Xét nghiệm viêm gan B cho bà bầu ở đâu

Viêm gan virus là nguyên nhân phổ biến dẫn đến tổn thương gan trong thai kỳ. Mắc các loại viêm gan virus trong khi mang thai có thể dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm như: sinh non, dọa sảy thai hoặc tăng nguy cơ tử vong cho cả mẹ và con – BS.CKI Huỳnh Văn Trung cho biết.

Phụ nữ mang thai được xem như một tình trạng suy giảm miễn dịch . Do đó, nếu trong giai đoạn này, người mẹ bị nhiễm virus viêm gan sẽ gây ra những tác động cho cả bản thân và thai nhi. Những ảnh hưởng do virus viêm gan gây ra trên người mẹ và trên thai nhi khác nhau, tùy thuộc vào loại virus gây viêm gan. Hiện tại, mới chỉ có vaccine chích ngừa dành cho viêm gan A và B. Do đó, việc chủ động phòng ngừa và tầm soát các loại bệnh viêm gan virus trong thai kỳ có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ phụ nữ mang thai và thai nhi trước các loại virus viêm gan nguy hiểm.

Mắc các loại viêm gan virus trong khi mang thai có thể dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm.

Virus viêm gan A là một loại virus thuộc họ Picornaviridae. Thời gian ủ bệnh trung bình của bệnh viêm gan A là 30 ngày. Virus viêm gan A có nồng độ cao trong phân, nước bọt.

Virus viêm gan A chủ yếu lây truyền qua đường phân – miệng và rất phổ biến ở các nước đang phát triển, nơi có điều kiện vệ sinh kém, ô nhiễm thực phẩm và nước. Virus viêm gan A có thể lây truyền qua đường tình dục nhưng hiếm khi lây qua đường máu.

Phụ nữ mang thai bị nhiễm viêm gan A hiếm khi lây truyền cho thai nhi. Tuy nhiên, người mẹ có thể gặp các biến chứng trong thai kỳ như ối vỡ non, nhau bong non, hoặc sinh non trong tam cá nguyệt thứ hai.

Virus viêm gan B [HBV] là một loại virus thuộc họ Hepadnavirus.

Việc nhiễm virus viêm gan B cấp hoặc mãn tính không làm ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi. Phụ nữ mang thai bị viêm gan B không được điều trị, khả năng lây truyền từ mẹ sang con trên 90%. Đặc biệt nếu mẹ dương tính với kháng nguyên HbeAg và định lượng virus viêm gan B [HBV DNA] ở mức cao thì nguy cơ lây truyền sang con sẽ cao hơn. HBV DNA cao cũng là nguyên nhân chính khiến cho việc phòng ngừa chủ động ở trẻ sơ sinh thất bại. Vì vậy, người mẹ có định lượng virus viêm gan B cao được khuyến cáo sử dụng thuốc kháng virus trong giai đoạn 3 tháng cuối thai kỳ.

Ngoài ra, có 90% trẻ bị nhiễm virus viêm gan B từ mẹ trong giai đoạn chu sinh [giai đoạn từ tuần thứ 28 đến hết tuần đầu sau sinh] sẽ tiến triển thành viêm gan mãn tính. Do đó, tất cả phụ nữ mang thai đều được khuyến cáo nên tầm soát viêm gan B.

Virus viêm gan C [HCV] là một loại virus RNA. Quá trình nhiễm viêm gan C cấp tính xảy ra trong 6 tháng đầu tiên sau khi thai phụ tiếp xúc với nguồn bệnh. Nếu thai phụ không được loại bỏ virus viêm gan C, sau 6 tháng virus sẽ tiến triển thành bệnh viêm gan C mạn.

Viêm gan C mạn tính là nguyên nhân chính gây ra xơ gan và ung thư biểu mô tế bào gan trên toàn thế giới. Một trong các phương thức lây truyền của virus viêm gan C là qua đường từ mẹ sang con. Đây cũng là nguyên nhân hàng đầu gây nhiễm HCV ở trẻ em.

