữ liệu này giữa dữ liệu chủng tộc của Thống Kê Dân Số 2020 và Thống Kê Dân Số 2010 cần được thực hiện một cách thận trọng, cần tính đến những cải tiến mà chúng tôi đã áp dụng đối với các câu hỏi về chủng tộc và nguồn gốc Tây Ban Nha và cách chúng tôi mã hóa các thông tin thu được từ công chúng.

Theo đó, dữ liệu từ Thống Kê Dân Số 2020 cho thấy sự phân bổ khác nhau nhưng hợp lý và đúng theo kỳ vọng từ Thống Kê Dân Số 2010 cho dân số người Da Trắng đơn lẻ, Một Số Chủng Tộc Khác hoặc dân số kết hợp, và dân số đa chủng tộc, đặc biệt đối với những người tự xác định mình là người Da Trắng lẫn Một Số Chủng Tộc Khác.

Những kết quả này không gây ngạc nhiên vì chúng phù hợp với nghiên cứu của chuyên gia Cục Thống Kê Dân Số và các phát hiện tương ứng [Chỉ có bằng tiếng Anh] trong thập kỷ vừa qua, đặc biệt là kết quả về tác động của định dạng của các câu hỏi về chủng tộc và dân tộc từ cuộc Thử Nghiệm Nội Dung Quốc Gia 2015.

Cục Thống Kê Dân Số sử dụng một số biện pháp để phân tích sự đa dạng về chủng tộc và dân tộc [Chỉ có bằng tiếng Anh] của đất nước chúng ta.

Cục Thống Kê Dân Số sử dụng Chỉ Số Đa Dạng [Diversity Index, hoặc DI] để đo xác suất mà hai người được chọn ngẫu nhiên sẽ thuộc các nhóm chủng tộc và dân tộc khác nhau.

DI được giới hạn giữa 0 và 1. Giá trị 0 chỉ ra rằng tất cả mọi người thuộc một nhóm dân số đều có các đặc điểm chủng tộc và dân tộc giống nhau. Giá trị gần bằng 1 chỉ ra rằng hầu hết mọi người thuộc một nhóm dân số đều có các đặc điểm chủng tộc và dân tộc khác nhau.

Chúng tôi đã chuyển đổi xác suất này thành tỷ lệ phần trăm để làm cho chúng dễ hiểu hơn. Trong định dạng này, DI cho chúng ta biết khả năng hai người được chọn ngẫu nhiên sẽ thuộc các nhóm chủng tộc và dân tộc khác nhau.

Sử dụng cùng một phép tính DI cho dữ liệu tái phân chia khu vực năm 2020 và 2010, khả năng để hai người được chọn ngẫu nhiên sẽ thuộc các nhóm chủng tộc hoặc dân tộc khác nhau đã tăng lên .

Nói chung, các tiểu bang [state] có điểm DI cao nhất nằm ở phía Tây [Hawaii, California và Nevada], phía Nam [Maryland và Texas; cùng với Đặc Khu Columbia, được coi như tương đương với một tiểu bang [state]] và phí Đông Bắc [New York và New Jersey].

Hawaii có điểm DI cao nhất vào năm 2020 là 76%, cao hơn một chút so với năm 2010 [75,1%].

Tham khảo thông tin về thành phần chủng tộc và dân tộc của tiểu bang [state] và quận/hạt của quý vị, cũng như các thước đo về sự đa dạng khác nhau tại và .

Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc cùng sinh sống. Người Kinh chiếm 85,4% dân số Việt Nam, với  78,32 triệu người. 53 dân tộc thiểu số [DTTS] còn lại chỉ chiếm 14,6% dân số cả nước [Xem bảng 1].1

Mặc dù Việt Nam ủng hộ Tuyên bố về quyền của người bản địa [UNDRIP], Chính phủ không đồng nhất khái niệm người dân tộc thiểu số với người bản địa. Thay vào đó, Chính phủ dùng thuật ngữ “dân tộc thiểu số” để chỉ chung cho những người không thuộc dân tộc Kinh, thể hiện chủ trương “thống nhất trong đa dạng” của Chính phủ.2

Giữa các DTTS cũng có rất nhiều khác biệt. Trong số đó, người Hoa [dân tộc Hán] có nhiều đặc điểm văn hóa tương đồng với văn hóa Việt Nam, và họ cũng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam.3 Vì vậy, người Hoa thường không được ghi nhận là một “dân tộc thiểu số” ở Việt Nam.4 Các dân tộc khác, ví dụ như dân tộc H’Mông và dân tộc Nùng chủ yếu sống dựa vào trồng trọt và duy trì đời sống văn hóa gắn liền với những khu rừng.5 Các DTTS cũng được phân chia theo hệ ngôn ngữ. Ngôn ngữ của các dân tộc Việt Nam được chia làm 8 nhóm: Việt – Mường, Tày – Thái, Môn – Khmer, Mông – Dao, Ka đai, Nam đào, Hán và Tạng.6 96% các dân tộc thiểu số nói tiếng mẹ đẻ của họ.7

Bảng 1: Dân số trung bình cả nước và dân số dân tộc thiểu số

TT

Chỉ tiêu

Dân số [người]

Tỷ lệ [%]

I

Ước tính dân số trung bình [1/4/2015]

91.713.345

100,0

Trong đó

Nam

45.234.104

49,3

Nữ

46.479.241

50,7

Thành thị

31.131.496

33,9

Nông thôn

60.581.849

66,1

II

Ước tính Dân số dân tộc thiểu số cả nước [01/7/2015]

13.386.330

100,0

Trong đó

Nam

6.721.461

50,2

Nữ

6.664.869

49,8

Thành thị

1.438.315

10,7

Nông thôn

11.948.015

89,3

Nguồn: Trung tâm Quyền của người dân tộc thiểu số và miền núi [HRC]

Đồng bào các DTTS thường tập trung vào các vùng núi và vùng sâu vùng xa8, tuy nhiên họ cũng phân bố rải rác trên toàn lãnh thổ Việt Nam do chiến tranh và nhập cư. Các DTTS sinh sống ở khu vực thành thị thường sung túc hơn các DTTS sống ở khu vực nông thôn. 9 Nhiều làng, xã có tới 3-4 DTTS khác nhau cùng sinh sống.10 Vị trí địa lý đóng một vai trò quan trọng trong các tập tục văn hóa của các DTTS, song cũng đồng thời tạo ra những rào cản trong việc tiếp cận cơ sở hạ tầng và các dịch vụ công như y tế và giáo dục.11

Biểu đồ 1: Dân tộc thiểu số Việt Nam

Nguồn: Dữ liệu khảo sát 53 DTTS năm 2015, Ủy ban Dân tộc 

Khả năng tiếp cận cơ sở vật chất cơ bản tại những địa bàn người DTTS sinh sống chủ yếu vẫn còn hạn chế. 72% DTTS không có nhà vệ sinh đạt chuẩn, và hơn ¼ số hộ DTTS không được tiếp cận với nguồn nước hợp vệ sinh.12 Tỉ lệ hộ có điện sinh hoạt tương đối cao ở Việt Nam, tuy nhiên phần lớn các hộ sinh sống tại khu vực nông thôn và vùng núi chưa được sử dụng điện lưới, gây nên tình trạng mất cân đối trong đời sống đồng bào DTTS.

Tuy còn thiếu thốn về điều kiện giáo dục so với đồng bào Kinh,13 các DTTS đều có đại diện với vai trò cán bộ và công chức trong các cấp chính quyền, đặc biệt là cấp tỉnh và thành phố.14 Tuy nhiên, trình độ văn hóa, đặc biệt là tỷ lệ biết chữ có khác biệt lớn giữa các nhóm DTTS. Tỷ lệ trung bình cho 53 DTTS là 79,8%, tuy nhiên con số này biến thiên từ mức thấp nhất là 34,6% với dân tộc La Hủ, tới cao nhất là các dân tộc Thổ, Mường, Tày và Sán Dìu đạt 95%. Tỷ lệ người lao động là DTTS đã qua đào tạo bằng 1/3 của cả nước.15 

Một trong những rào cản của giáo dục ở vùng cao chính là khoảng cách địa lý. Nhiều học sinh người DTTS phải đi một quãng đường xa để tới trường phổ thông, thường rơi vào khoảng từ 9 km thậm chí lên tới 70 km16 Thêm vào đó, người được đi học chủ yếu vẫn là nam giới, do tư tưởng lỗi thời “trọng nam khinh nữ”  vẫn còn tồn tại ở đồng bào DTTS.

Biểu đồ 2: Tỷ lệ người dân tộc thiểu số biết đọc và viết phổ thông năm 2015
Nguồn: Trung tâm Quyền của người dân tộc thiểu số và miền núi [HRC] 2015

Tuy các DTTS có sự khác biệt với nhau về phong tục tập quán, rừng vẫn đóng vai trò quan trọng với phần lớn các DTTS. Người Mông, Thái, Dao đỏ, Vân Kiều, Ja Rai, Ê Đê, và Ba Na sinh sống trên nhiều tỉnh thành trên cả nước vẫn nương tựa vào rừng cộng đồng. Họ có những khu rừng thiêng phục vụ mục đích về tâm linh tín ngưỡng cũng như người Kinh có đền thờ và nhà thờ dòng họ. Luật tục cũng quy định những khu rừng đầu nguồn, rừng nguồn nước nơi người dân thờ Thần Nước. Ngoài ra còn có các khu rừng khai thác sản phẩm chung của cả làng bản, ví dụ như dược liệu, củi, và vật liệu để làm đồ thủ công.17 Hình thức quản lý rừng truyền thống theo cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong phong tục tập quán cũng như sinh kế của các DTTS tại Việt Nam. Dưới đây là phim tài liệu về Người H’Mông và lễ cúng các vị thần rừng tại Xã Sín Chéng, Huyện Simacai, Tỉnh Lào Cai do Trung tâm Tư vấn Quản lý Bền vững Tài nguyên và Phát triển Văn hóa Cộng đồng Đông Nam Á [CIRUM] biên tập.

[Xem thêm các phim tài liệu về thực hành tôn giáo và phong tục tập quán của người dân tộc thiểu số tại đây]

Ngoài sản xuất lâm nghiệp, sản xuất nông nghiệp là sinh kế với nhiều DTTS.18 Cả hai hình thức canh tác lâm nghiệp và nông nghiệp đều cần có đất. Tuy nhiên các DTTS vẫn còn gặp nhiều khó khăn về quyền đất đai để duy trì hoạt động sản xuất và sinh hoạt văn hóa. Trong nỗ lực bảo vệ sinh kế và khuyến khích bảo vệ môi trường, một số cộng đồng đã được chính phủ giao đất để họ tiếp tục quản lý rừng truyền thống theo cộng đồng.19 Tuy nhiên việc làm này chưa được phổ biến rộng rãi. Năm 2015, chỉ có 26% tổng diện tích đất rừng được giao cho các hộ, và chỉ có 2% được giao cho cộng đồng quản lý.20  Thêm vào đó, mặc dù Luật Đất đai thừa nhận quyền sở hữu đất đai theo luật tục, đất đai phần lớn vẫn thuộc sự quản lý của Chính phủ, và Luật Dân sự không thừa nhận cộng đồng như một pháp nhân.21

Có nhiều khác biệt về chính sách, luật pháp và các quy định liên quan đến quyền sở hữu đất đai và rừng giữa các tỉnh thành trên cả nước.22 Điều này ảnh hưởng đến phụ nữ DTTS. Theo truyền thống, họ được coi là những người lưu giữ tri thức về người bản xứ cũng như những người bảo vệ rừng, tuy nhiên vai trò này không được ghi nhận trong luật.23 Hệ thống đăng ký thông tin đất đai chỉ mới bắt đầu [năm 2014] quy định cần cả tên của vợ và chồng trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.24 Kể cả khi có tên trên các văn bản này, nhiều phụ nữ thừa nhận họ thiếu tự tin khi đưa ra những quyết định liên quan đến sử dụng đất.25 

Hiến pháp nước CHXH Chủ nghĩa Việt Nam đảm bảo quyền bình đẳng cho tất cả công dân Việt Nam, trong đó có quyền của các dân tộc thiểu số.26  Việt Nam không có một bộ luật riêng về DTTS nhưng có riêng một cơ quan ngang bộ phụ trách các vấn đề về DTTS đó là Uỷ ban Dân tộc.27 Trong giai đoạn 2011 – 2015, Nhà nước đã ban hành 180 văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các DTTS28 Có nhiều chính sách đã phát huy hiệu quả tốt như Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP về giảm nghèo bền vững và Chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo.29 Mặc dù được ghi nhận trong các văn bản pháp luật và chính sách, các DTTS vẫn là những đối tượng dễ bị tổn thương, nhất là khi họ bị mất đi những cánh rừng, nơi khởi nguồn tín ngưỡng và phong tục tập quán của họ.30 Các chính sách liên quan đến người DTTS chưa thực sự giải quyết được các vấn đề đặt ra, do có sự chồng chéo về nội dung. Thêm vào đó, triển khai luật còn chưa hiệu quả.31 Nguồn lực để triển khai chính sách còn hạn chế, dẫn đến việc điều phối và triển khai thiếu hiệu quả. Phát triển đất đai và nhập cư càng tăng thêm sức ép lên quyền của các DTTS32 Các chính sách dân tộc cần tập trung giải quyết nhu cầu cho từng đối tượng cụ thể, thay vì thiết kế theo phương thức “một can thiệp phù hợp cho tất cả”.33 Không có nhiều chính sách được xây dựng theo cách tiếp cận từ dưới lên.34 Tuy vậy, năm 2015 Chính phủ Việt Nam đã tiến hành khảo sát các DTTS lần đầu tiên, minh chứng cho việc xây dựng chính sách dành riêng cho các DTTS.35 Trên thực tế, dữ liệu từ khảo sát này được sử dụng cho Hoạch định chính sách phát triển cho các vùng DTTS giai đoạn 2016-2020.36 Nỗ lực này đáng được ghi nhận, mặc dù trên thực tế vẫn còn những hạn chế liên quan đến quy trình thu thập dữ liệu.37  

Mặc dù đã có nhiều nỗ lực nhằm cải thiện bất bình đẳng giới ở Việt Nam, vấn đề này vẫn còn tồn tại và ảnh hưởng đặc biệt tới cộng đồng DTTS. 38 Cần có nhiều chương trình cụ thể hơn hướng tới đối tượng phụ nữ DTTS39 Ví dụ, liên quan tới đất đai, cần có những biện pháp để giúp cải thiện sự chủ động và tự tin cho phụ nữ DTTS. Một ví dụ khác, để tăng cường tiếp cận các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe sinh sản,40, giáo dục và các dịch vụ khác cần được cung cấp dưới hình thức dễ tiếp cận, nhất là về ngôn ngữ vì phần lớn người DTTS không nói tiếng Việt, và phụ nữ DTTS có tỷ lệ biết chữ thấp hơn so với nam giới.41

Video liên quan

Chủ Đề