Trứng giun sán chết ở nhiệt độ nào

Nguyên nhân gây bệnh chủ yếu do ăn các loại thức ăn nhiễm các ấu trùng trong đất, trong nước [ rau thủy sinh, rau sống không rửa sạch..] hoặc nhiễm từ các sản phẩm thịt không được nấu chín

Không chỉ do ăn thịt nhiễm sán lợn gạo, bạn cần chú ý thói quen ăn uống của mình

2. Triệu chứng nhiễm sán lợn gạo

Bệnh sán dây trưởng thành thường không có biểu hiện triệu chứng rõ rệt, một số trường hợp có biểu hiện lâm sàng như đau bụng, rối loạn tiêu hóa hoặc có triệu chứng thần kinh [suy nhược].

Những trường hợp nhiều sán, có thể nhìn thấy đốt sán ra theo phân hoặc tự bò ra ngoài hậu môn [thường nhìn thấy trong quần lót khi thay ra vào cuối ngày làm việc]; xuất hiện đốt sán theo phân [những đoạn nhỏ, dẹt, trắng ngà như sơ mít, đầu sán bằng phẳng].

3. Biến chứng của bệnh sán lợn gạo

Các bệnh giun sán nói chung, khi vào cơ thể đều chiếm thức ăn, dẫn đến kém hấp thu, làm chậm phát triển thể lực, gây rối loạn tiêu hoá.

Ấu trùng sán lợn gây nguy hiểm nhất là khi tấn công vào não và vào tim, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ và có thể để lại các biến chứng. Trường hợp chui mắt có thể gây tăng nhãn áp, giảm thị lực hoặc mù.

Ấu trùng sán lợn gạo làm tổ trong não

4. Ăn sán lợn gạo bao lâu sẽ nhiễm bệnh?

Bệnh sán lợn gạo lây nhiễm chủ yếu qua đường tiêu hóa.

  • Ấu trùng sán dây lợn xâm nhập và phát triển ở các tổ chức cơ của lợn. Các nang sán tập trung thành từng hạt màu trắng đục, kích thước như hạt gạo, chính là hình ảnh ‘lợn gạo’ mà nhiều người biết đến. Con người ăn thịt lợn đó rồi bị nhiễm bệnh sán lợn gạo. Tuy nhiên, ấu trùng sán chết sau 1 giờ ở nhiệt độ 50-60 độ C. Vì vậy nếu không nấu chín thức ăn thì nguy cơ mắc bệnh rất cao.
  • Ấu trùng sán dây lợn có trong phân của con người hoặc lợn mang bệnh. Khi không đảm bảo vệ sinh, ấu trùng đó sẽ lẫn vào rau, quả, nguồn nước. Con người sử dụng mà không rửa kĩ, nấu chín sẽ dễ dàng bị nhiễm bệnh sán dây lợn.
  • Người chỉ mắc sán dây lợn nhưng không điều trị, đốt sán già trào ngược lên dạ dày, giải phóng ấu trùng sán. Như vậy, người đó từ việc nhiễm sán dây lại chuyển thành nhiễm kết hợp cả sán dây lợn và ấu trùng, làm bệnh nặng hơn rất nhiều.

Thời gian sống của sán dây lợn cũng như trứng sán trong cơ thể người có thể lên tới 10 - 20 năm.

Sau khi ăn phải sán lợn gạo, khoảng 10 - 15 ngày sau, xét nghiệm máu bằng phương pháp ELISA sẽ cho kết quả bệnh nhân có nhiễm sán hay không.

5. Sán lợn gạo chết ở nhiệt độ bao nhiêu?

Sán lợn chết ở nhiệt độ bao nhiêu là điều nhiều người quan tâm. Theo Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế, ấu trùng sán lợn sẽ chết khi được đun nấu ở nhiệt độ 75o C trong vòng 5 phút hoặc đun sôi trong vòng 2 phút. Vì vậy để phòng nhiễm sán lợn thì cần ăn chín, uống sôi.

Ấu trùng sán lợn sẽ chết khi được đun nấu ở nhiệt độ 75o C trong vòng 5 phút hoặc đun sôi trong vòng 2 phút.