Đối với người mẹ mang thai dương tính với HCV thì khả năng lây truyền cho con trong giai đoạn chu sinh là 5%. Tỷ lệ này có thể cao hơn nếu người mẹ đồng thời nhiễm HIV hoặc có định lượng virus viêm gan C HCV RNA ở mức cao.

Với tỉ lệ 60% – 80% số trẻ bị nhiễm viêm gan C lây truyền từ mẹ sẽ phát triển thành mãn tính khi trưởng thành. Vì vậy, phụ nữ trước khi mang thai được khuyến cáo nên tầm soát viêm gan C nếu có kế hoạch mang thai.

Virus viêm gan E [HEV] là một loại virus họ Hepeviridae và chi Orthohepeviurs. Có khoảng 7 kiểu gen của virus viêm gan E và kiểu gen 1-4 có ảnh hưởng đến con người.

Đường lây truyền chính của virus viêm gan E là đường phân-miệng, rất hiếm khi lây qua đường quan hệ tình dục. Bệnh này khá phổ biến ở các nước đang phát triển với điều kiện vệ sinh kém. Mặc dù viêm gan E là một bệnh lý lành tính và thường có khả năng tự khỏi, nhưng khi xảy ra ở phụ nữ mang thai lại gây ra những biến chứng nguy hiểm. Trong giai đoạn 3 tháng cuối thai kỳ, thai phụ nếu bị nhiễm virus viêm gan E có thể chịu tổn thương gan nghiêm trọng hoặc suy gan cấp đặc biệt, thậm chí là tiền sản giật, xuất huyết và tử vong [16% – 20%].​​

Phụ nữ mang thai trong tam cá nguyệt thứ 2 và thứ 3 hầu hết bị ảnh hưởng khi có dịch viêm gan E

Viêm gan do virus Herpes simplex [HSV] ở phụ nữ mang thai là một tình trạng hiếm gặp. HSV lây truyền thông qua việc tiếp xúc với các vết loét của người bị nhiễm HSV hoặc qua đường tình dục. Phụ nữ mang thai bị nhiễm HSV có nguy cơ cao lây truyền cho thai nhi. Hầu hết các trường hợp viêm gan do HSV nhanh chóng tiến triển thành suy gan tối cấp.

Viêm gan siêu vi cấp tính trong thai kỳ có thể không có triệu chứng hoặc dấu hiệu lâm sàng nhẹ như vàng da, buồn nôn, chán ăn, đau bụng hoặc khó chịu, mệt mỏi, khó chịu, đau cơ và nước tiểu sẫm màu. Các triệu chứng lâm sàng này không thể chỉ rõ được là do loại virus viêm gan nào gây ra.

Các xét nghiệm đánh giá chức năng gan là một trong những xét nghiệm đầu tiên được đề nghị để kiểm tra chức năng của gan, có thể kể đến như AST, ALT, ALP, GGT và một vài xét nghiệm khác phụ thuộc vào các triệu chứng của thai phụ.

Ngoài ra, để xác định chính xác loại virus viêm gan cũng như nồng độ của virus, các bác sĩ nội tiêu hóa – gan mật sẽ đề nghị thêm một số xét nghiệm chuyên sâu:

