1 năm được giảm án bao nhiêu lần năm 2024

Căn cứ khoản 4 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: "Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách".

Người chấp hành án treo có thể tham khảo thêm về điều kiện và mức rút ngắn thời gian thử thách của án treo được quy định cụ thể tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTC ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, trong đó khoản 2 Điều 8 quy định "Mỗi năm người được hưởng án treo chỉ được rút ngắn thời gian thử thách một lần từ 01 tháng đến 01 năm. Người được hưởng án treo có thể được rút ngắn thời gian thử thách nhiều lần, nhưng phải bảo đảm thực tế chấp hành thời gian thử thách là ba phần tư thời gian thử thách Tòa án đã tuyên".

Như vậy, trong trường hợp của bạn, nếu bạn đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách, có nhiều tiến bộ và được cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục đề nghị thì Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách. Mỗi năm được rút ngắn thời gian thử thách 01 lần từ 01 tháng đến 01 năm, có thể được rút ngắn thời gian thử thách nhiều lần, nhưng phải đảm bảo chấp hành đủ ba phần tư thời gian thử thách mà Tòa án đã tuyên.

(LSVN) - Anh trai tôi đang thuộc diện được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù. Vậy, hiện nay pháp luật quy định như thế nào về mức giảm thời hạn chấp hành án phạt tù? Bạn đọc P.L. hỏi.

1 năm được giảm án bao nhiêu lần năm 2024

Ảnh minh họa.

Điều 63 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định rõ về giảm mức hình phạt đã tuyên. Theo đó, người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định, có nhiều tiến bộ và đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt.

Thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là một phần ba thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù có thời hạn, 12 năm đối với tù chung thân.

Một người có thể được giảm nhiều lần, nhưng phải bảo đảm chấp hành được một phần hai mức hình phạt đã tuyên.

Người bị kết án tù chung thân, lần đầu được giảm xuống 30 năm tù và dù được giảm nhiều lần cũng phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 20 năm.

Trường hợp người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung thân thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu xuống 30 năm tù sau khi đã chấp hành được 15 năm tù và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành là 25 năm.

Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới ít nghiêm trọng do cố ý, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được một phần hai mức hình phạt chung.

Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được hai phần ba mức hình phạt chung hoặc trường hợp hình phạt chung là tù chung thân thì việc xét giảm án thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều này.

Đối với người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc người bị kết án tử hình thuộc trường hợp quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 3 Điều 40 của Bộ luật này thì thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm.

Giảm thời hạn chấp hành án phạt tù là chính sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng và Nhà nước, có tác dụng khuyến khích những người bị kết án phạt tù để họ quyết tâm học tập, cải tạo, hoàn lương để sớm có cơ hội tái hòa nhập cộng đồng, làm người có ích cho gia dình, xã hội. Thực hiện chính sách này, trong năm 2023, cả nước đã có 97.078 hồ sơ giảm thời hạn chấp hành án phạt tù được đề nghị. Để được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, người chấp hành án phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện cụ thể, hồ sơ đề nghị được lập, thẩm định và quyết định theo quy định tại Điều 63 BLHS; Thông tư liên tịch số 02/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BCA-BQP ngày 12/8/2021 của TANDTC, VKSNDTC, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng; Chương 2 của Thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/5/2013 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, TANDTC và VKSNDTC.

Trong thực tiễn, có những trường hợp người chấp hành án đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù nhưng bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật đang thi hành bị hủy theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm để điều tra, truy tố, xét xử lại, thì thời gian đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù này có được khấu trừ vào thời gian phải chấp hành án của bản án xét xử lại hay không thì chưa có quy định pháp luật cụ thể và còn gây nhiều tranh cãi.

Tình huống cụ thể:

Khoảng 02 giờ 30 phút, ngày 30 tháng 9 năm 2018, Tổ công tác của Công an tiến hành kiểm tra quán Karaoke VP thì tại phòng Vip 02 phát hiện và thu giữ chất bột màu trắng trên đĩa sứ (được niêm phong, ký hiệu A), 01 gói nylon, bên trong có một mảnh vỡ viên nén màu xanh nhạt (được niêm phong, ký hiệu B) và 06 đối tượng. Qua giám định, chất bột trong mẫu ký hiệu A là ma túy, có khối lượng 0,0667g, loại: Ketamine; các mảnh trong mẫu ký hiệu B là ma túy, có khối lượng 0,1956g, loại: MDMA.

