Công ty đòi đại lý tiền nợ hàng hóa năm 2024

1. Một số lưu ý trong giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại liên quan đến tranh chấp hợp đồng tín dụng

Việc tranh chấp HĐTD gia tăng như hiện nay có nguyên nhân khách quan như: Dịch bệnh ảnh hưởng tới kinh tế của các nước, trong đó có Việt Nam. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu, các doanh nghiệp bị phá sản, không tiêu thụ được hàng hóa, sản xuất đình trệ… khiến khách hàng vay không thể thực hiện được kế hoạch tài chính, cũng như hợp đồng đã ký với các tổ chức tín dụng (TCTD). Bên cạnh đó, còn có những nguyên nhân chủ quan xuất phát từ cả bên cho vay là các TCTD và người vay. Cụ thể như sau:

1.1. Về phía người vay tín dụng và người có tài sản bảo đảm khoản vay:

Khách hàng không thanh toán nợ đúng hạn theo thỏa thuận trong HĐTD. Tổ chức tín dụng sau khi áp dụng các biện pháp yêu cầu khách hàng thực hiện thanh toán nợ không được thì phải khởi kiện để thu hồi nợ. Nhiều trường hợp khách hàng đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán từ kỳ thanh toán nợ đầu tiên và lẩn tránh việc thực hiện nghĩa vụ với TCTD hoặc đương sự là bị đơn, người đại diện theo pháp luật của bị đơn sau khi ký HĐTD và đã vay tiền của TCTD, sau đó không trả nợ, thường xuyên thay đổi địa chỉ, thậm chí là trốn nợ, cắt đứt mọi liên hệ, gây khó khăn cho TCTD thu hồi nợ. Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015, các điều 5, 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP hướng dẫn một số quy định tại khoản 1, khoản 3 BLTTDS năm 2015 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án, trường hợp này được coi là cố tình giấu địa chỉ Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung, niêm yết văn bản tố tụng tại nơi cư trú cuối cùng và tiến hành xét xử vụ án chứ không đình chỉ giải quyết vụ án.

Đại diện của bị đơn không qua sự chấp thuận Hội đồng thành viên công ty hay Hội đồng quản trị… đã thực hiện việc vay vốn TCTD hoặc thậm chí làm thủ tục trên giấy tờ hay giả mạo hồ sơ giấy tờ mà không có các hợp đồng, dự án thật… nhằm mục đích vay vốn.

Người có tài sản bảo đảm đến khi thấy TCTD yêu cầu phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ nhưng không muốn bị phát mại tài sản nên gây khó khăn cho TCTD, không phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện các hoạt động tố tụng chung. Có hành vi chống đối, cản trở các hoạt động tố tụng như thẩm định tài sản thế chấp, lấy lời khai, xác minh thu thập chứng cứ của Tòa án.

Có nhiều trường hợp cần vay tiền nhưng không đủ điều kiện vay nên đã thông qua một công ty tài chính hoạt động không đúng quy định của pháp luật, họ dùng tài sản nhà đất thế chấp cho các công ty này để vay nhưng do thiếu hiểu biết nên đã ủy quyền cho các công ty này thế chấp tài sản nhà đất của mình để vay tiền hộ từ TCTD. Sau khi được ủy quyền, công ty tín dụng trái phép này đã vay một số tiền kèm theo rất lớn mà người có tài sản thế chấp không nắm được.

1.2. Về phía tổ chức tín dụng:

Hoạt động thẩm định hồ sơ vay vốn của khách hàng vay đôi khi vẫn chưa đảm bảo quy định, đặc biệt là việc xác định thẩm quyền người ký hợp đồng tín dụng của bên vay là pháp nhân, nhất là những pháp nhân, tổ chức có nhiều người đại diện theo pháp luật; số lượng vốn vay lớn so với số vốn pháp định, vốn điều lệ mà điều lệ của bên vay thì cần phải có biên bản họp thể hiện sự nhất trí của Hội đồng quản trị…

Tổ chức tín dụng không quản lý sát sao sau khi cho vay tín dụng, không sớm thực hiện các biện pháp thu hồi nợ. Việc TCTD chậm thực hiện việc thu hồi nợ dẫn tới khoản nợ gốc đã phải đi kèm với khoản nợ lãi quá hạn rất lớn. Điều này chính là áp lực đối với những người có tài sản bảo đảm để đảm bảo cho khoản vay, nhất là đối với những trường hợp không phải thế chấp để khoản vay phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh thu lợi nhuận với người có tài sản.

Không phân chia giới hạn tài sản bảo đảm đối với những khoản vay có nhiều tài sản bảo đảm. Khi ký HĐTC, phần lớn trong hợp đồng đều không quy định rõ phạm vi tài sản bảo đảm mà thường có HĐTC có mẫu chung là tài sản bảo đảm sẽ bảo đảm nợ gốc, nợ lãi trọng hạn, lãi quá hạn, phí của mọi khoản vay của bên vay với TCTD. Các trường hợp bên vay có nhiều tài sản thế chấp, trước khi TCTD khởi kiện thì người có tài sản thế chấp đã có đơn xin được giải chấp tài sản bảo đảm của mình nhưng TCTD không đồng ý. Nguyên nhân là bên vay còn nợ rất nhiều so với giá trị tài sản bảo đảm xin được giải chấp mà còn các tài sản bảo đảm khác không có nguyện vọng xin nộp tiền để giải chấp nên ngân hàng không chấp nhận. Khi khởi kiện, Tòa án thường phân chia tỉ lệ tài sản bảo đảm trên số vốn vay để đảm bảo sự công bằng đối với những người có tài sảm bảo đảm theo quy định tại Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm và Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 163/2006.

Thẩm định tài sản thế chấp còn chưa cẩn trọng, không thể hiện hết giá trị, đặc điểm của tài sản thế chấp. Sau khi cho vay không thường xuyên kiểm tra, theo dõi sự biến động của tài sản thế chấp.

1.3. Một số tranh chấp phổ biến

Về tranh chấp hợp đồng tín dụng liên quan đến khoản nợ gốc và lãi

- Các tranh chấp hợp đồng tín dụng liên quan đến khoản nợ gốc

Thực tế kiểm sát giải quyết các tranh chấp HĐTD, các bên trong quan hệ tín dụng ít khi tranh chấp về khoản nợ gốc vì việc giải ngân của TCTD thường chặt chẽ và có ký nhận hoặc chuyển khoản một cách rõ ràng. Tuy nhiên, cá biệt cũng có trường hợp tranh chấp về số tiền gốc như: Bên vay tiền cho rằng ngân hàng thu tiền không đúng, bởi khi bên vay trả được một khoản tiền đáng lẽ phải thu vào nợ gốc nhưng lại thu vào lãi trước là không đúng thỏa thuận trong HĐTD mà hai bên đã ký kết; có trường hợp bên vay tiền không trực tiếp hoặc không có đủ điều kiện để tiếp cận được với nguồn vốn vay của TCTD, nên phải nhờ qua một doanh nghiệp để vay lại một khoản tiền, tuy nhiên với điều kiện họ phải đưa ra tài sản của bản thân hoặc gia đình để đảm bảo cho toàn bộ khoản vay. Khi ngân hàng đòi tiền thì có một số người đại diện doanh nghiệp bỏ trốn, trong khi người vay trình bày chỉ trả phần họ vay và không đồng ý cho xử lý tài sản thế chấp, tìm mọi cách để chống đối, dẫn đến việc giải quyết vụ án của Tòa án bị kéo dài và gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng.

Về xác định lãi suất trong hợp đồng tín dụng

Qua thực tiễn kiểm sát việc giải quyết các tranh chấp HĐTD, chúng tôi xin đưa ra một số lưu ý sau:

Thứ nhất, lãi suất được áp dụng trong HĐTD hai bên có thể thỏa thuận là lãi suất cố định hoặc lãi suất thay đổi (hay còn được gọi là lãi suất thả nổi).

