Vai trò của nhà nước là gì

Lịch sử phát triển của nền kinh tế thị trường, xét ở một khía cạnh nhất định, đó chính là lịch sử của tranh luận về mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường. Trong cuộc tranh luận này đã hình thành các quan điểm, trường phái khác nhau. Trường phái kinh tế học cổ điển, với đại diện chính là Adam Smith, chủ trương thông qua phương thức cạnh tranh thị trường tự do để phân bố các nguồn lực, cho rằng nhà nước chỉ nên đóng vai trò là "người gác đêm”. Tuy nhiên, suy nghĩ về vai trò của thị trường tự do được xem lại và cho rằng sự can thiệp của Nhà nước là cần thiết khi cuộc khủng hoảng kinh tế bùng nổ nghiêm trọng những năm 20 của thế kỷ XX đã chỉ ra những khuyết tật của thị trường bộc lộ rõ rệt, tác động mạnh đến xu thế tăng trưởng.

Như vậy, việc xác định rõ vai trò của nhà nước và vai trò của thị trường trong mỗi giai đoạn phát triển là nội dung quan trọng và cũng là yêu cầu tất yếu của việc giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ nhà nước và thị trường là mối quan hệ cơ bản, quyết định hợp lý mối quan hệ này sẽ tạo cơ sở cho tăng trưởng bền vững và hiệu quả.

Điều rõ ràng là nhà nước và thị trường đều có vai trò quan trọng đối với việc huy động các nguồn lực và phối hợp các nguồn lực cho tăng trưởng. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn khác nhau vai trò của nhà nước và vai trò của thị trường cũng có những biến đổi. Sự biến đổi này gắn liền với biến đổi của chức năng nhà nước và thị trường.

Trong quá trình xác định vai trò của thị trường, của chủ ý thị trường có những ưu thế trong phân bổ và khai thác cho nguồn lực, thúc đẩy sản xuất phát triển. Cụ thể, cơ chế thị trường kích thích hoạt động của chủ thể kinh tế tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể kinh tế hoạt động tự do; từ đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động, có hiệu quả. Sự tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất (tổng cung) với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội (tổng cầu). Nhờ đó có thể thỏa mãn tốt nhu cầu tiêu dùng cá nhân về hàng vạn sản phẩm khác nhau. Nhiệm vụ này nếu để nhà nước làm sẽ phải thực hiện một số công việc rất lớn, có khi không thực hiện được và đòi hỏi chi phí cao trong quá trình ra các quyết định. Cơ chế thị trường kích thích đổi mới kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất. Sức ép của cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm chi phí sản xuất cá biệt đến mức tối thiếu bằng cách áp dụng những phương pháp sản xuất tốt nhất như không ngừng đổi mới kỹ thuật - công nghệ sản xuất, đổi mới sản phẩm, đổi mới tổ chức sản xuất và quản lý kinh doanh, nâng cao hiệu quả. Cơ chế thị trường thực hiện phân bố các nguồn lực kinh tế một cách tối ưu. Trong nền kinh tế thị trường, việc lưu động, di chuyển, phân phối các yếu tố sản xuất, vốn đều tuân theo nguyên tắc của thị trường, chúng sẽ chuyển đến nơi được sử dụng với hiệu quả cao nhất, do đó các nguồn lực kinh tế được phân bố một cách tối ưu. Và điều đáng chú ý là, sự điều tiết của cơ chế thị trường mềm dẻo hơn sự điều chỉnh của cơ quan nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn trước những điều kiện kinh tế biến đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất xã hội với nhu cầu xã hội. Tuy nhiên, việc xác định vai trò của thị trường cũng phải căn cứ vào sự phát triển cụ thể của thị trường. Điểm cần lưu ý là thị trường không phải vạn năng, cũng có những hạn chế và thất bại. Những thất bại của thị trường là tình huống, trong đó điểm cân bằng trong các thị trường tự do cạnh tranh không đạt được sự phân bố hiệu quả, tức là ngăn cản bàn tay vô hình phân bổ các nguồn lực có hiệu quả. Nói cách khác, thất bại của thị trường là những trường hợp trong đó thị trường tự do cạnh tranh không thể sản xuất ra hàng hóa - dịch vụ như xã hội mong muốn. Những thất bại của thị trường chính là cơ sở để nhà nước can thiệp vào nền kinh tế nhằm phát huy tính ưu việt và hạn chế mặt trái của thị trường.

Trong khi xác định vai trò của nhà nước cũng lại cần tránh khuynh hướng mở rộng vai trò của nhà nước. Nhà nước nên tập trung vào khắc phục khuyết tật của thị trường, trên các khía cạnh như:

Thứ nhất, xây dựng pháp luật, các quy định và quy chế điều tiết nhằm tạo nên một môi trường thuận lợi và hành lang an toàn cho sự phát triển có hiệu quả của các hoạt động kinh tế.

Thứ hai, tập trung vào ổn định và cải thiện các hoạt động kinh tế thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô như thuế, tài chính - tiền tệ, lãi suất, Từ đó hạn chế biến độ dao động chu kỳ kinh doanh, hạn chế thất nghiệp, lạm phát...

Thứ ba, thông qua các công cụ điều tiết để tác động đến sự phân bổ nguồn lực.

Thứ tư, thông qua quy hoạch và tổ chức thu hút các nguồn đầu tư vào kết cấu hạ tầng; xây dựng các chính sách, các chương trình tác động đến khâu phân phối lại thu nhập nhằm bảo đảm công bằng xã hội.

Việc xác định vai trò của nhà nước và thị trường trong mỗi giai đoạn phát triển cần căn cứ cả vào sự phát triển của thị trường cũng như năng lực của nhà nước. Không nên quá máy móc là việc của nhà nước hay của thị trường. Một khi thị trường còn chưa phát triển, nhà nước cần tạo lập môi trường và khuyến khích thị trường phát triển.

Trong rất nhiều trường hợp nhà nước không có bất cứ lợi thể nào so với thị trường để khắc phục các khiếm khuyết. Về thông tin, rất nhiều trường hợp nhà nước có ít thông tin hơn thị trường và dẫn đến các chính sách không phù hợp. Nhất là tại các nước đang phát triển, hệ thống cơ sở dữ liệu rất nghèo nàn và sự minh bạch hóa còn thấp, nhà nước có rủi ro cao do các thông tin nghèo nàn hoặc phiến diện do một số nhóm lợi ích cung cấp.

Về quản trị nhà nước cũng có nhiều hạn chế hơn. Các vị trí quản lý nhà nước thường theo nhiệm kỳ bị sức ép đáng kể để có kết quả trong ngắn hạn và nhiều khi không đủ thời gian để theo đuổi một chính sách dài hơi bền vững. Một hạn chế nữa là trong hệ thống quản lý nhà nước, kể cả ở các nước phát triển, thường thiếu công cụ đánh giá hiệu quả công việc dẫn đến việc thực hiện công việc mang nặng tính đối phó.

Vai trò đúng mức của nhà nước trong các trường hợp không có lợi thế dường như là hỗ trợ những nguồn lực để thị trường tự xử lý các tồn tại. Chẳng hạn, thay vì chỉ định các ngân hàng cho các doanh nghiệp vay, trong khi nhà nước không có thông tin tốt hơn về khả năng kinh doanh/trả nợ của các doanh nghiệp, nguồn lực nên tập trung vào các công cụ giải quyết giao tiếp thông tin gia doanh nghiệp và ngân hàng. Chính vì vậy, cần cân nhắc kỳ, nếu không có sự can thiệp của nhà nước để giải quyết một số vấn đề của thị trường có thể là nguyên nhân này sinh các vấn đề khác, thậm chí trong một số trường hợp là các vấn đề nghiêm trọng hơn.

Việc xác định vai trò can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế dù đã được nghiên cứu kỹ hoặc đã từng thực hiện ở nước khác vẫn có thể có những tác động ngoài mong muốn. Cách làm đúng đắn là thực hiện trong các dự án thí điểm, đánh giá tác động tiến hành những chỉnh lý cần thiết trước khi thực hiện trên quy mô lớn. Cập nhật thường xuyên các tác động trong quá trình thực hiện.

Việc ban hành các chính sách cần thực hiện trên cơ sở các định chế đã được xây dựng. Ngoài các định chế được xây dựng từ văn bản quy phạm pháp luật, cần coi trọng và phát triển các định chế tích cực có nguồn gốc lịch sử hoặc truyền thống văn hóa lâu đời.

Như vậy, để xác định vai trò đúng mức của nhà nước trong một nền kinh tế, một nguyên tắc có thể đúng là nhà nước chỉ cần can thiệp trong các trường hợp thị trường thất bại. Cần chú ý đặc biệt các trường hợp độc quyền quản lý không hiệu quả đang làm tổn hại nghiêm trọng đến nguồn lực của đất nước. Các can thiệp cần đúng mức, có cân nhắc những hạn chế của quản lý nhà nước và bao gồm cả các biện pháp cần thiết đối với những ảnh hưởng tiêu cực có thể. Đồng thời hết sức cẩn trọng trong cách thực hiện.