Tại Bản án số 22/2020/HSST của TAND TP N ngày 14/02/2020 đã xử phạt các bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 249 BLHS. Trong đó, bị cáo Nguyễn Quang T bị xử phạt 1 năm 3 tháng tù, bị cáo Nguyễn Văn H bị xử phạt 1 năm tù. Ngày 30/3/2020, hai bị cáo T, H cùng đi chấp hành án. Trong quá trình chấp hành án, Nguyễn Quang T được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù là 4 tháng, Nguyễn Văn H được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù là 2 tháng 6 ngày. Ngày 24/01/2021, Nguyễn Văn H được Trại giam A cấp Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù. Ngày 28/2/2021, Nguyễn Quang T được Trại giam X cấp Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù.

Ngày 26/3/2021, Ủy ban Thẩm phán – TANDCC đã ban hành Quyết định giám đốc thẩm số 11/2021/QĐ-GĐT với nội dung: hủy Bản án 22/2020/HSST của TAND TP N và chuyển hồ sơ cho VKSNDCC để điều tra lại theo thủ tục chung.

Ngày 30/01/2023, VKSND TP N đã ban hành Cáo trạng truy tố Nguyễn Quang T và Nguyễn Văn H cùng về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 BLHS.

Ngày 08/8/2023, tại bản án số 220/2023/HSST, Tòa án TP N đã xét xử, quyết định: xử phạt Nguyễn Quang T 07 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam đi thi hành án, nhưng được trừ thời gian đã chấp hành án từ ngày 30/3/2020 đến ngày 28/2/2021; xử phạt Nguyễn Văn H 07 năm 03 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/5/2022, nhưng được trừ thời gian đã chấp hành án từ ngày 30/3/2020 đến ngày 24/01/2021.

Ngày 21/9/2023, Nguyễn Quang T, Nguyễn Văn H đi chấp hành án tại Trại giam Z.

Ngày 30/9/2023, Trại giam Z có văn bản đề nghị TAND TP N khấu trừ thời gian giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với Nguyễn Quang T, Nguyễn Văn H vì đã không xem xét, khấu trừ đối với thời gian đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù khi chấp hành án Bản án số 22/2020/HSST ngày 14/02/2020 tại phần quyết định hình phạt tại Bản án số 220/2023/HSST ngày 08/8/2023.

Hiện việc có khấu trừ thời gian được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với Nguyễn Quang T, Nguyễn Văn H còn có nhiều quan điểm trái ngược nhau.

Quan điểm thứ nhất:

Thời gian giảm thời hạn chấp hành án phạt tù 4 tháng đối với T, 2 tháng 6 ngày đối với H được trừ vào thời gian chấp hành án của bản án xét xử lại. Bởi lẽ, quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với H, T đã có hiệu lực pháp luật và phải được thi hành.

Quan điểm thứ hai:

Thời gian giảm thời hạn chấp hành án phạt tù 4 tháng đối với T, 2 tháng 6 ngày đối với H không được trừ vào thời gian chấp hành án của bản án xét xử lại. Về căn cứ pháp lý: tại khoản 1 Điều 38 BLHS, trong hình phạt tù có thời hạn thì thời hạn tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành án phạt tù. Tại khoản 1 Điều 56 BLHS, khi tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, đối với người đang chấp hành hình phạt tù mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước đó thì Tòa án quyết định hình phạt của tội đang xét xử, sau đó tổng hợp hình phạt theo quy định, thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt chung. Như vậy, hiện chưa có quy định pháp luật nào về việc trừ thời gian được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù vào thời gian chấp hành án phạt tù khi xét xử lại.