    • Viêm gan A: Viêm gan A được chẩn đoán bằng xét nghiệm máu tìm kháng thể immunoglobulin M đối với virus viêm gan A [anti-HAV IgM] ở phụ nữ mang thai.
    • Bệnh viêm gan B: Xét nghiệm huyết thanh tìm kháng nguyên bề mặt viêm gan B [HBsAg] là cách chính để xác định HBV cho phụ nữ mang thai. Ủy ban Tư vấn về Thực hành Tiêm chủng [ACIP] Hoa Kỳ khuyến cáo, tất cả phụ nữ mang thai cần được xét nghiệm HBsAg trong mỗi lần mang thai.
    • Viêm gan C: Nếu nghi ngờ thai phụ nhiễm virus viêm gan C, bác sĩ sẽ chỉ định xét nghiệm kháng thể kháng virus C [anti HCV] hoặc đo nồng độ virus C trong máu [HCV RNA]
    • Viêm gan E: Đối với các trường hợp nghi ngờ nhiễm virus HEV, thai phụ sẽ được chỉ định làm xét nghiệm Anti-HEV IgM.
    • Viêm gan do virus Herpes simplex: Các công cụ chẩn đoán có thể hỗ trợ bác sĩ nhận biết viêm gan do HSV bao gồm: Huyết thanh học HSV, DNA HSV bằng phản ứng chuỗi polymerase [PCR]. Ngoài ra, phương pháp siêu âm cũng có thể hữu ích trong việc giúp bác sĩ loại trừ các chẩn đoán nghi ngờ khác.

Viêm gan virus trong thai kỳ có thể được điều trị bằng các phương pháp sau:

Sử dụng globulin miễn dịch viêm gan A cho phụ nữ mang thai có tiếp xúc với những người bị nhiễm virus viêm gan A cấp tính và trẻ sơ sinh bị nhiễm bệnh từ mẹ trong tam cá nguyệt thứ ba. Theo khuyến cáo của Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh [CDC] và Hiệp hội Nhi khoa Hoa Kỳ, trẻ sơ sinh phải được tiêm globulin miễn dịch viêm gan A trong vòng 48 giờ sau khi sinh.

Các nhà nghiên cứu cũng cho rằng lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ vượt trội hơn so với nguy cơ lây truyền virus viêm gan A qua đường sữa. Do đó, các bà mẹ được khuyến khích nuôi con bằng sữa mẹ ít nhất là trong 6 tháng đầu.

Người nhiễm virus viêm gan B trong giai đoạn thai kỳ sẽ được sử dụng thuốc kháng virus như Tenofovir từ giai đoạn tam cá nguyệt thứ 3. Tác dụng của thuốc này trong giai đoạn nuôi con bằng sữa mẹ hiện chưa đủ dữ liệu nghiên cứu, tuy nhiên người mẹ cần được theo dõi chặt chẽ trong vòng 6 tháng sau khi ngưng thuốc để tránh xảy ra tình trạng bùng phát virus.

Việc sử dụng phương pháp mổ lấy thai để giảm khả năng lây truyền của virus viêm gan B từ mẹ sang con không được khuyến cáo.

Trẻ sinh ra từ người mẹ viêm gan B sẽ được chích thêm huyết thanh kháng viêm gan B – gọi là HBIg [Hepatitis B Immune Globulin] trong vòng 12 -24 giờ đầu sau sinh ngoài mũi vaccine ngừa viêm gan B thông thường như các trẻ khác. Mục đích của việc chích hai mũi này là để tạo ra miễn dịch chủ động và miễn dịch thụ động cho trẻ, giúp giảm tỷ lệ lây truyền virus từ mẹ sang con.

ACOG và Hiệp hội Y học Bà mẹ-Thai nhi [SMFM] khuyến cáo, không nên mổ lấy thai chỉ để giảm lây truyền HCV trong thai kỳ.

Các thuốc điều trị viêm gan C hiện nay như Ribavirin và Interferon không được sử dụng trong giai đoạn thai kỳ vì các loại thuốc kháng virus này đều có khả năng gây quái thai. Do đó, trường hợp mẹ bị nhiễm virus viêm gan C trong giai đoạn thai kỳ sẽ không được sử dụng thuốc điều trị. Thuốc này cũng không được dùng khi nuôi con bằng sữa mẹ vì chưa có đủ nghiên cứu làm rõ ảnh hưởng của thuốc qua sữa mẹ.

Một số nghiên cứu ghi nhận, vaccine protein tái tổ hợp virus viêm gan E có hiệu quả trong việc giảm lây truyền HEV ở các nước đang phát triển. Tính năng này hiện không khả dụng ở các nước phát triển. Tính an toàn và hiệu quả trên phụ nữ mang thai chưa được nghiên cứu. Người mẹ nhiễm virus viêm gan E vẫn có thể nuôi con bằng sữa mẹ.

