23 39 KB 15 551
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Lời mở đầu
Thi đỗ vào Đại Học hẳn là một niềm vui và là mục tiêu phấn đấu của rất nhiều học sinh khi
bước chân vào đại học rồi thì lại có biết bao là dự tính kế hoạch được đặt ra . Có thể nói Đại Học
như là nơi chúng ta đặt một viên gạch quan trọng cho ước mơ của mình . Tuy vậy khi tiếp xúc với
môi trường ở Đại Học thì không phải ai cũng có thể phát huy hết khả năng và thể hiện được mình
như khi ở phổ thong bởi lẽ trong quá trình học tập và nghiên cứu ở Đại Học người sinh viên phải
tham gia vào nhiều hoạt động khác nhau : tu dưỡng , học tập nghiên cứu , văn nghệ , thể dục thể
thao , các hoạt động lớp đoàn , v.v... bên cạnh đó một số không ít đi làm thêm ngoài giờ và đặc biệt
là sự thay đổi môi trường học và môi trường sống mà không phải ai cũng có thể thích ứng một
cách nhanh chóng được . Do đó vấn đề đặt ra cho mỗi sinh viên là phải xây dựng cho mình một
phương pháp học tập , rèn luyện phù hợp với bản thân và phù hợp với điều kiện sống đồng thời đáp
ứng được những yêu cầu của nhà trường và xã hội đặc biệt ………. đề tài bài tiểu luận cho mình là
: “ Ứng dụng quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng sang những sự thay đổi về chất và
ngược lại trong vấn đề học tập rèn luyện của sinh viên Phần I : Quan niệm
Lê Nin
1 . Khái niệm về lượng và chất về lượng và chất trong triết học Mác 1. 1 Khái niệm về chất .
Bất cứ một sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng.Hai mặt đó thống
nhất hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng.Phép biện chứng duy vật ra đời đem lại quan điểm
đúng đắn về khái niệm chất, lượng và quan hệ qua lại giữa chúng; từ đó khái quát thành quy luật
chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự
thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật nó chứ không phải là cái khác.
Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có những chất vốn có, làm nên chính chúng.Nhờ
đó chúng mới khác với các sự vật, hiện tượng khác; nhờ đó mà con người mới có thể phân biệt sự
vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác. Con người khác với động vật chính là nhờ những
tính quy định vốn có của con người: có khả năng chế tạo và sử dụng công cụ lao động, có khả năng
tư duy.
Thuộc tính của sự vật là những tính chất, những trạng thái, những yếu tố cấu thành sự
vật.Đó là những cái vốn có của sự vật từ khi sự vật được sinh ra hoặc được hình thành trong sự
vận động và phát triển của nó.Tuy nhiên những thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ được
bộc lộ ra thông qua sự tác động qua lại với các sự vật, hiện tượng khác.Chất của một người cụ thể 1 chỉ được bộc lộ thông qua quan hệ của người đó với người khác, với môi trường xung quanh,
thông qua lời nói và việc làm của người ấy. Như vậy, muốn nhận thức đúng đắn về những thuộc
tính của sự vật, chúng ta phải thông qua sự tác động qua lại của sự vật đó với bản thân chúng ta
hoặc thông qua quan hệ, mối liên hệ qua lại của nó với các sự vật khác.Mỗi sự vật có rất nhiều
thuộc tính; mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất của sự vật. Do vậy, mỗi sự vật có rất nhiều chất.
Chất và sự vật có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau.Trong hiện thực khách quan không
thể tồn tại sự vật không có chất và không thể có chất nằm ngoài sự vật.
Chất của sự vật được biểu hiện qua những thuộc tính của nó.Nhưng không phải bất kỳ
thuộc tính nào cũng biểu hiện chất của sự vật.Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và thuộc
tính không cơ bản.Những thuộc tính cơ bản được tổng hợp lại tạo thành chất của sự vật.Chính
chúng quy định sự tồn tại, sự vận động và sự phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng thay đổi hay
mất đi thì sự vật mới thay đổi hay mất đi.
Những thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ qua các mối liên hệ cụ thể với các sự vật khác . Bởi
vậy sự phân chia thuộc tính thành thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản cũng chỉ mang
tính chất tương đối, tùy theo từng mối quan hệ.
Ví dụ: Trong mối quan hệ với động vật thì các thuộc tính có khả năng chế tạo sử dụng công
cụ, có tư duy là thuộc tính cơ bản của con người còn những thuộc tính khác không là thuộc tính cơ
bản. Song trong quan hệ giữa những con người cụ thể với nhau thì những thuộc tính con người về
nhận dạng, về dấu vân tay... lại trở thành thuộc tính cơ bản.
Chất của sự vật không những quy định bởi chất của những yếu tố tạo thành mà còn bởi
phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết cấu của sự vật.Trong hiện thực các
sự vật được tạo thành bởi các yếu tố như nhau, song chất của chúng lại khác nhau.Kim cương và
than chì đều có cùng thành phần hoá học là nguyên tố các bon tạo nên; nhưng do phương thức
liên kết giữa các nguyên tử các bon là khác nhau, vì thế chất của chúng hoàn toàn khác nhau.Kim
cương rất cứng, còn than chì lại rất mềm.Từ đó có thể thấy sự thay đổi về chất của sự vật phụ
thuộc cả vào sự thay đổi các yếu tố cấu thành sự vật lẫn sự thay đổi phương thức liên kết giữa các
yếu tố ấy.
1.2 Khái niệm về lượng
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng,
quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự
vật. Lượng là cái khách quan, vốn có của sự vật, quy định sự vật ấy là nó.Lượng của sự vật không
phụ thuộc vào ý chí, ý thức của con người.
Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy mô lớn hay
nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm,… Trong thực tế lượng của sự vật thường
được xác định bởi những đơn vị đo lượng cụ thể như vận tốc của ánh sáng là 300.000 km trong
một giây; một phân tử nước bao gồm hai nguyên tử hydrô liên kết với một nguyên tử oxy,… bên
cạnh đó có những lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như trình độ nhận
thức tri của một người; ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một công dân,... trong những trường
hợp đó chúng ta chỉ có thể nhận thức được lượng của sự vật bằng con đường trừu tượng và khái
quát hoá.
Có những lượng biểu thị yếu tố kết cấu bên trong của sự vật [số lượng nguyên tử hợp
thành nguyên tố hoá học, số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội] có những lượng vạch ra
yếu tố quy định bên ngoài của sự vật [chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật].
Sự phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối.Điều này phụ thuộc vào
từng mối quan hệ cụ thể xác định.Có những tính quy định trong mối quan hệ này là chất của sự
2 vật, song trong mối quan hệ khác lại biểu thị lượng của sự vật và ngược lại.Chẳng hạn số sinh viên
học giỏi nhất định của một lớp sẽ nói lên chất lượng học tập của lớp đó.Điều này cũng có nghĩa là
dù số lượng cụ thể quy định thuần tuý về lượng, song số lượng ấy cũng có tính quy định về chất
của sự vật. 2 . Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất.
Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất và mặt lượng.Chúng tác
động qua lại lẫn nhau.Trong sự vật, quy định về lượng không bao giờ tồn tại nếu không có tính quy
định về chất và ngược lại.Sự thay đổi về lượng và về chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận động
và phát triển của sự vật.Nhưng sự thay đổi đó có quan hệ chặt chẽ với nhau chứ không tách rời
nhau.Sự thay đổi về lượng của sự vật có ảnh hưởng sự thay đổi về chất của sự vật và ngược lại, sự
thay đổi về chất của sự vật tương ứng với thay đổi về lượng của nó.Sự thay đổi về lượng có thể
làm thay đổi ngay lập tức về chất của sự vật.
Mặt khác, có thể trong một giới hạn nhất định khi lượng của sự vật thay đổi , nhưng chất
của sự vật chưa thay đổi cơ bản. Chẳng hạn khi ta nung một thỏi thép đặc biệt ở trong lò, nhiệt độ
của lò nung có thể lên tới hàng trăm độ, thậm chí có thể lên tới hàng ngàn độ, song thỏi thép vẫn
ở trạng thái rắn chứ chưa chuyển sang trạng thái lỏng. Khi lượng của sự vật được tích luỹ vượt quá
giới hạn nhất định gọi là độ, thì chất cũ sẽ mất đi, chất mới sẽ thay thế chất cũ.Chất mới ấy tương
ứng với lượng mới tích luỹ được.
Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng
của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy.
Độ là mối liên hệ giữa lượng và chất của sự vật ở đó thể hiện sự thống nhất giữa lượng và
chất của sự vật, trong đó sự vật vẫn còn là nó chứ chưa biến thành cái khác. Dưới áp suất bình
thường của không khí, sự tăng hoặc sự giảm của nhiệt độ trong khoảng từ 00C đến 1000 C, nước
nguyên chất vẫn ở trạng thái lỏng. Nếu nhiệt độ của nước giảm xuống dưới 00 nước ở thể lỏng
chuyển thành thể rắn và nếu tăng nhiệt độ từ 1000 C trở lên, nước nguyên chất thể lỏng chuyển
dần sang trạng thái hơi . Nước nguyên chất cũng thay đổi về chất .Tại điểm giới hạn như 00 C và
1000 C ở thí dụ trên gọi là điểm nút. Tại điểm đó sự thay đổi về lượng cũng đã đủ làm thay đổi về
chất của sự vật.
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ
làm thay đổi về chất của sự vật.Sự vật tích luỹ đủ về lượng tại điểm nút sẽ làm cho chất mới của nó
ra đời. Lượng mới và chất mới của sự vật thống nhất với nhau tạo nên độ mới và điểm nút mới của
sự vật ấy .Quá trình đó liên tiếp diễn ra trong sự vật và vì thế sự vật luôn phát triển chừng nào nó
còn tồn tại.
Chất của sự vật thay đổi do lượng của nó thay đổi trước đó gây ra gọi là bước nhảy.
Vậy bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự vật do sự thay đổi
về lượng của sự vật trước đó gây nên.
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một
giai đoạn phát triển mới.Nói là sự gián đoạn trong quá trình vận động và phát triển liên tục của sự
vật.Có thể nói, trong quá trình phát triển của sự vật, sự gián đoạn là tiền đề cho sự liên tục và sự
liên tục là sự kế tiếp của hàng loạt sự gián đoạn.
Như vậy sự phát triển của bất cứ của sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích luỹ về lượng trong
độ nhất định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất. Song điểm nút của quá trình ấy
không cố định mà có thể có những thay đổi do tác động của những điều kiện khách quan và chủ
quan quy định. Chẳng hạn thời gian để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá ở mỗi nước là khác 3 nhau.Có những nước mất 150 năm, có những nước mất 60 năm nhưng cũng có những nước chỉ
mất 15 năm.
Chất mới của sự vật chỉ có thể xuất hiện khi sự thay đổi về lượng của nó đạt tới điểm
nút.Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng đã thay đổi của sự vật.Chất mới ấy có thể
làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật.
Vd: khi sinh viên vượt qua điểm nút là kỳ thi tốt nghiệp, tức là thực hiện bước nhảy, sinh
viên sẽ được nhận bằng cử nhân. Trình độ văn hoá của sinh viên đã cao hơn trước và sẽ tạo điều
kiện cho họ thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ tri thức, giúp họ tiến lên trình độ cao hơn. Cũng
giống như vậy khi nước ở trạng thái lỏng sang trạng thái hơi thì vận tốc của các phân tử nước tăng
hơn, thể tích của nước ở trạng thái hơi sẽ lớn hơn thể tích của nó ở trạng thái lỏng với cùng một
khối lượng tính chất hoà tan một số chất tan của nó cũng sẽ khác đi,..v..v..
Các hình thức cơ bản của bước nhảy. Bước nhảy để chuyển hoá về chất của sự vật hết sức
đa dạng và phong phú với những hình thức rất khác nhau.Những hình thức bước nhảy khác nhau
được quyết định bởi bản thân của sự vật, bởi những điều kiện cụ thể trong đó sự vật thực hiện
bước nhảy.Chúng ta nghiên cứu một số hình thức cơ bản của bước nhảy.Dựa trên nhịp điệu thực
hiện bước nhảy của bản thân sự vật có thể phân chia thành bước nhảy đột biến và bước nhảy dần
dần.
Bước nhảy đột biến là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn làm thay
đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.Chẳng hạn, khối lượng Uranium 235[Ur 235]được
tăng đến khối lượng tới hạn thì sẽ xảy ra vụ nổ nguyên tử trong chốc lát.
Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách tích luỹ dần
dần những nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần dần mất đi.Chẳng hạn quá
trình chuyển hoá từ vượn thành người diễn ra rất lâu dài, hàng vạn năm.Quá trình cách mạng đưa
nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lâu dài qua
nhiều bước nhảy dần dần.Quá trình thực hiện bước nhảy dần dần của sự vật là một quá trình phức
tạp, trong đó có cả sự tuần tự lẫn những bước nhảy diễn ra ở từng bộ phận của sự vật ấy.
Song cần lưu ý rằng bước nhảy dần dần khác với sự thay đổi dần dần về lượng của sự
vật.Bước nhảy dần dần là sự chuyển hoá dần dần từ chất này sang chất khác còn sự thay đổi dần
dần về lượng là sự tích luỹ liên tục về lượng để đến một giới hạn nhất định sẽ chuyển hoá về
chất.Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy toàn bộ, có bước nhảy cục
bộ.
Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các yếu tố cấu
thành sự vật.
Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của từng mặt, những yếu tố riêng lẻ của
sự vật.
Trong hiện thực, các sự vật có thuộc tính đa dạng, phong phú nên muốn thực hiện bước
nhảy toàn bộ phải thông qua những bước nhảy cục bộ. Sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
đang diễn ra từng bước nhảy cục bộ để thực hiện bước nhảy toàn bộ, tức là chúng ta đang thực
hiện những bước nhảy cục bộ ở lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực xã hội và lĩnh vực tinh
thần xã hội để đi đến bước nhảy toàn bộ - xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
Khi xem xét sự thay đổi về chất của xã hội người ta còn phân chia sự thay đổi đó thành
thay đổi có tính chất cách mạng và thay đổi có tính chất tiến hoá.Cách mạng là sự thay đổi trong
đó chất của sự vật biến đổi căn bản, không phụ thuộc vào hình thức biến đổi của nó. Tiến hoá là sự
thay đổi về lượng với những biến đổi nhất định về chất không cơ bản của sự vật.Song cần lưu ý 4 rằng, chỉ có sự thay đổi căn bản về chất mang tính tiến bộ, đi lên mới là cách mạng. Nếu sự thay
đổi cơ bản về chất làm cho xã hội thụt lùi thì lại là phản cách mạng.
Từ những sự phân tích ở trên có thể rút ra nội dung của quy luật chuyển hoá từ những sự
thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại như sau: Mọi sự vật đều là sự
thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng trong khuôn khổ của độ tới điểm nút
sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời tác động trở lại sự
thay đổi của lượngmới. Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát
triển, biến đổi .
3 . Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức , giữa thực tại và tư duy.
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
thì vật chất là cái có trước và ý thức là cái có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý
thức.Song ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người; vì
vậy ta cần phải tôn trọng hiện thực khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của
bản thân.Tôn trọng khách quan là tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các quy luật tự
nhiên, xã hội, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình. Nếu chỉ lấy ý chí áp
đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ là mắc căn bệnh chủ quan duy ý chí.
Trong quá trình học tập của sinh viên, nếu không có những nhận định, đánh giá đúng về
chương trình học, không biết tự đánh giá bản thân, lực học của cá nhânmình so với mặt bằng
chung thì sinh viên dễ bị rơi vào tình trạng trì trệ, dễ mắc bệnh chủ quan, tự kiêu, tự coi mình là
giỏi, là tốt là hoàn hảo mà không bết rằng thực tế thì mìnhcòn có quá nhiều khiếm khuyết. Vì thế
mà sự nhận xét đúng đắn việc tìm hiểu thông tin, cập nhật những hiểu biết, những điều mới,
những tri thức sẽ giúp cho sinh viên tránh khỏi căn bệnh cố hữu này. Ý thức con người có thể tác
động ngược trở lại vật chất thông qua các hoạt động vật chất. Vậy nên con người cần phát huy
tính năng động chủ quan, phát huy vai trò của ý thức, của nhân tố con người. bản than của ý thức
không trực tiếp tác động lên vật chất mà nú phải thông qua những hoạt động của con người trong
thực tiễn. Sự tác động của ý thức lên vật chất thông qua các giai đoạn bắt đầu từ khâu nhận thức
quy luật khách quan, vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan đó, phải có ý chí, phải có phương
pháp học tập. Ta cần phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức phát huy vai trò tích cực đồng
thời khắc phục bệnh trì trệ, tính thụ động ỷ lại, thái độ tiêu cực ngồi chờ trong quá trình đổi mới
hiện nay. Liên hệ với sinh viên thì tính năng động sáng tạo được đặt lên hàng đầu, nó không chỉ
phản ánh tình trạng học tập mà nó còn là mức thang đánh giá chính xác năng lực tư duy của mỗi
cá nhân. Khi nói tới sinh viên là chúng ta thường ca ngợi tính năng động sáng tạo, ý chí, lòng nhiệt
thành và những hoài bão lớn lao. Thật vậy tất cả những phẩm chất đó đều nhờ vào tính năng
động, chủ quan trong ý thức mỗi con người.
Ý thức không chỉ giúp phát huy vai trò nhân tố con người mà nó còn giúp sinh viên tránh
căn bệnh ỷ lại, chủ quan thiếu ý chí thụ động trong quá trình học tập. Điều đó rất nguy hiểm đặc
biệt là trong xu thế hội nhập và phát triển không ngừng của thế giới như hiện nay. 3. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi
về chất và ngược lại có thể rút ra các kết luận có ý nghĩa phương pháp luận sau đây: Sự vận động
5 và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần dần về lượng đến một giới hạn
nhất định thực hiện bước nhảy để chuyển về chất. Do đó trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn chúng ta phải biết từng bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật.
Trong hoạt động của mình, ông cha ta đã rút ra những tư tưởng sâu sắc như “ tích tiểu thành đại”,
“năng nhặt chặt bị”, “góp gió thành bão”…. Những việc làm vĩ đại của con người bao giờ cũng là sự
tổng hợp của những việc làm bình thường của con người đó. Phương pháp này giúp cho chúng ta
tránh được tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng,” đốt cháy giai đoạn” muốn thực hiện những
bước nhảy liên tục.
Quy luật của tự nhiên và quy luật của xã hội đều có tính khách quan.Song quy luật của tự
nhiên diễn ra một cách tự phát, còn quy luật của xã hội chỉ được thực hiện thông qua ý thức của
con người. Do đó, khi đã tích luỹ đủ về số lượng phải có quyết tâm để tiến hành bước nhảy, phải
kịp thời chuyển những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ những thay đổi
mang tính chất tiến hoá sang những thay đổi mang tính chất cách mạng. Chỉ có như vậy chúng ta
mới khắc phục được tư tưởng bảo thủ, trì trệ,”hữu khuynh” thường được biểu hiện ở chỗ coi sự
phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về lượng.
Trong hoạt động thực tiễn, chúng ta còn phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức của
bước nhảy.Sự vận dụng linh hoạt đó sẽ tuỳ thuộc vào việc phân tích đúng đắn những điều kiện
khách quan và những nhân tố chủ quan cũng như sự hiểu biết sâu sắc về quy luật này. Tùy theo
từng trường hợp cụ thể, từng điều kiện cụ thể hay quan hệ cụ thể chúng ta lựa chọn hình thức
bước nhảy phù hợp để đạt tới chất lượng và hiệu quả hoạt động của mình. Song con người và đời
sống xã hội của con người rất đa dạng phong phú do rất nhiều yếu tố cấu thành, do đó để thực
hiện bước nhảy toàn bộ, trước hết, phải thực hiện những bước nhảy cục bộ làm thay đổi về chất
của từng yếu tố.
Sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa
các yếu tố tạo thành sự vật. Do đó, trong hoạt động của mình chúng ta phải biết cách tác động vào
phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật, kết
cấu của sự vật đó. Chẳng hạn trên cơ sở hiểu biết đúng đắn về gen, con người có thể tác động vào
phương thức liên kết giữa các nhân tố tạo thành gen làm cho gen biến đổi.Trong một tập thể cơ
chế quản lý, lãnh đạo và quan hệ giữa các thành viên trong tập thể ấy thay đổi có tính chất toàn bộ
thì rất có thể làm cho tập thể đó vững mạnh. Phần II : Quan niệm về phong cách và phương pháp học tập và rèn luyện của sinh viên
Bước vào trường Đại học tức là trở thành một sinh viên, một bộ phận đóng vai trò
quan trọng chủ chốt trong tương lai của đất nước.Đó là một vinh dự, một phần thưởng cao
quý dành cho những học sinh có tinh thần nhiệt tình, có ý chí quyết tâm trong những năm
học của phổ thông. Nhưng liệu sự nhiệt tình, ý chí quyết tâm trong thời phổ thông đó có
còn được phát huy và những phương pháp học tập có còn phù hợp với chúng ta khi ở trong
môi trường đại học hay không? Đó là những vấn đề hệ trọng có ảnh hưởng lớn đến kết quả
học tập của chúng ta.Bởi lẽ đó sinh viên cần phải dành nhiều thời gian để xem xét một cách
thận trọng và nghiêm túc ngay từ những năm đầu của khúa học.
1. Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thông và Đại học . 6 Quá trình chúng ta học tập tại phổ thông là nền móng để xây dựng trình độ học vấn
cho con người, là cơ sở để thiết lập một nền giáo dục đại học. Bởi vậy nhà trường phổ
thông và đại học có quan hệ mật thiết với nhau, nhưng vì mục tiêu, yêu cầu đào tạo, mỗi
cấp có mức độ khác nhau, do đó nhiệm vụ học tập của người học sinh phổ thông khác với
nhiệm vụ học tập và nghiên cứu của sinh viên.
Ở trường đại học sinh viên phải quan tâm đến các hình thức học tập: thí nghiệm,
thực nghiệm, bảo vệ đồ án, làm đề tài khoa học . . . tất cả những việc làm đó đều có những
yêu cầu mới và cao hơn nhiều so với cách học ở trường phổ thông. Ở đây có sự khác nhau
về bản chất chứ không chỉ là sự thay đổi về hình thức bởi vậy có thểnói sự chuyển đổi từ
phổ thông lên Đạihọc cũng giống như quá trình biến đổi từ lượng thành chất.Chính vì
vậy mà người sinh viên cần thay đổi nếp sống mới sao cho phù hợp hoàn cảnh hiện tại, phù
hợp với các yêu cầu của ngành giáo dục đối với Đại học.Chỉ khi nào làm được như vậy sinh
viên mới hi vọng đạt được những thành tích rực rỡ trong quá trình học tập và nghiên cứu
của mình.
2. Phong cách học của sinh viên phải được hiểu thế nào.
Nhiệm vụcủa một người sinh viên trường Đại học là phải học tập rèn luyện tu
dưỡng phấn đấu thành những người lao động tốt, những cán bộ công nhân viên chức góp
phần xây dựng và bảo vệ đất nước. Muốn làm tròn nhiệm vụ nặng nề ấy, ngay từ khi ngồi
trên ghế nhà trường mỗi sinh viên phải quán triệt sâu sắc quan điểm giáo dục của Đảng và
về công tác đào tạo cán bộ, phải thấu suốt mục tiêu đào tạo của trường mình học, có như
vậy mới xây dựng được phong cách và phương pháp học tập rèn luyện hợp lí.
Là những sinh viên, chúng ta phải biết cụ thể hóa những quan điểm giáo dục, đào
tạo của Đảng và nhà nước thành những nhiệm vụ thiết thực, những việc làm bổ ích, phải
biết vận dụng sáng tạo nó vào trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của người sinh
viên. Trước những yêu cầu to lớn đang đặt ra trong giai đoạn cách mạng hiện nay, mỗi sinh
viên cần có những suy nghĩ đầy đủ về chính trị và trách nhiệm của mình.Mỗi sinh viên cần
phải có đóng góp vào sự nghiệp cách mạng những gì có thể làm được ngay từ khi ngồi trên
ghế nhà trường. Ở đây cần phải hiểu rằng quá trình thực hiện các nhiệm vụphương hướng
cụ thể . Đối với học tập nghiên cứu cũng vậy , mỗi sinh viên phải tự đặt ra cho mình những
câu hỏi : “ học để làm gì?” , “ học để phục vụ ai?”. Xác định được mục đích học tập nghiên
cứu là hiểu được mình phải phấn đấu để trở thành con người như thế nào? Muốn thế người
sinh viên phải thường xuyên nâng cao trình độ nhận thức về tình hình, nhiệm vụ, nắm vững
yêu cầu của ngành giáo giục nhất là đối với bậc giáo dục Đại học cùng các vấn đề khác có
liên quan.
Hiện nay trong các nhà trường tình trạng sinh viên xác định mục tiêu phấn đấu một
cách chung chung, học cốt sao chỉ để qua các kì thi. Chính vì thế nên nhiều sinh viên vẫn
chưa tìm được phương pháp học tập tốt. Quả thật : “Nếu không có mục đích thì con người
không làm đượ gì cả và không thể làm nên cái vĩ đại nếu mục đích tầm thường”[Didiro].
Điều cần nhớ là việc xác định mục đích học tập nghiên cứu không chỉ diễn ra trong
giai đoạn mới vào trường , mà nú là một quá trình lâu dài.
“ Điều quan trọng không phải vị trí ta đang đứng mà là hướng ta đang đi”. Trong
quá trình học tập và nghiên cứu, nếu mỗi sinh viên đều xác định được một hướng đi cụ thể,
có mục đích đúng đắn thì đó là nhân tố quan trọng nhất để có thể đạt được thắng lợi. 7 2. Hình thành động cơ học tập và nghiên cứu.
Việc xác đinh mục đích học tập nghiên cứu có quan hệ chặt chẽ với việc xác định
động cơ học tập nghiên cứu. Bởi vì động cơ với tư cách là nguyênnhân của hành động đã
trở thành động lực bên trong có tác dụng thúc đẩy mọi sức mạnh tinh thần và vật chất của
con người hành động theo những tri thức và niềm tin sẵn có. Mặt khác động cơ với tư cách
là mục đích của hành động sẽ quy định chiều hướng của hành động, quy định thái độ của
con người đối với hành động của mình.
Xác định được động cơ học tập nghiên cứu là ý thức được nhiệm vụ của mình. Ở
các trường Cao đẳng, Đại học nếu sinh viên muốn học tốt thì phải có động cơ mạnh mẽ .
Khi xây dựng động cơ học tập nghiên cứu chúng ta cần chú ý đến đặc điểm tâm lí cá nhân
của bản thân và đặc điểm nghề nghiệp đang theo học.
Động cơ là cái thuộc về lĩnh vực tình cảm thầm kín.Nó được hình thành và phát
triển trog quá trình hoạt động nghề nghiệp.Bởi vậy, nếu lòng yêu nghề càng cao thì động cơ
học tập nghiên cứu càng trở nên sâu sắc.Có điều là sự biểu hiện của động cơ thường rất tế
nhị, nó không phơi bày một cách lộ liễu, cho nên muốn nắm bắt được nó thì phải đi sâu vào
lĩnh vựa tâm tư tình cảm con người.
Có thể khẳng định giá trị của việc xác định động cơ là ở chỗ nó có tính chất quyết
định nội dung, phương hướng và cả phương pháp học tập đúng đắn. Hiểu mình , hiểu việc
kết hợp với lòng tự tin là hoàn thành được một phần cơ bản của công việc định làm còn
chắc chắn rằng thiếu tự tin là nguyên nhân dẫn đến thất bại.
3. Phương pháp học tập của sinh viên.
Quá trình học tập ở đại học không phải chỉ bắt đầu ở giảng đường khi sinh viên
nghe thầy giáo giảng bài hoặc trao đổi tranh luận, Quá trình này chỉ thật sự bắt đầu khi sinh
viên chuẩn bị một cách tích cực các điều kiện cần thiết để tiếp cận môn học như: đọc trước
giáo trình, tìm tài liệu có liên quan. Sự chuẩn bị này càng trở nên hiệu quả hơn khi đi liền
với nó là một sự chuẩn bị về mặt tâm thế để có thể tiếp cận kiến thức một cách chủ động
sáng tạo. Với sự chuẩn bị tâm thế này, sinh viên có thể chủ động tự đặt trước cho mình một
số câu hỏi có liên quan đến nội dung được đặt trên lớp, thậm chí có thể tự tạo cho mình một
cái “ khung tri thức” để trên cơ sở đó có thể tiếp nhận bài học một cách hệ thống. Với cách
chuẩn bị tri thức mà sinh viên có được không phải là một tri thức được truyền đạt một chiều
từ phía người dạy mà còn do chính sinh viên tự tạo ra bằng cách chuẩn bị các điều kiện
thực tế và tâm thể thuận lợi cho sự tiếp nhận tri thức. Bởi vậy có thể nói rằng học là quá
trình “hợp tác” giữa người dạy và người học
Sự chuẩn bị nói trên sẽ được nâng cao hơn khi sinh viên biết tự tổ chức, sắp xếp quá
trình học tập của mình một cách có tổ chức và có hệ thống.