Một trong các điều kiện để được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù là “đã chấp hành án được một thời gian nhất định”, cụ thể là một phần ba thời hạn đối với hình phạt tù có thời hạn. Trong trường hợp này, khi giảm thời hạn chấp hành án phạt tù với H, T thì điều kiện chấp hành được 1/3 thời hạn hình phạt tù được xác định theo mức án phạt của bản án số 22/2020/HSST, cụ thể, mức án của T là 1 năm 3 tháng tù, mức án của H là 1 năm tù. Bản án 22/2020/HSST đã bị hủy để xét xử lại, mức hình phạt của bản án hiện đang có hiệu lực của T là 7 năm tù, của H là 7 năm 3 tháng tù. Do đó, H, T chưa đủ điều kiện để được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù theo bản án đang có hiệu lực pháp luật nên việc sử dụng thời gian được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù của bản án đã bị hủy để trừ vào thời gian chấp hành án là không có cơ sở.

Tác giả đồng ý với quan điểm thứ hai. Bởi lẽ, ngoài các lý do nêu trên, thì ý nghĩa của việc trừ thời gian tạm giữ, tạm giam, thời gian đã chấp hành án vào thời hạn chấp hành án phạt tù của người chấp hành án được xác định là thời gian người đó thực tế bị giam, giữ, cải tạo. Thời hạn được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, tuy được trừ vào thời hạn chấp hành án, nhưng thời gian này người chấp hành án không phải thi hành. Nhưng cũng không loại trừ việc các quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với Nguyễn Quang T, Nguyễn Văn H vẫn đang có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, theo tác giả thì khi quyết định giám đốc thẩm đã quyết định hủy bản án số 22/2020/HSST ngày 14/02/2020 của TAND TP N để điều tra lại thì cần thiết tiến hành thủ tục đề nghị tái thẩm theo quy định tại Điều 398, Điều 400 BLTTHS. Từ đó mới có căn cứ xem xét, giải quyết đối với các quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù của Nguyễn Quang T, Nguyễn Văn H nhằm giải quyết triệt để nội dung vụ án cũng như hậu quả pháp lý của việc giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.

Việc xem xét có khấu trừ thời gian giảm thời hạn chấp hành án phạt tù vào thời hạn chấp hành án khi xét xử lại bản án có ảnh hưởng trực tiếp tới quyền, lợi ích của người chấp hành án và thuộc trách nhiệm của người tiến hành tố tụng của bản án. Đây là vấn đề cấp bách nên các quy định liên quan đến vấn đề này cần sớm được sửa đổi, bổ sung để được áp dụng thống nhất.

*Phòng KTNV và Thi hành án – Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa

Tòa án nhân dân TP Nha Trang, Khánh Hòa xét xử vụ án ma túy - Ảnh: Minh Hữu


Thông báo số 135/TB-VKSTC của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Khoản 1 Điều 63 Bộ luật Hình sự: “Người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định, có nhiều tiến bộ và đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt.

Thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là một phần ba thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù có thời hạn, 12 năm đối với tù chung thân.”

Thời gian chấp hành án bao lâu thì được giảm án?

- Phạm nhân bị phạt tù ba năm trở xuống phải có ít nhất một quý gần nhất được xếp loại từ khá trở lên. Như vậy, điều kiện để giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù thì phạm nhân đã chấp hành được ít nhất một phần ba thời hạn đối với hình phạt tù từ ba mươi năm trở xuống hoặc mười hai năm đối với tù chung thân.

Giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù là gì?

Giảm thời hạn chấp hành án phạt tù là chính sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng và Nhà nước, có tác dụng khuyến khích những người bị kết án phạt tù để họ quyết tâm học tập, cải tạo, hoàn lương để sớm có cơ hội tái hòa nhập cộng đồng, làm người có ích cho gia dình, xã hội.

Giảm án tối đa là bao nhiêu?

Về mức giảm án tù, thì mỗi lần có thể xét giảm quá mức tối đa 3 năm và tổng số năm tháng tù được giảm có thể quá 1/2 số năm tháng tù đã ghi trong án được. Đối với án tù chung thân thì có thể hạ số năm phải ở tù xuống dưới 12 năm như 10 năm chẳng hạn.

Thời hạn cải tạo không giảm giữ tối đa bao nhiêu ngày?

Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội.