Bến phà linh cảm của nhạc sĩ nguyễn văn tý năm 2024

Vậy là Nguyễn Văn Tý đã gắn với những kỷ niệm tuổi trẻ của tôi như thế. Sau này, khi bắt đầu sáng tác âm nhạc, ông là một trong những người thầy của tôi và là người tôi vô cùng ngưỡng mộ, trước hết bởi sức thuyết phục mãnh liệt của các tác phẩm. Ông viết bài hát cứ như chơi, như chẳng tốn nhiều công sức bởi mạch âm nhạc tuôn ra rất tự nhiên, thoải mái, rồi ngấm vào người nghe cũng rất tự nhiên, thoải mái như vậy. Nhưng sự thực, nếu chứng kiến quá trình hình thành một bài hát của ông, sẽ thấy vô cùng cầu kỳ, công phu. Ông tỉa tót, sửa đi sửa lại hàng chục lần một nốt, một chữ. Giai điệu của ông như có phép thần: Đã ngấm vào thì làm ta mê mẩn mãi, chẳng khác gì bùa phép của ái tình. Hầu như bài hát nào của ông cũng được khai thác từ một chất liệu dân gian nào đó, hoặc nếu không xuất phát từ một làn điệu cụ thể thì cũng phảng phất, có hơi hướng dân ca rõ rệt. Tôi cho rằng ông là một… phù thủy trong sáng tác ca khúc. Xin miễn nói đến những bài quá hay, quá nổi tiếng ai cũng biết, rất nhiều người thuộc lòng như: "Mẹ yêu con", "Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh", "Người đi xây hồ Kẻ Gỗ", "Dáng đứng Bến Tre"…, chỉ xin nói đến những bài mà cùng chủ đề, vào tay người khác khó có thể tạo nên bài hát đáng yêu, hấp dẫn như thế. Trong một đợt tổ chức cho một số nhạc sĩ đi tìm hiểu thực tế sáng tác về ngành ngân hàng, khi mà nhiều người không cho ra được tác phẩm, hoặc viết được nhưng rồi chẳng ai để ý thì Nguyễn Văn Tý có bài "Em đi làm tín dụng". Bằng chất liệu dân ca miền núi phía Bắc quen thuộc, ông tạo nên bài hát hết sức duyên dáng, với giai điệu đầy quyến rũ. Đến hôm nay, sau rất nhiều năm, người ta vẫn thích bài hát này và ngành ngân hàng vẫn coi đó như bài “ngành ca” chính thức, chưa có bài thứ hai vượt qua. Viết về nông nghiệp luôn không dễ dàng, nhất là lại gắn với miền đất cụ thể Thái Bình với thành tích là tỉnh đầu tiên trong thời chiến đạt năng suất lúa 5 tấn/ha. Ông đáp ứng thẳng vào yêu cầu này của Tỉnh ủy Thái Bình khi ấy với "Bài ca năm tấn". Vừa ra đời, bài hát đã nhanh chóng lan truyền khắp tỉnh và cả nước. Đảng bộ và nhân dân Thái Bình mãi tự hào về thành tích của mình và trân trọng, yêu quý Nguyễn Văn Tý, coi ông là người dân danh dự của tỉnh. Suốt một thời gian dài, nhạc hiệu buổi phát thanh Khắp nơi ca hát của Đài Tiếng nói Việt Nam chính là giai điệu bài "Múa hát mừng chiến công" của ông. Bài hát khai thác chất liệu từ điệu "Chức cẩm hồi văn"-một làn điệu chèo quen thuộc.

Ở nước ta, quả là rất hiếm nhạc sĩ được nhiều tầng lớp xã hội, ngành nghề đều nhận là của họ như Nguyễn Văn Tý. Ông là nhạc sĩ của nông dân với 3 bài: "Pha màu luống cày", "Chim hót trên đồng đay", "Bài ca năm tấn"; của phụ nữ với 3 bài: "Mẹ yêu con", "Tiễn anh lên đường", "Bài ca phụ nữ Việt Nam"; của ngành mầm non ["Cô đi nuôi dạy trẻ"]; của thiếu nhi ["Màu áo chú bộ đội"] và của các tỉnh: Hà Tĩnh ["Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh"], Bến Tre ["Dáng đứng Bến Tre"]…

Sau năm 1975, ông chuyển vào làm việc và sinh sống tại TP Hồ Chí Minh. Từ đó, tôi rất ít có dịp gặp lại ông cho mãi tới gần đây…

Nguyễn Văn Tý là một nhạc sĩ tài năng. Dấu ấn của ông trong lòng công chúng là hết sức sâu đậm. Ông là một chấm son chói sáng trong lĩnh vực ca khúc. Điều này thì mọi người đều thừa nhận. Nhưng không phải ai cũng có thể hiểu được thấu đáo con người ông. Với Nguyễn Văn Tý, ai hiểu rõ sẽ rất quý trọng, còn nếu sơ sơ, xã giao thì sẽ dễ nghĩ ông là người tự phụ, kiêu căng, thậm chí cực đoan. Ông mà yêu điều gì thì làm cho người khác phải yêu theo, ngược lại nếu ghét thì như "hắt nước đổ đi"... Có người đã nói: “Nguyễn Văn Tý có ưa ai bao giờ, ông ta chỉ yêu bản thân mình”. Tôi có thể chứng minh đó là sự nhìn nhận sai lầm, có phần kỳ thị đối với ông. Một lần, ông gửi cho tôi một bài báo nhờ tìm cách đăng. Bài báo nói về kỷ niệm của ông với nhạc sĩ Hoàng Vân, trong đó toát lên tình đồng nghiệp, tình bạn nghệ sĩ thật ấm áp. Ông có cái nhìn về Hoàng Vân hết sức trân trọng, thấu hiểu. Người như vậy sao lại có thể bị nghĩ là “chỉ yêu mình”? Tuy nhiên, cái dáng vẻ, hình hài và cách phô diễn, chuyện trò của ông rất dễ khiến những người "yếu bóng vía" e ngại, có khi dị ứng. Ông thuộc loại nhạc sĩ từ… trong ra ngoài-nghĩa là trông cái mẽ đã rất nhạc sĩ với dáng người cao ráo, luôn toát ra vẻ hào hoa, đặc biệt là khuôn mặt đẹp với nụ cười duyên dáng, hóm hỉnh. Nhưng cũng chính từ cái miệng rất “điệu” dễ lôi cuốn người khác mà lắm lúc đã làm hại ông. Con người thông minh, nhạy cảm như ông rất dễ bị tổn thương. Động vào điều khiến ông vui sướng thì nụ cười rạng rỡ, mắt cười tít lại như con quay của trẻ con chơi đang tít, ngủ. Còn chạm vào nỗi đau nào đó khiến ông tự ái thì hãy coi chừng. Ông ít khi nói to điều gì, ngay cả khi phẫn nộ cũng ít lớn tiếng. Nói nhỏ, thậm chí rất bình thản nhưng từ ngữ ông dùng thì chì chiết, tận cùng thông tin. Nói chuyện về tác phẩm của ông thì ông có thể dành cả buổi, lại tự thể hiện bài hát của mình đầy sức thuyết phục. Nhưng giả sử giữa lúc ấy mà nhắc đến bài người khác thì ông mất hứng hẳn. Điều này quả là rất giống với cố thi sĩ Xuân Diệu vậy.

Gần như cả đời Nguyễn Văn Tý không làm một chức vụ gì đáng kể ngoài là trưởng một vài đoàn văn nghệ nhỏ từ hồi kháng chiến chống Pháp. Những năm 1957-1958, ông bị chút tai nạn nghề nghiệp, phải về làm công tác phong trào ở Hưng Yên. Nhưng chính nhờ vụ đó mà ông có được một bài hát hay về tỉnh này-"Chim hót trên đồng đay".

Năm nay, Nguyễn Văn Tý 92 tuổi [ông sinh năm 1925]. Ông đã yếu nhiều so với trước. Mỗi lần nói chuyện qua điện thoại với ông, tôi không còn nghe rõ từng lời vì giọng ông đã phều phào. Thế rồi gần đây, tôi có dịp thăm ông tại TP Hồ Chí Minh. Bây giờ, ông đã già yếu lắm. Tay luôn phải chống gậy, vận động đi lại chỉ trong căn phòng nhỏ cũng rất lập cập, khó khăn. Mắt ông đục, mờ nhiều. Đầu tóc bạc phơ với ít sợi bơ phờ, răng rụng đã gần hết. Tuy nhiên, mỗi khi nhắc lại một kỷ niệm nào đó đã lùi sâu vào quá khứ thì ông vẫn rất nhớ như chuyện vừa xảy ra ngày hôm qua, nhất là những kỷ niệm tâm hồn. Khi ấy, mắt ông sáng hơn như ánh lên một vầng hào quang đặc biệt khiến người đối diện rất dễ cảm nhận. Ông hỏi tôi: “Hình như cậu thích bài "Dư âm" thì phải?”. “Em thích nhiều bài của anh chứ đâu chỉ "Dư âm”. “Là mình nhớ cậu nói thích "Dư âm" từ hồi còn trẻ và luôn hát. Để mình kể cậu nghe chuyện liên quan đến bài này”. Và Nguyễn Văn Tý kể, năm 1949, ông 24 tuổi, được giới thiệu cho một cô gái quê ở huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Nhưng khi đến nhà cô này thì chàng nhạc sĩ hào hoa phong nhã lại mê cô em gái vì xinh đẹp, trông bắt mắt hơn. Cô này cũng có vẻ mến ông. Song, ông bị gia đình hai cô kịch liệt tẩy chay vì cho rằng từ chị “tạt” xuống em. Càng vậy, ông càng mê mẩn cô em, suốt ngày tương tư, không làm được gì. Nhớ cô gái quá, ông chỉ dám mon men đến cổng rồi tìm cách vẫy cô ra để gặp gỡ lén lút. Cô mới 16 tuổi, bị bố mẹ mắng nhiều nên phải tránh mặt, không dám gặp Nguyễn Văn Tý. Cuối cùng, thấy tình hình chẳng hứa hẹn gì, ông đành ôm hận, từ bỏ hình bóng mình thần tượng và những ngày này, ông đã viết nên bài "Dư âm" với âm điệu tha thiết, si mê. Ông cũng cho biết, sau khi tác phẩm ra đời và bắt đầu lan tỏa trong công chúng thì ông bị đơn vị kiểm điểm vì đã viết một bài hát sướt mướt, ủy mị, lạc lõng với nhiệm vụ kháng chiến lúc ấy.

Trường hợp ra đời bài "Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh" cũng khá độc đáo. Một lần, ông đem lòng yêu thương một cô gái làm nghề dệt vải quê Hà Tĩnh. Không biết thế nào nhưng mỗi lần gặp gỡ, không thấy cô nói gì. Sau nhiều lần lui tới chuyện trò, rồi thì mối quan hệ cũng chấm dứt. Nhưng 20 năm sau, cô gái vẫn không lấy chồng. Có người cho Nguyễn Văn Tý biết, ngày ấy, cô gái cũng phải lòng nhạc sĩ nhưng nhát, không dám biểu hiện gì, trong khi ông cũng không mạnh dạn để dấn thêm. Suốt 20 năm xa cách không gặp lại, ai hỏi cô gái cũng nói đã có chồng nhưng ở xa. Vẫn nguyên vẹn tình yêu với cô như thuở nào, lại thương cô vì mình mà lỡ dở tuổi xuân, đồng thời ân hận là mình không biết tình cảm của cô nên để mất mà lẽ ra đã có được người mình đêm ngày tơ tưởng, ông viết bài hát trên, trong đó có câu thật sâu sắc: Thương con thuyền cắm sào đứng đợi.

Có thể nói, không người phụ nữ Việt Nam nào lại không ưa thích bài hát "Mẹ yêu con" của Nguyễn Văn Tý. Đây là bài hát ru hiện đại hay nhất, có sức sống lâu bền, mãnh liệt nhất, ra đời cách đây đã 60 năm mà vẫn nguyên vẹn sức hấp dẫn. Bài hát được sáng tác gắn liền với đứa con của nhạc sĩ cùng người vợ tên Bạch Lê khi bé cất tiếng khóc chào đời. Bà Lê là em ruột nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương và là người vợ thứ hai của Nguyễn Văn Tý [vợ đầu của ông qua đời sau khi sinh đứa con đầu lòng]. Khi gặp Bạch Lê, nhạc sĩ như bị cú sét ái tình. Mặc dù bà đã có những 4 con riêng nhưng ông vẫn không hề nao núng chỉ vì quá yêu cái đẹp. Và bài hát trên ra đời với nhiều cảm xúc về đứa con cùng người vợ mình si mê.

Hiện tại, Nguyễn Văn Tý sống cô đơn trong một căn phòng chật hẹp tại TP Hồ Chí Minh. Suốt ngày ông nằm trên giường do đã hai lần bị tai biến và liệt nửa người. Một người đàn bà giúp việc ở tuổi 50 chăm lo bón cơm và mọi việc khác cho ông. Ông nói và nghe đều khó khăn. Thỉnh thoảng ông ngồi dậy, nhìn qua cửa sổ ra phố, thèm nghe mọi âm thanh của cuộc sống đời thường và mơ hồ nhìn những bóng người hối hả qua lại.

Tôi đến thăm, hầu chuyện ông nhưng ông chỉ nghe mà ít nói. Ông bảo, tất cả đã lui vào quá khứ quá lâu. Nhưng tôi lại thấy những gì ông đã có, dâng hiến cho đời từ hai đứa con gái đến những bài hát bất hủ vẫn còn đó, mới mẻ và vẹn nguyên, là "đặc sản" tinh thần của mọi thế hệ công chúng. Chừng đó cũng đủ để an ủi ông tiếp tục ở trọ nơi trần gian những ngày cuối chặng đường đời...

Chủ Đề