Cách tính nợ công ở Việt Nam hiện nay

[TBTCVN] - Trước những ý kiến cho rằng cách tính nợ công của Việt Nam không đúng thông lệ quốc tế.

98% vốn vay công sử dụng cho các dự án hạ tầng.

Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại Trương Hùng Long khẳng định, Luật Quản lý nợ công [QLNC] hiện nay đang theo các thông lệ quốc tế và được các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng phát triển Châu Á chấp nhận. Các tiêu chí để tính nợ công đều theo luật này. Hơn nữa trên thế giới, không có sự thống nhất về cách xác định phạm vi nợ công.

98% vốn vay công sử dụng cho các dự án hạ tầng

Theo báo cáo của Chính phủ, trong giai đoạn 2011 - 2015 huy động vốn vay công với khối lượng khoảng 2.488 nghìn tỷ đồng, bằng khoảng 14% GDP, chiếm 44% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội [bình quân tăng 15%/năm]. Tính trên tổng khối lượng huy động vốn vay công, vốn vay của Chính phủ chiếm 76,1% [bình quân 379 nghìn tỷ đồng/năm]; bảo lãnh chính phủ chiếm 19,7% [bình quân khoảng 98 nghìn tỷ đồng/năm] và vay của chính quyền địa phương chiếm 4,2% [khoảng 21 nghìn tỷ đồng/năm].

Số vốn vay này phù hợp với định hướng phát triển kinh tế xã hội, các chỉ tiêu cân đối kinh tế vĩ mô và NSNN đã được Quốc hội quyết định trong 5 năm và hàng năm.

Theo thống kê, 98% vốn vay công được sử dụng trực tiếp cho các dự án hạ tầng, góp phần hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật kinh tế - xã hội đồng bộ, thay đổi căn bản về năng lực của các hệ thống này ở cấp quốc gia, vùng và lãnh thổ, góp phần quan trọng vào cải thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô trong những năm qua.

Về huy động vốn vay của Chính phủ, các khoản vay của Chính phủ chủ yếu thông qua phát hành trái phiếu tại thị trường trong nước và vay ODA, vay ưu đãi từ các nhà tài trợ nước ngoài, đảm bảo nguyên tắc vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng.

Với nỗ lực của Việt Nam và sự ủng hộ của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế, Việt Nam đã tích cực vận động, đẩy nhanh tiến độ giải ngân ODA, vay ưu đãi nước ngoài [số vốn vay giai đoạn 2011 – 2015 đạt 28 tỷ USD và rút ngắn tốc độ giải ngân bình quân 10 năm xuống còn 5 năm].

Giải ngân vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài 5 năm chiếm khoảng 2,8% GDP, bằng 8,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và trên 49% tổng vốn đầu tư từ NSNN.

Tính đến cuối năm 2015, nợ nước ngoài chiếm 43% danh mục nợ chính phủ, trên 94% trị giá là các khoản vay ODA, vay ưu đãi có kỳ hạn dài, lãi suất thấp, quy mô huy động tương đối ổn định [tốc độ tăng bình quân cả giai đoạn khoảng 12%/năm]. Lãi suất bình quân gia quyền danh mục nợ nước ngoài của chính phủ là 2,2%/năm và thời gian đáo hạn bình quân là 12,4 năm. Các khoản vay lãi suất cố định chiếm 90% tổng trị giá nợ nước ngoài của Chính phủ, nên rủi ro lãi suất ở mức độ vừa phải.

Chưa có “quy tắc” chung

PGS.TS Lê Xuân Trường [Học viện Tài chính] cho rằng, Luật QLNC đã quy định rõ các tiêu chí để tính toán nợ công. Theo thông lệ quốc tế, để xác định ngưỡng an toàn của nợ công người ta thường sử dụng 2 tiêu chí là tỷ lệ % nợ công so với GDP và số nợ công tính theo đầu người.

“Ngoài chỉ tiêu tỷ lệ % so với GDP, Luật QLNC của Việt Nam còn quy định 3 chỉ tiêu khác đánh giá nợ công là: Nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP; trả nợ chính phủ so với tổng thu ngân sách; nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với tổng kim ngạch xuất khẩu. Về cơ bản, những chỉ tiêu này đã phản ánh khá tốt mức độ an toàn của nợ công ở Việt Nam”, ông Trường nhận định.

Theo ông Trương Hùng Long, thực tế trên thế giới, không có sự thống nhất về cách xác định phạm vi nợ công mà tùy thuộc vào năng lực quản lý của từng đất nước, tính chất của các cấu phần nợ công và bản chất của tổ chức thuộc khu vực công theo quy định của pháp luật từng quốc gia.

Đại diện lãnh đạo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại nhận xét, Luật QLNC hiện hành của Việt Nam cũng có những khác biệt nhất định, chủ yếu xét trên phương diện chủ thể vay nợ.

Chính phủ thống kê đầy đủ các khoản nợ công theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, hiện còn có một số điểm chưa phù hợp về cách tính toán nợ công.

Ví dụ như, toàn bộ các khoản nợ được Chính phủ bảo lãnh và vay nước ngoài về cho vay lại được tính 100% vào nợ công trong khi các khoản nợ này không phải là nợ trực tiếp của Chính phủ mà là nghĩa vụ nợ dự phòng. Các khoản nợ này chỉ tạo nên nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ khi xảy ra sự kiện đối tượng được bảo lãnh hoặc đối tượng vay lại vốn vay của nước ngoài của Chính phủ không thể hoàn trả vốn vay.

Hay việc đang tính cả các khoản nợ vay từ các quỹ có tính chất ngân sách vào nợ công [vay tồn ngân kho bạc]. Thông lệ quốc tế không tính các khoản nợ này vào nợ công.

Cần thống nhất đầu mối về quản lý nợ công

Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, hiện còn một số bất cập trong phân định chức năng nhiệm vụ quản lý nợ công giữa các cơ quan. Điều này dẫn đến những khó khăn trong công tác quản lý, từ khâu huy động vốn vay, phân bổ sử dụng và quản lý sử dụng vốn vay nợ công cũng như trong công tác thống kê, báo cáo về nợ công.

Đại diện lãnh đạo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại cho biết, thực tế, đây là vấn đề liên quan đến không chỉ các quy định tại Luật QLNC hiện nay mà còn trong rất nhiều luật, nghị định khác nhau.

Chính phủ đã báo cáo Quốc hội đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016 và 2017 nội dung soạn thảo Luật QLNC sửa đổi và thời gian qua đã chỉ đạo Bộ Tài chính tiến hành tổng kết 6 năm thực hiện Luật QLNC.

Yêu cầu đặt ra hiện nay là cần thống nhất chức năng quản lý nợ công vào một đầu mối để đảm bảo thống nhất quản lý nhà nước, phù hợp với chức năng nhiệm vụ và đảm bảo hiệu quả công tác quản lý nợ công.

Hiện nay, Bộ Tài chính cùng các cơ quan trong quá trình soạn thảo Luật QLNC sửa đổi sẽ tiếp tục rà soát, đánh giá và có những kiến nghị sửa đổi phù hợp do các quy định có liên quan đến quản lý nợ công còn nằm rải rác ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau.

Đức Minh

Năm 2020, Chính phủ đã phải tăng thêm vay nợ. Năm 2021, Việt Nam tiếp tục tìm cách tăng vay nợ công để “bơm tiền” hỗ trợ thêm nền kinh tế. Nên hay không nên nới trần nợ công đang là “bài toán khó” cần được giải.

Có ý kiến cho rằng, nền kinh tế Việt Nam cần được “bơm” thêm nguồn lực tài chính, việc nới trần nợ công sẽ tạo dư địa cần thiết. Nhưng ở góc độ khác, chuyên gia nhận định, nợ công Việt Nam vẫn cách ngưỡng an toàn 16% GDP, chưa cần thiết phải nâng mức trần nợ công.

Nợ công Việt Nam tăng nhanh

Hôm 27/10, Bộ Tài chính đang lấy ý kiến về dự toán ngân sách Nhà nước năm 2022 sẽ được Chính phủ trình Quốc hội.

Theo dữ liệu của Bộ Tài chính, dự toán thu ngân sách năm 2021 là hơn 1,34 triệu tỷ đồng. Riêng 9 tháng đầu năm 2021, Việt Nam đã thu hơn 1,077 triệu tỷ đồng, bằng 80,2% dự toán và tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2020. Bộ Tài chính đánh giá kết quả này là “tích cực”.

Mặc dù vậy, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, đặc biệt là làn sóng lây nhiễm coronavirus lần thứ 4, thu ngân sách Nhà nước chứng kiến xu hướng giảm rõ rệt qua từng tháng.

Theo báo cáo kế hoạch tài chính ngân sách Nhà nước 3 năm 2022-2024 Chính phủ trình Quốc hội, Bộ Tài chính cho biết, dự kiến, 2021 thu ngân sách Nhà nước ước đạt trên 1,365 triệu tỷ đồng, tăng 1,7% so với dự toán, giảm 9,4% so với thực hiện năm 2020. Dự toán tổng thu ngân sách năm 2022 là 1,41 triệu tỷ đồng, năm 2023 là 1,54 triệu tỷ đồng và năm 2024 là 1,69 triệu tỷ đồng.

Riêng thu nội địa [khoản thu chiếm hơn 80% nguồn thu ngân sách] dự kiến giảm 12,2% so với thực hiện năm 2020, ước tính chỉ đạt hơn 1,13 triệu tỷ đồng. Theo đó, năm 2022 dự kiến đạt 1,17 triệu tỷ đồng, mức 1,30 triệu tỷ đồng cho năm 2023 và năm 2024 là 1,43 triệu tỷ đồng.

Thực tế, tại Việt Nam, hiện nay, tổng thu giảm, nhưng số chi ngân sách năm 2021 lại tăng so với dự tính ban đầu.

Dự toán chi ngân sách nhà nước năm 2021 là 1,68 triệu tỷ đồng. Nhưng đến nay, Bộ Tài chính ước tính số chi cả năm đạt hơn 1,7 triệu tỷ đồng, tăng 1,3% so với dự toán.

Dù dự kiến 3 năm sau lần lượt là 1,78 triệu tỷ đồng, 1,92 triệu tỷ đồng và 2,09 triệu tỷ đồng, nhưng nhiều khả năng, đặc biệt nếu tình hình dịch bệnh chưa được kiểm soát và còn diễn biến phức tạp, kéo dài.

Đồng thời, tổng số thu - chi ngân sách kể trên cho thấy ngân sách tiếp tục chi nhiều hơn thu. Bộ Tài chính cho biết dự toán bội chi ngân sách Nhà nước năm 2021 là 343,67 nghìn tỷ đồng, bằng 4% GDP, nên phấn đấu điều hành bảo đảm bội chi ngân sách Nhà nước năm 2021 trong phạm vi 4% GDP.

Qua năm 2022, Bộ Tài chính dự toán tổng thu cân đối ngân sách Nhà nước là 1,41 triệu tỷ đồng, tăng khoảng 3,4% so với ước thực hiện năm 2021.

Bộ Tài chính nêu rõ, các mức dự toán này đều đã được Bộ Tài chính “tính toán kỹ lưỡng” trong bối cảnh dịch bệnh kéo dài khiến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn vì đứt gãy chuỗi cung ứng, thiếu nhân lực, doanh thu sụt giảm mạnh, việc phục hồi, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh cần chi phí cũng như thời gian lâu dài.

Dự kiến, năm 2022, chi ngân sách Nhà nước vào khoảng 1,78 triệu tỷ đồng, tăng 4,5% so với dự toán năm nay. Mức bội chi là 372,9 nghìn tỷ đồng, vào khoảng 4% GDP [bằng với tỷ lệ dự toán năm 2021].

Nợ công tăng: Đến 2024, Việt Nam vay nợ nhiều hơn?

Theo báo cáo của Bộ Tài chính, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ Việt Nam vào khoảng 21-22% tổng thu ngân sách Nhà nước. Đến cuối năm 2022, nợ công khoảng 43-44% tổng sản phẩm quốc nội [GDP].

Như Sputnik đã đề cập trước đó, trong báo cáo của Chính phủ về tình hình nợ công năm 2021, dự kiến năm 2022 gửi Quốc hội, Bộ trưởng Tài chính Hồ Đức Phớc cho hay, nợ chính phủ đang rơi vào khoảng 3,35 triệu tỷ đồng, bằng 39,5% GDP.

Nợ công ước tính đến cuối năm 2021 vào khoảng 3,7 triệu tỷ đồng, bằng 43,7% GDP. Trong đó, nợ chính phủ khoảng 3,351 triệu tỷ đồng, bằng 39,5% GDP, tức mỗi người dân Việt Nam năm 2021 sẽ gánh khoảng 37,7 triệu đồng nợ công.

Báo cáo của Chính phủ nêu rõ, tình hình Covid-19 còn diễn biến phức tạp, tăng trưởng kinh tế quý III giảm sâu và GDP 9 tháng chỉ tăng 1,42% so với cùng kỳ 2020. Chính phủ thừa nhận việc hoàn thành các chỉ tiêu tăng trưởng năm nay là thách thức, tuy nhiên, việc thực hiện nghĩa vụ các khoản trả gốc, lãi của Chính phủ đầy đủ, gồm cả nghĩa vụ nợ trực tiếp của Chính phủ và nghĩa vụ nợ cho vay lại, không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn.

Trường hợp GDP năm 2021 không đạt mức dự báo sẽ tác động đến bội chi ngân sách nhà nước và các chỉ tiêu an toàn nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia trong năm 2021.

Bộ Tài chính đánh giá, dịch bệnh Covid-19 đã và đang tạo thêm nhiều khó khăn, thách thức đối với mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, tiếp tục tạo áp lực lớn đối với thu, chi và cân đối ngân sách nhà nước của Việt Nam giai đoạn 2022-2024.

Dự kiến, tổng thu ngân sách 3 năm 2022-2024 dự kiến 4,65 triệu tỷ đồng, còn chi ngân sách là 5,8 triệu tỷ đồng, nhưng có thể sẽ gặp thách thức lớn do đại dịch chưa kết thúc và còn ảnh hưởng sâu rộng đến tình hình kinh tế - xã hội.

Tỷ lệ bội chi ngân sách Nhà nước bình quân giai đoạn 2022-2024, theo Bộ Tài chính, vào khoảng 3,8% GDP, đồng thời, mức nợ công đến năm 2024 rơi vào khoảng 43-44% GDP.

Cụ thể, tại báo cáo dự kiến nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn ba năm 2022-2024, Bộ Tài chính cho hay, năm 2021, dự kiến nợ công sẽ vào khoảng 43,7% [mức 3,7 triệu tỷ đồng]. Năm 2022 là 4,073 triệu tỷ đồng, năm 2023 là 4,4 triệu tỷ đồng và năm 2024 là 4,8 triệu tỷ đồng – tương đương 43-44% GDP.

Nợ công giai đoạn 2022-2024 cũng dự kiến vượt mốc 4 triệu tỷ đồng, đặc biệt năm 2024 dự kiến nợ công tiệm cận mốc 5 triệu tỷ đồng. Song nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so với thu ngân sách vẫn dao động ở mức 20-22% [trừ năm 2021 ước tính 24,8% thu ngân sách].

Tổng mức vay ngân sách Nhà nước giai đoạn 2022-2024 sẽ đều trên 500 nghìn tỷ đồng mỗi năm, trong đó năm 2021 dự kiến là 586,5 nghìn tỷ đồng, các năm sau lần lượt là 572,6 nghìn tỷ đồng, 580,8 nghìn tỷ đồng và đỉnh điểm năm 2024 dự kiến vay nhiều nhất với hơn 646,9 nghìn tỷ đồng.

Chuyên gia nêu lý do vì sao Việt Nam có thể nới trần nợ công?

Vấn đề Việt Nam có nên “nới trần nợ công” để tạo “dư địa” tài chính tạo dư địa cho hồi phục và phát triển kinh tế hay không nhận được nhiều ý kiến chuyên gia.

Theo PGS.TS Nguyễn Chí Hải, Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG TP.HCM, Việt Nam hiện có đủ điều kiện để làm việc này “ngay lập tức”.

Theo chuyên gia, đối với nền kinh tế Việt Nam, vấn đề nợ công cũng đã trở thành vấn đề thời sự trong giai đoạn 2011-2016, khi nợ công liên tục tăng, từ 50% GDP năm 2011 đã tiến gần về ngưỡng 65% GDP [năm 2016 dư nợ công chiếm 63,7% GDP], trong khi đó chất lượng tăng trưởng kinh tế có nhiều bất cập, hiệu quả đầu tư công chưa cao, áp lực trả nợ gia tăng [đến cuối năm 2015, nợ công của Việt Nam đạt 62,2% GDP, nợ Chính phủ đạt 50,3% vượt trần 0,3%, nghĩa vụ trả nợ lãi trực tiếp chiếm 8% ngân sách, nếu tính cả trả nợ gốc thì lên đến gần 26% ngân sách].

“Đó là bối cảnh lúc đó và Chính phủ đã có các giải pháp quyết liệt nhằm giảm áp lực nợ công, nâng cao hiệu quả đầu tư công và chất lượng tăng trưởng và phát triển bền vững”, ông Hải lưu ý.

Còn trong giai đoạn 2016-2020, nợ công của Việt Nam đã được kiểm soát theo hướng bền vững, với mức nợ công chiếm khoảng 55,3% GDP, nợ Chính phủ khoảng 49,1% GDP, thâm hụt ngân sách ở mức bình quân khoảng 3,6% GDP, tất cả đều thấp hơn mức trần quy định của Quốc hội là 65%, 54% và 3,9%.

Các báo cáo mới nhất của Chính phủ về tình hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ tháng 6/2021 đã có những diễn biến tiêu cực trước ảnh hưởng nghiêm trọng của tình hình dịch bệnh Covid-19, tăng trưởng kinh tế quý III/2021 đã giảm sâu ở mức 6,17%, nếu tính cả 9 tháng đầu năm 2021 thì tăng trưởng đạt mức 1,41%.

Dự báo gần đây của các chuyên gia trong và ngoài nước về tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2021 hầu hết đều ở mức khoảng 3%. Điều quan trọng đối với kinh tế Việt Nam hiện nay, không chỉ là cần cải thiện tăng trưởng trong ngắn hạn, mà phải đặt mục tiêu phát triển mạnh mẽ, bền vững, tăng khả năng thích ứng với dịch bệnh, cải thiện an sinh xã hội.

“Do vậy, việc nâng trần nợ công trong thời điểm hiện nay, theo chúng tôi, cần có quyết sách kịp thời và linh hoạt từ phía Quốc hội và Chính phủ”, PGS.TS Nguyễn Chí Hải bày tỏ.

Theo chuyên gia, có một số lý do đáng lưu ý. Thứ nhất, Việt Nam cần nới trần nợ công để tạo dư địa cần thiết để huy động nguồn lực tài chính trong và ngoài nước phục vụ việc hồi phục và tạo động lực cho phát triển kinh tế trong thời gian tới, nền kinh tế cần được “bơm” thêm nguồn lực tài chính.

“Chúng tôi cho rằng, Quốc hội nên xem xét để có thể nới trần nợ công ở mức hơn 65% GDP trong giai đoạn 2021-2025, nhưng liều lượng và lộ trình thực hiện cần linh hoạt, phù hợp với diễn biến thực tiễn của nền kinh tế”, PGS.TS Nguyễn Chí Hải đề xuất.

Thứ hai, Việt Nam được đánh giá cao về sự ổn định [dù tăng trưởng có suy giảm], đặc biệt thành tựu kiểm soát nợ công, nợ nước ngoài được đánh giá ở mức khá an toàn, trong khi dư địa về tổng cầu và tổng cung còn khá nhiều tiềm năng. Do vậy, việc nới trần nợ công có kiểm soát sẽ tạo động lực để khai thác nguồn lực phát triển kinh tế. Tiếp đó, chuyên gia cho rằng, các biện pháp kích thích tăng trưởng bằng cách chủ động gia tăng tổng cầu, để khôi phục và phát triển kinh tế là công cụ khá phổ biến mà các nước đã thực hiện, trong đó có Việt Nam.

Ông Hải nhấn mạnh, hiện nay trên thế giới, nhiều nước đã sử dụng nợ công như là công cụ cần thiết nhằm “bơm thêm” nguồn lực tài chính cho phục hồi tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội, vấn đề là thời điểm, liều lượng và ảnh hưởng có mức độ khác nhau.

“Nợ công Việt Nam vẫn ở ngưỡng an toàn”

Ngân hàng Thế giới [WB] cho biết năm 2020, Chính phủ Việt Nam đã tăng mức vay nợ công để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước cho các chi tiêu phòng chống dịch bệnh Covid-19.

Theo kịch bản cơ sở được WB đưa ra vào cuối tháng 9/2021, bội chi ngân sách của Việt Nam dự kiến tăng từ 4,9% GDP năm 2020 lên 6% năm 2021, dẫn đến nợ công năm 2021 tăng thêm khoảng 3% GDP. Tuy nhiên, thực tế, giới quan sát và các thể chế hàng đầu cũng khẳng định, Việt Nam chưa phải đối mặt với các rủi ro quá lớn, “quả bom nổ chậm” mang tên “nợ công”.

Về vấn đề này, chuyên gia kinh tế, PGS.TS Đinh Trọng Thịnh, cho rằng, thực tế, nợ công vẫn còn cách ngưỡng an toàn khoảng 16% GDP nếu tính theo GDP mới năm 2020, vì vậy, chưa cần thiết phải nâng mức trần nợ công.

Theo PGS.TS Đinh Trọng Thịnh, trong giai đoạn 2016-2020, nợ công của Việt Nam được kiểm soát theo hướng bền vững hơn, tất cả đều thấp hơn mức trần quy định của Quốc hội là nợ công 65% GDP, nợ Chính phủ là 54% GDP và thâm hụt ngân sách nhà nước là 3,9% GDP, đồng thời, nợ công đã được cơ cấu lại tốt hơn trước rất nhiều.

Các báo cáo mới nhất của Chính phủ, nợ công năm 2020 đạt mức 45,08% GDP mới. Dự kiến đến cuối năm 2021, nợ công ở mức 43,7% GDP. Nếu so với GDP cũ thì tỷ lệ nợ công đạt 55,3%. Nợ Chính phủ ở mức 39,5% GDP. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu ngân sách nhà nước ước khoảng 24,8%. Một chỉ tiêu quan trọng khác là nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP dự kiến cũng sẽ giảm xuống còn khoảng 38,8%.

“Nếu so với ngưỡng quy định nợ công mới theo GDP mới năm 2020 thì nợ công vẫn còn cách ngưỡng khoảng 16% GDP, nếu so với ngưỡng trước năm 2020 là 65% thì còn gần 10% GDP. Do vậy, chưa cần nâng mức trần nợ công”, PGS.TS Đinh Trọng Thịnh nêu rõ.

Theo chuyên gia, hiện tại, trái phiếu Chính phủ phát hành nội địa đã chiếm đến 14% thu ngân sách nhà nước, tức chiếm đến 51,3% tổng số tiền trả nợ. Đồng thời, Bộ Tài chính cố gắng tăng thu ngân sách để hạ thấp tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu ngân sách nhà nước về mức 24,8%. Tuy nhiên, theo PGS.TS Đinh Trọng Thịnh chia sẻ với VnEconomy, vấn đề về khả năng trả nợ công, đảm bảo năng lực trả nợ công rất cần được Chính phủ cân nhắc, xem xét để đảm bảo an toàn nợ công.

“Việc tăng nợ công nếu có danh mục nợ tốt, chi phí nợ hợp lý, khả năng hấp thụ nợ của nền kinh tế tốt, hiệu quả sử dụng nợ vay cao, khả năng trả nợ được đảm bảo thì không có gì lo ngại”, chuyên gia nêu quan điểm.

PGS.TS Đinh Trọng Thịnh nêu rõ, điều quan trọng nhất là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong hỗ trợ các doanh nghiệp trong nền kinh tế hoặc thông qua các dự án, chương trình đầu tư công, các công trình phúc lợi xã hội mới là nhân tố quyết định đảm bảo khả năng trả nợ, duy trì mức bền vững của nợ công.

Ông Thịnh cho rằng, đây chính là công việc cần được các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước quan tâm để phát huy hiệu quả của các khoản hỗ trợ, giúp nền kinh tế phục hồi và phát triển.

Ngoài ra, việc đẩy mạnh tiến độ giải ngân đầu tư công để kích thích sự tăng trưởng và phát triển của các ngành nghề sản xuất kinh doanh, tạo sự lan tỏa kích cầu sản xuất và tiêu dùng cũng cần được quan tâm.

Video liên quan

Chủ Đề