Trong khi làm việc chính là một quá trình học tập hiệu quả nhất bởi vậy trong các
buổi thực hành thì nghiệm sinh viên cũng phải làm việc một cách chăm chú và có ý thức.
Ngoài ra sinh viên phải biết cách tự suy nghĩ lại và biết cách lật ngược vấn đề
theo một cách khác. Khả năng này giúp cho sinh viên biết cách cải thiện điều kiện, phương
pháp pháp và kết quả học tập của mình. Về bản chất, tư duy đại họckhông phải là một thứ
tư duy đơn tuyển, một chiều mà đó chính là hình thức tư duy đa tuyển , phức hợp đòi hỏi
người đọc, người dạy, người nghiên cứu phải có tính sáng tạo cao, luôn biết cách lật ngược
vấn đề theo một cách khác, soi sáng vấn đề từ những khía cạnh chưa ai đề cập đến. 8 Giải lao, giải trí một hoạt động cũng quan trọng không kém so với học tập chính
khúa. Ai không biết cách nghỉ ngơi, giải trí thì cũng có thể xem như người đó không biết
cách học hoặc là có kết quả học tập không cao.Vậy phải hiểu vấn đề này như thế nào? Theo
tôi thì đó là những hoạt động thể dục thể thao, các phong trào do Đoàn sinh viên tổ chức và
một mặt nào đó thì đó là niềm vui trong học tập. Bên cạnh đó cần có những đề tài nghiên
cứu theo nhóm cho các sinh viên, qua đó hình thành và trau dồi khả năng làm việc theo
nhóm , phát huy năng lực nghiên cứu và trang bị thêm cho mình những kĩ năng tác nghiệp
về sau; qua việc làm này chúng ta có thể biến những tri thức lĩnh hội thành những sản phẩm
trí tuệ đích thực.
Ngoài ra nhà trưởng cần thiết lập quan hệ với các tổ chức, cơ quan đoàn thể, hiệp
hội để tạo cầu nối cho sinh viên được tiếp cận môi trường thực tế cũng như thu hút nguồn
đầu tư, hỗ trợ giáo dục.
Phần IV : Kết luận chung.
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi
về chất và ngược lại có thể rút ra một vài kết luận về việc học tập và rèn luyện của sinh viên trong
trườngĐại học như sau:
Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích lũy dần dần về
lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất và việc học tập của sinh
viên chúng ta cũng sẽ không thể nằm ngoài điều đó. Để có một tấm băng Đại học chúng ta phải
tích lũy đủ số lượng các học phần và để học phần có kết quả tốt chúng ta cần phải tích lỹ đủ sống
lượng đơn vị học trình của các môn học. Như vậy các kỳ thi có thể coi thời gian học là độ, các kỳ thi
là các điểm nút và kết quả kỳ thi đạt yêu cầu là bước nhảy, bởi kết quả kỳ thi tốt - bước nhảy là sự
kết thúc một giai đoạn tích lỹ tri thức trong quá trình học tập rèn luyện của chúng ta.
Do đó, trong hoạt động nhận thức, hoạt động học tập sinh viên phải biết từng bước tích
lũy về lượng [tri thức] để làm biến đổi về chất [Kết quả học tập] theo quy luật. Cũng như trong
hoạt động của mình ông cho ta chẳng thường có câu "tích tiểu thành đại". "năng nhặt, chặt bị".
Những việc làm vĩ đại của con người bao giờ cũng là sự tổng hợp của những việc làm bình
thường của con người đó. Quy luật này giúp chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan trong học tập
và trong hoạt động thực tiễn hằng ngày. 9 10 This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.
Video liên quan