Việc điều trị viêm gan do HSV và tiên lượng sau đó phụ thuộc rất nhiều vào thời gian mắc bệnh. Bác sĩ có thể điều trị viêm gan do nhiễm virus herpes simplex bằng thuốc kháng acyclovir, Foscarnet hoặc Cidofovir. Liệu pháp kháng virus có thể thành công trong việc đảo ngược quá trình bệnh. Ngoài ra, phương pháp ghép gan cũng có thể là lựa chọn cuối cùng nếu việc điều trị bằng thuốc không đặc hiệu. Tuy nhiên, phương pháp ghép gan gây nguy cơ tử cho cao cho thai phụ.

Các biến chứng viêm gan virus thai kỳ có thể gặp phải ở từng loại virus gây viêm gan như sau:

    • Viêm gan A: Viêm gan A có liên quan đến các biến chứng thai kỳ, bao gồm các cơn co thắt sớm, tách nhau thai, vỡ ối sớm và chảy máu âm đạo. Biến chứng cổ trướng thai nhi và viêm phúc mạc phân su hiếm khi xảy ra.
    • Bệnh viêm gan B: Nhiễm HBV mạn tính trong thai kỳ có thể dẫn đến biến chứng nhau bong non, sinh non, tăng huyết áp thai kỳ và hạn chế sự phát triển của thai nhi. Ngoài ra, HBV mạn tính trong thai kỳ cũng có thể làm tăng nguy cơ tiến triển thành xơ gan, gây nguy cơ tử vong cho thai phụ.
    • Viêm gan C: Hạn chế sự phát triển của thai nhi, tổn thương đám rối thần kinh cánh tay, suy thai, u cephalohematoma, co giật ở trẻ sơ sinh và xuất huyết não thất là những biến chứng thai kỳ có thể xảy ra ở phụ nữ mang thai nhiễm HCV.
    • Viêm gan E: Các biến chứng sản khoa có thể bao gồm vỡ ối sớm, xuất huyết trước và sau sinh, đông máu nội mạch lan tỏa [DIC], thai chết lưu trong tử cung, sảy thai tự nhiên, thai chết lưu và các biến chứng của viêm gan tối cấp. Ngoài ra, trẻ được sinh ra từ mẹ nhiễm HEV còn dễ bị sinh non và nhẹ cân.
    • Viêm gan do virus herpes simplex HSV: Loại viêm gan này có thể gây nguy cơ tử vong ở thai phụ là 43%.
    • Phụ nữ nên tiêm vắc xin viêm gan A để phòng virus viêm gan A, tiêm vắc xin viêm gan B để phòng virus viêm gan B và D trong thai kỳ.
    • Đối với virus viêm gan C và E không có vắc xin, phụ nữ mang thai nên tránh đi du lịch đến các vùng lưu hành virus viêm gan E; Đồng thời nên tầm soát sức khỏe định kỳ để phát hiện các dấu hiệu phát triển bệnh để có phương pháp điều chỉnh sớm.
    • Nên ăn uống vệ sinh, quan hệ tình dục lành mạnh, tránh việc tiếp xúc với máu, vết thương của người khác hoặc các yếu tố làm tăng nguy cơ lây nhiễm virus.

Phụ nữ nên tiêm vắc xin viêm gan A để phòng virus viêm gan A, tiêm vắc xin viêm gan B để phòng virus viêm gan B và D trong thai kỳ

Viêm gan virus trong thai kỳ có liên quan đến các biến chứng thai kỳ và thai nhi. Do đó, việc tuân thủ các hướng dẫn sàng lọc là chìa khóa để giảm lây truyền viêm gan virus từ mẹ sang con – Bác sĩ Trung nhấn mạnh.

Video liên quan

Chủ Đề