1 quan tiền ngày xưa bằng bao nhiêu đồng năm 2024

Tiền Đông Dương được chia thành các đơn vị piastre, cent/centime và sapèque. Một piastre bằng 100 cent. Một cent bằng 2 - 6 sapèque tùy theo từng giai đoạn. Mặt trước của các tờ tiền giấy hoặc tiền kim loại ghi bằng tiếng Pháp. Mặt sau ghi bằng chữ Hán, chữ Quốc ngữ, chữ Lào và chữ Khmer, song cũng có lúc chỉ ghi chữ Pháp.

Tiền kim loại gồm các mệnh giá: 1 piastre, 50 cent, 20 cent, 10 cent, 5 cent, 1 cent, 1/2 cent, 1/4 cent, 1/5 cent. Trên đồng tiền có các ký hiệu thể hiện những quy định rất quy củ và chặt chẽ như số lượng phát hành, nơi đúc. Tiền được đúc bằng đồng, bạc, niken, hợp kim ni ken - đồng, kẽm với nhiều hình dáng, kích thước, ký hiệu bảo an, họa tiết và rất đa dạng gắn liền với diễn biến lịch sử, văn hóa, kinh tế, chính trị của mỗi thời kỳ ứng với các đợt đúc/phát hành tiền.

Trước tiên là Tiền Nam Kỳ thuộc Pháp - Cochinchine [1875 - 1885], gồm hai loại bằng đồng và bạc.

Đồng Đông Dương từng là đơn vị tiền tệ chính thức được sản xuất và lưu hành tại Bán đảo Đông Dương. Ảnh tư liệu

Đồng tiền đầu tiên là tiền 1 cent 1875K vốn được đúc bằng đồng đỏ để phát hành tại Pháp nhưng lại được đem sang Việt Nam sử dụng. Tiếp đó là hai loại tiền dành riêng cho Nam Kỳ là tiền 1 cent Bách phân chi nhất và tiền 1/5 cent Sapèque [đồng hai xu điếu].

Tiền bằng bạc giai đoạn này có 4 loại mệnh giá khác nhau: 1 piastre [quy đổi là 100 cent], 50 cent, 20 cent và 10 cent.

Tiền Đông Dương - Indochine [1885 – 1945]: Từ 1885 đến 9/3/1945, BIC đưa vào lưu thông 210 mẫu đồng tiền kim loại Đông Dương Indochine, gồm 12 mệnh giá: 1 piastre, 50 cent, 20 cent, 10 cent, 5 cent, 1 cent, 1/2 cent, 1/4 cent, 1/5 cent, 1/6 cent và 1 tael, 1/2 tael dùng cho việc ngoại thương với nước khác. Ngoài 210 mẫu nói trên, trước thời điểm thành lập Liên bang Đông Dương [17/10/1887], BIC đã đưa vào lưu thông 6 mẫu đồng tiền kim loại Cochinchine với 5 mệnh giá khác nhau.

Tiền bằng đồng: Từ nửa cuối 1885 - 1895, phát hành 9 mẫu đồng xu Bách phân chi nhất 1 cent. Từ 1896 - 1939 phát hành 38 mẫu đồng xu Bách phân chi nhất.

Từ 1935 - 1940 phát hành 6 loại đồng xu mệnh giá 1/2 cent.

Từ 1887- 1902, tiếp tục cho phát hành tiền xu sapèque có mệnh giá 1/5 cent bằng đồng.

Tiền bằng bạc: Tiền 1 piastre: Ngày 28/12/1885, chính thức lưu hành đồng bạc piastre. Từ 1885 - 1931, cho phát hành 36 đồng kim loại bạc mệnh giá 1 piastre với nhiều trọng lượng khác nhau. Tiền 50 cent: Từ 1885 - 1936, phát hành 5 mẫu đồng xu bạc mệnh giá 50 cent vào các năm 1885, 1894, 1895, 1896 và 1936. Tiền 10 cent: Từ 1885 - 1937, phát hành 36 mẫu đồng xu bạc mệnh giá 10 cent.

Tiền niken và hợp kim niken - đồng: Năm 1939, phát hành 3 loại đồng xu hợp kim niken - đồng có mệnh giá 20 cent.

Từ 1939 - 1941, cho phát hành 5 loại đồng xu mệnh giá 10 cent bằng hợp kim niken - đồng.

Từ 1923 -1939 cho phát hành 8 loại đồng xu mệnh giá 5 cent bằng hợp kim niken - đồng.

Ngoài ra, trong các năm 1943 và 1944, còn phát hành 6 loại đồng xu “ngoại thương” bằng bạc với mệnh giá 1 tael và 1/2 tael nhằm mục đích trao đổi buôn bán giữa Bắc Kỳ với Lào, thường được dùng vào việc mua bán thuốc phiện giữa Việt Nam với Lào và Trung Quốc nên dân gian gọi là đồng xu Á phiện.

Tiền bằng kẽm, gồm có: Trong hai năm 1940 - 1941, phát hành 3 loại tiền xu bằng kẽm với mệnh giá 1 cent.

Trong hai năm 1939 - 1940, phát hành 2 loại tiền xu mệnh giá 1/2 cent bằng kẽm.

Từ 1942 - 1944, phát hành 3 loại đồng xu kẽm, mệnh giá 1/4 cent.

Từ 1902 - 1905, phát hành 1 loại đồng xu mệnh giá 1/6 cent bằng kẽm.

Tiền bằng nhôm: Năm 1943, phát hành loại đồng xu bằng nhôm mệnh giá 1 cent, 5 cent.

Tiền Đông Dương từ 1945 - 1954: Sau khi Pháp tái chiếm Sài Gòn, BIC khôi phục hoạt động ở Nam kỳ, tiếp tục phát hành tiền tệ trong vùng chiếm đóng. Trong thời gian này Cục Quản lý tiền tệ của Pháp và BIC đồng thời phát hành tiền kim loại và tiền giấy ở Đông Dương. Tiền kim loại gồm các mệnh giá 1 piastre và 50 cent bằng hợp kim niken - đồng; 20 cent, 10 cent và 5 cent bằng nhôm.

Tiền 1 piastre bằng hợp kim nike – đồng phát hành trong các năm 1946 và 1947. Tiền 20 cent bằng nhôm phát hành năm 1945. Tiền 10 cent bằng nhôm phát hành năm 1945. Tiền 5 cent bằng nhôm phát hành năm 1946.

Đồng bạc Đông Dương đã góp phần thúc đẩy phát triển nền tài chính/tiền tệ và giao thương của kinh tế Việt Nam thời thuộc Pháp. Mặt khác, nhìn từ hôm nay, có thể thấy nó còn lưu giữ nhiều trầm tích lịch sử, văn hóa gần một thế kỷ của Việt Nam và các nước Đông Dương thời Pháp thuộc.

Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, tiền tệ ra đời, trở thành vật trung gian trong trao đổi buôn bán, đóng vai trò quan trọng trong xã hội loài người.

Ở Việt Nam, tiền được đúc từ thời kỳ hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến Việt Nam độc lập thế kỷ thứ X. Mỗi triều đại đều lưu hành tiền mang niên hiệu của triều đại đó.

* Tiền thời Phong kiến:

Trưng bày tiền đồng Việt Nam thời phong kiến từ đồng tiến đầu tiên Thái Bình Hưng Bảo, thời Đinh, thế kỷ X. Đồng tiền cuối cùng Bảo Đại Thông Bảo, thời nhà Nguyễn, đầu thế kỷ XX.

* Đơn vị đo tiền:

Đơn vị đo tiền là thước. Thước 2 máng, thước 4 máng. 1 quan tiền = 600 đồng.

* Tiền giấy dưới thời nhà Trần.

Quang Thái năm thứ 9 [1396] bắt đầu phát [tiền giấy] Thông Bảo Hội Sao, in xong, ra lệnh cho người đến đổi, cứ 1 quan tiền đồng đổi lấy 1 quan 2 tiền giấy. Việt Nam là một trong những nơi phát kiến tiền giấy sớm, gần thời điểm với sự phát hành tiền giấy ở Trung Quốc.

* Tiền Đàng trong:

Tiền của các chúa Nguyễn [1558 – 1778], tiền triều Tây Sơn, tiền triều Nguyễn: Tiền này được lưu hành từ Quảng Nam trở vào miền Nam là tiền kẽm. Trong vô số tiền Đàng Trong có 6 đồng tiền qúy hiếm:

Thái Bình Nguyên Bảo

Thánh Hòa Nguyên Bảo

Hoàng Tống Hựu Bảo

Thiên Thông Nguyên Bảo

Vĩnh Hòa Nguyên Bảo

Tường Nguyên Thông Bảo…

* Tiền thưởng: Bên cạnh những đồng tiền lưu hành trong dân gian, triều đình còn cho đúc những đồng tiền lớn để thưởng cho các công thần.

Tiền thưởng Cảnh Hưng [Lê Trung Hưng 1740 – 1790], Cảnh Thịnh [Tây Sơn 1793 – 1801], Bảo Đại Bảo giám bằng vàng [1926 – 1945].

Đặc biệt năm Canh dần, Minh Mệnh năm thứ 11 [1830] mùa hạ, tháng 5 đúc tiền đồng lớn mỹ hiệu “Minh Mệnh thông bảo” 1 vạn đồng. Những đồng tiền này nặng khoảng 25 đến 30 gram. Một mặt có niên hiệu, mặt kia khắc những lời khen tặng bằng 4 hán hoặc 8 chữ Hán, có nguồn gốc từ Nho giáo hoặc văn học cổ Trung quốc. 20 hiệu 8 chữ, 10 hiệu 4 chữ:

Hiền hiền thân thân lạc lạc lợi lợi

Quốc thái dân an phong điều vũ thuận

Hoa phong tam chúc thiên bảo cửu như

Đắc vị đắc danh đắc lộc đắc thọ

Lục phủ khổng tu tam sự doãn trị

Phúc như đông hải thọ tỷ nam sơn

Vạn thọ du tạc vạn phúc du đồng

Thiên bất ái đạo địa bất ái bảo…

Nguyên hanh lợi trinh

Phúc lý tuy tương

Đế đức quảng vận

Lợi dụng hậu sinh

Trung hòa vị dục …

* Thoi bạc: Để trao đổi mua bán những tài sản lớn, phải sử dụng khối lượng tiền đồng, tiền kẽm không tiện, năm Gia Long thứ 11 [1812] bắt đầu đúc bạc đĩnh 1 lạng [1 lạng bạc = 2 quan 8 tiền], đĩnh bạc 10 lạng [ trên có khắc niên hiệu, năm đúc, nơi đúc].

* Tiền Đông Dương [1874 – 1954 ] Năm 1879, Quốc hội Pháp quyết định phát hành tiền cho khu vực Cochinchine, cùng năm đó, xưởng tiền tệ Paris thuộc Cục tiền tệ Pháp tổ chức chế tạo các loại tiền đồng và tiền bạc cho vùng Cochinchine, thông qua chi nhánh ngân hàng ở Sài Gòn phát hành ở vùng Nam kỳ. Tiền kim loại Cochinchine gồm tiền đồng và tiền bạc. Tiền bạc gồm có 4 loại: 1 Piastre, 50 cent, 20 cent, 10 cent. Tiền đồng gồm có hai loại: Đương nhị và Bách phân chi nhất

* Một số giấy tờ có liên quan đến tiền:

Giấy bán đất, năm Thái Đức thứ 10 – 1787.

Giấy thuế đất năm Minh Mệnh thứ 2 – 1821.

Văn bằng thưởng tiền tiểu hạng long văn bạc cho quan tổng Phạm Hữu Liên, quê xã Phú Tài, phủ Hàm Thuận, tỉnh Bình Thuận, năm Bảo Đại thứ 2 – 1927.

Văn bản thưởng “nhị hạng ngân tiền” cho ông Dương Văn Công, quê Sài Gòn, năm Bảo Đại thứ 2 – 1927.

Quyết định của chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam về việc phát hành tiền ngân hàng Việt Nam, thu đổi tiền “chánh quyền Sài Gòn” cũ.

* Tiền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa [1946 – 1975]:

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. ngày 31/1/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh cho phép in và phát hành giấy bạc Việt Nam [còn gọi là giấy bạc tài chính] để thay thế tiền giấy Đông Dương ngân hàng.

Đồng tiền vàng Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa đúc năm 1948: Bác Hồ tặng bà Nguyễn Thị Thập – chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, thành viên phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa dự hội nghị Quốc tế [1958 – 1959]

* Giấy bạc tài chính Việt Nam in tại Nam Bộ.

Nam bộ do cách xa chính phủ Trung ương, chưa có điều kiện để tổ chức và phát hành ngay tờ bạc tài chính Việt Nam. Giải pháp ban đầu chính quyền quyết định cho tạm dùng tiền Đông Dương ngân hàng có đóng dấu Ủy ban Kháng chiến Hành chính địa phương.

Ủy ban Hành chánh Nam Bộ ra lệnh cho các chính quyền địa phương đã giải phóng đóng dấu lên tờ giấy bạc Đông Dương [dấu của chính quyền Tỉnh, Quận, Làng, Xã…], đôi khi có ký tên vị chủ tịch, hoặc đóng dấu thêm hàng chữ khẩu hiệu tuyên truyền… để cho dân chúng sử dụng bình thường.

Để tiện lợi cho dân chúng, Ủy ban HCKC cho lập nhiều bàn giấy tại Ủy ban để dân mang tiền Đông Dương ngân hàng đến đóng dấu. Có nhiều nơi, Ủy ban cho dân dán một mẩu giấy nhỏ xác nhận có ký tên và đóng dấu lên tờ tiền, người dân gọi là đùa là Bạc đắp nền.

Cuối năm 1952, các loại tiền đóng dấu dần dần biến mất, một phần do mất mát, một phần do chính phủ Kháng chiến đã phát hành tiền nên thu hồi và tiêu hủy.

Ngày 01 tháng 11 năm 1947, sắc lệnh số 102/SL Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng quyết định của Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam bộ cho phép in giấy bạc Việt Nam tại Nam bộ. Ngoài ra còn có loại giấy bạc địa phương và phiếu tiếp tế, phiếu đổi chác, tín phiếu… lưu hành khu vực tỉnh, huyện, xã.

* Giấy bạc ngân hàng nhà nước Việt Nam.

Ngày 13 tháng 9 năm 1985, quyết định số 01 HĐBT/TĐ của Hội đồng Bộ trưởng về việc phát hành tiền ngân hàng mới, thu đổi tiền ngân hàng cũ.

Ngày 14 tháng 9 năm 1985, ngân hàng nhà nước Việt Nam được phép phát hành các loại tiền mới của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thu đổi các loại tiền cũ theo tỷ lệ 10 đồng tiền cũ đổi 1 đồng tiền mới.

Năm 2003 ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành tiền polymer mệnh giá 500.000, 200.000, 100.000, 50.000, 20.000… tiền xu: 5.000, 2000, 1000, 500, 200.

Lịch sử tiền tệ mang dấu ấn lịch sử Việt Nam. Sự thịnh suy của lịch sử dân tộc thể hiện rõ nét trong tiền tệ Việt Nam.

Chủ Đề