6. Chủ động phòng bệnh sán lợn gạo và ấu trùng sán dây lợn

Để chủ động phòng tránh bệnh sán lợn gạo và ấu trùng sán dây lợn, theo Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế khuyến cáo người dân:

  • Không ăn các thực phẩm sống như thịt lợn, nem chua, thịt lợn tái [nguy cơ nhiễm sán dây trưởng thành], rau sống không đảm bảo vệ sinh [nguy cơ mắc bệnh ấu trùng sán lợn]. Quản lý phân tươi, nhất là ở những vùng có người nhiễm sán dây lợn trưởng thành trong ruột. Sử dụng hố xí hợp vệ sinh, không nuôi lợn thả rông. + Bệnh sán dây trưởng thành: chủ yếu gây triệu chứng đau bụng, rối loạn tiêu hóa nhẹ. Tuy nhiên, triệu chứng chủ yếu là người bị bệnh thường xuyên có những cảm giác khó chịu, bứt rứt do những đốt sán [sán dây bò] tự rụng ra ngoài ống tiêu hóa bất cứ lúc nào.

+ Bệnh ấu trùng: tùy thuộc vào vị trí ký sinh của nang sán mà có những biểu hiện khác nhau [có các nốt ở dưới da bằng hạt đỗ, hạt lạc, di động dễ, không ngứa, không đau, nằm ở vị trí cơ vân, không ở trên đường đi của hạch bạch huyết; hoặc có thể bị động kinh, liệt tay, chân hay liệt nửa người, nói ngọng, rối loạn trí nhớ hoặc đau đầu dữ dội; hoặc có thể tăng nhãn áp, giảm thị lực hoặc mù nếu có nang sán ở mắt.

- Ca bệnh xác định:

+ Bệnh sán dây trưởng thành: xét nghiệm phân tìm thấy đốt sán và trứng sán dây.

+ Bệnh ấu trùng: xét nghiệm chẩn đoán xác định khi có một trong các tiêu chuẩn sau sinh thiết các nốt/nang sán dưới da. Ép, soi kính hiển vi thấy vòng móc của đầu sán hoặc chụp cắt lớp não CT scanner có nang sán trong não. Đó là những nốt dịch có chấm mờ lệch tâm, kích thước 3-5 mm, có nốt to hơn, có thể có nốt vôi hóa. Chụp cộng hưởng từ [MRI] có độ chính xác cao hơn nhưng cần cân nhắc để có chỉ định trong từng trường hợp cụ thể.

1.2. Chẩn đoán phân biệt với một số bệnh tương tự:

- Bệnh sán dây trưởng thành: cần phân biệt với bệnh giun truyền qua đất như giun đũa, giun tóc, giun móc/mỏ, bằng xét nghiệm phân tìm trứng giun trong phân.

- Bệnh ấu trùng: phân biệt với các bệnh ấu trùng giun đũa chó bằng kỹ thuật ELISA, giun xoắn và một số bệnh thần kinh, bệnh về mắt bằng các xét nghiệm chuyên khoa.

1.3. Xét nghiệm:

- Loại mẫu bệnh phẩm:

+ Bệnh phẩm phân để tìm trứng sán dây hoặc đốt sán dây trưởng thành.

+ Bệnh phẩm máu để tìm kháng thể kháng ấu trùng sán dây lợn trong huyết thanh bệnh nhân.

- Phương pháp xét nghiệm:

+ Xét nghiệm phân để tìm trứng theo phương pháp xét nghiệm trực tiếp hoặc phương pháp Kato.

+ Xét nghiệm máu tìm kháng thể kháng ấu trùng sán dây lợn bằng phương pháp ELISA. Ngoài ra, có thể dùng phương pháp sinh thiết cơ hoặc chụp cắt lớp não CT scanner để tìm nang sán.

2. Tác nhân gây bệnh:

- Tên tác nhân:

+ Bệnh sán dây [Taeniasis] là do các loài sán dây trưởng thành gồm Taenia saginata, Taenia solium và Taenia asiatica ký sinh trong ruột gây nên.

+ Bệnh ấu trùng sán lợn [Cysticercosis] là do những ấu trùng sán lợn ký sinh ở trong cơ, trong não, trong mắt người gây nên.

- Hình thái:

+ Sán dây trưởng thành: sán dây thường dài từ 2 - 4 mét, có khi tới 8 - 10 mét. Nhìn bên ngoài, sán dây có hình thể như một dải băng và có 3 phần: phần đầu là một hình cầu mang những mồm hút và bộ phận bám, phần cổ thường thắt lại và không có đốt, phần thân gồm nhiều đốt và những đốt tùy theo độ trưởng thành có sự phát triển khác nhau..

+ Ấu trùng sán dây lợn: khi phát triển đầy đủ, ấu trùng là một túi giống như một hạt đu đủ mọng nước, chiều dài 15 mm, chiều ngang 7 - 8 mm, hình dạng của ấu trùng có thể thay đổi tùy theo nơi ký sinh. Ở những cơ chắc, ấu trùng có hình kéo dài nhưng ở những bộ phận có tổ chức lỏng lẻo ấu trùng lại có hình cầu.

- Khả năng tồn tại trong môi trường bên ngoài:

+ Đối với trứng sán dây nằm trong đốt sán nên khó bị phá vỡ, chỉ khi nào đốt sán thối rữa mới giải phóng trứng; cũng như trứng giun đũa, trứng sán dây ra môi trường nhiệt độ ánh sáng trên 700C mới có khả năng diệt trứng.

+ Ấu trùng sán dây lợn bị giết chết ở dưới -20C, nhưng ở 00C đến -20C nó sống được gần 2 tháng và nhiệt độ phòng thí nghiệm cũng sống được 26 ngày. Nếu muốn dùng thịt sống thì phải ướp thịt ở -100C trong 4 ngày mới bảo đảm; ấu trùng bị giết chết ở 45-500C để đảm bảo an toàn phải đun sôi trên 1 giờ.

3. Đặc điểm dịch tễ học:

- Bệnh sán dây trưởng thành: phân bố rải rác nhiều nơi trên toàn quốc, tỷ lệ nhiễm dao động từ 0,5-12%; trong đó, tỷ lệ nhiễm sán dây bò chiếm chủ yếu 70-80%, sán dây lợn chiếm tỷ lệ thấp 10-20%.

- Bệnh ấu trùng sán lợn: phân bố rải rác ở ít nhất 49 tỉnh/thành trong cả nước, tỷ lệ nhiễm khoảng 5-7%.

4. Nguồn truyền nhiễm:

- Ổ chứa: sán dây trưởng thành sống ở ruột non của người; ấu trùng sán dây lợn sống ký sinh ở trong tổ chức của một số động vật có vú như người, lợn, lợn rừng, trâu, bò, lạc đà, cừu, dê, ngựa, thỏ, chó, mèo.

- Thời gian ủ bệnh: sán dây trưởng thành khoảng 8-10 tuần, ấu trùng sán dây lợn khoảng 9-10 tuần.

- Thời kỳ lây truyền: sau khoảng 10 tuần, sán trưởng thành sống trong ruột non của người, những đốt sán già tự rụng ra ngoài hậu môn hoặc theo phân bài tiết ra ngoài. Trong đốt sán có trứng sán, khi đốt rữa ra trứng sẽ giải phóng và nếu người ăn phải trứng sán dây lợn sẽ gây bệnh ấu trùng sán dây lợn.

5. Phương thức lây truyền:

- Người ăn phải thịt lợn, thịt bò có ấu trùng sán [nang sán] chưa được nấu chín sẽ phát triển thành sán dây lợn/bò trưởng thành ký sinh ở ruột non của người.

- Người ăn phải trứng sán dây lợn, trứng sẽ phát triển thành nang trùng sán trong cơ thể [người gạo]; rất hiếm gặp bệnh ấu trùng sán dây bò.

6. Tính cảm nhiễm và miễn dịch:

- Bệnh sán dây trưởng thành: thường liên quan đến tập quán ăn thịt lợn/bò tái hoặc chưa nấu chín. Tuy nhiên, bệnh sán dây bò thường chiếm tỷ lệ cao hơn vì người dân thường ăn thịt bò tái hoặc chưa nấu chín hơn thịt lợn.

- Bệnh ấu trùng sán dây lợn: thường gặp ở những vùng có sử dụng phân tươi để bón cây trồng.

- Người rất ít có miễn dịch với bệnh sán dây trưởng thành và ấu trùng.

7. Các biện pháp phòng chống dịch:

7.1. Biện pháp dự phòng:

- Tuyên truyền giáo dục sức khỏe: tuyên truyền cho người dân về tác hại và đường lây truyền của bệnh sán dây và bệnh ấu trùng sán lợn để chủ động phòng chống bệnh.

- Vệ sinh phòng bệnh: vệ sinh cá nhân, không ăn thịt bò/lợn tái hoặc chưa nấu chín; thực hiện ăn chín, uống chín, ăn rau sống phải rửa sạch dưới vòi nước. Quản lý và xử lý nguồn phân tươi hợp lý, tránh reo rắc mầm bệnh ra môi trường. Phát hiện và tẩy sán trưởng thành sớm nếu bị nhiễm bệnh.

7.2. Biện pháp phòng chống dịch:

- Tổ chức: nếu có dịch xảy ra phải thành lập ngay Ban chỉ đạo các cấp khoanh vùng dập dịch.

- Chuyên môn: thu dung bệnh nhân tới cơ sở y tế để điều trị diệt mầm bệnh; kiểm soát trâu, bò vùng có dịch; tuyên truyền người dân không ăn thịt lợn/bò chưa được nấu chín dưới bất kỳ hình thức nào.

7.3. Nguyên tắc điều trị:

- Điều trị sớm, đủ liều và dùng thuốc đặc hiệu.

- Điều trị hỗ trợ khi cần thiết để nâng cao thể trạng cho bệnh nhân.

- Lưu ý những trường hợp chống chỉ định điều trị cho phụ nữ có thai, những người đang bị bệnh cấp tính hoặc suy tim, suy gan, suy thận, bệnh tâm thần..., cơ địa dị ứng với thuốc cần dùng.

- Thuốc điều trị:

+ Điều trị sán dây trưởng thành: có thể dùng một trong hai loại thuốc sau:

Praziquantel viên nén 600 mg.

Niclosamide viên nén 500 mg.

+ Điều trị nang sán: áp dụng tại các bệnh viện từ tuyến huyện trở lên:

Praziquantel viên nén 600 mg hoặc Albendazole. Trước khi dùng phác đồ này, cần tẩy sán trưởng thành bằng Praziquantel.

7.4. Kiểm dịch y tế biên giới: Không nhập hoặc xuất thịt lợn/bò có ấu trùng [lợn gạo/bò gạo] qua biên giới.

Giun sán chết ở nhiệt độ lạnh bao nhiêu?

Chào bạn! Thông thường, ấu trùng sán heo chết ở -2oC, nhưng nếu ở 0oC đến -2oC nó sống được gần 2 tháng và ở nhiệt độ phòng thí nghiệm cũng sống được 26 ngày. Nếu muốn dùng thịt heo sống, phải để thịt ở -10oC trong 4 ngày mới đảm bảo. Ấu trùng bị giết chết ở 45 - 50oC.

Giun sán bao nhiêu đó thì chết?

SKĐS - Thông thường, ấu trùng sán lợn sẽ chết khi được đun nấu ở nhiệt độ 75 độ C trong vòng 5 phút hoặc đun sôi trong vòng 2 phút. Chính vì thế, Bộ Y tế khuyến cáo người dân thực hiện ăn chín, uống chín, ăn các thức ăn đã được nấu chín kỹ, chế biến hợp vệ sinh.

Sân sẽ chết ở nhiệt độ bao nhiêu?

Theo thông tin từ Cục Y tế dự phòng – Bộ Y tế: Ấu trùng sán lợn sẽ chết khi đun nấu thức ăn ở nhiệt độ 75oC trong vòng 5 phút hoặc đun sôi thức ăn trong vòng 2 phút. Đây là tiêu chuẩn nhiệt độ và thời gian đủ để giết chết ấu trùng sán gạo trong mọi loại thức ăn.

Trứng giun sán tồn tại bao lâu?

Trứng giun sán có thể tồn tại lâu trong đất, môi trường. Ví dụ: Tại Xamacan, qua 15 năm quan sát có chu kì trứng giun đũa chôn ở gần mặt đất tại một thí điểm ở công viên, thấy sau 9 năm, một số trứng di chuyển tới độ sâu 20 cm và còn khả năng sống tới 2%. Ở độ sâu 10 cm còn khả năng sống 5,9 - 7,6%.

Chủ Đề