Nếu các bên thỏa thuận áp dụng lãi suất cố định, thì lãi suất sẽ không thay đổi trong suốt thời hạn vay, bất kể lãi suất thị trường có tăng lên hay giảm xuống. Nếu các bên thoả thuận trong HĐTD là áp dụng lãi suất thay đổi thì sẽ điều chỉnh lãi suất lên, xuống dựa vào lãi suất thị trường, theo đó các ngân hàng phải xuất trình các quyết định tăng giảm lãi suất theo tùng thời kỳ làm căn cứ để cơ quan tiến hành tố tụng xem xét về lãi suất tính đúng hay sai.

Về lãi suất quá hạn: Hiện nay, hầu hết các ngân hàng vẫn thoả thuận trong HĐTD về lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn đối với chính HĐTD đó. Vẫn còn tình trạng đơn khởi kiện của một số ngân hàng đề nghị Tòa án chấp nhận cho ngân hàng nhập lãi vào gốc và tính cả lãi trên số lãi (lãi chồng lãi), yêu cầu này của ngân hàng đối với các tranh chấp HĐTD ký trước ngày 01/01/2017 là không đúng.

Thứ hai, về việc áp dụng lãi suất trong HĐTD.

Qua thực tiễn kiểm sát giải quyết các vụ án về tranh chấp HĐTD cho thấy, thông thường các ngân hàng sẽ cho vay dưới 02 hình thức là cho vay theo món (HĐTD ghi rõ số tiền cho vay, thời gian vay, lãi suất cụ thể) và hợp đồng hạn mức tín dụng, có tổng số tiền được vay và giải ngân làm nhiều lần, trong một thời gian khi giải ngân có giấy nhận nợ riêng trong đó ghi rõ số tiền vay, thời gian vay của món nợ này, mức lãi suất cho vay trong từng giấy nhận nợ và thời gian điều chỉnh lãi suất theo từng thời kỳ (1 tháng 1 lần, 3 tháng 1 lần...).

Trên thực tế, một số Tòa án cấp sơ thẩm không thu thập đầy đủ các tài liệu làm căn cứ để tính số tiền lãi mà chỉ dựa vào bảng kê tính nợ gốc cộng lãi của ngân hàng để chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ngân hàng dẫn đến đương sự kháng cáo bản án sơ thẩm vì Tòa án sơ thẩm chấp nhận mức lãi suất cho vay quá cao, không đúng quy định của pháp luật. Do vậy, khi xem xét, giải quyết vụ án tranh chấp HĐTD thì Tòa án cần phải yêu cầu ngân hàng cung cấp đầy đủ các tài liệu sau: Các HĐTD, các phụ lục HĐTD, giấy nhận nợ, bảng kê chi tiết các khoản còn nợ, số tiền gốc, lãi của các khoản vay và các quyết định điều chỉnh lãi suất của ngân hàng từ khi cho vay đến thời điểm xét xử sơ thẩm để xác định xem ngân hàng tính lãi có bị vượt quá quy định không.

Vấn đề tách lãi trong HĐTD để giải quyết trong một vụ án khác

Hiện nay, một số ngân hàng khi khởi kiện nhưng không cung cấp cho Tòa án các quyết định tăng giảm lãi suất trong khi thỏa thuận tại HĐTD là hợp đồng có điều chỉnh lãi theo từng thời kỳ, lãi suất thả nổi,… Trong trường hợp này, Kiểm sát viên, Thẩm phán cần trao đổi, phối hợp; đồng thời Tòa án ban hành quyết định thu thập tài liệu chứng cứ đối với ngân hàng, trường hợp ngân hàng không cung cấp thì giải quyết trên cơ sở tài liệu có trong hồ sơ không tách lãi ra để giải quyết trong một vụ án khác nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.

Về thỏa thuận phạt vi phạm và lãi chậm trả

Thực tiễn kiểm sát cho thấy, vẫn còn nhiều vụ án bị hủy về phần phạt đối với lãi chậm trả các TCTD cho rằng họ có quyền thỏa thuận với khách hàng về phạt vi phạm phù hợp với các quy định của pháp luật về tín dụng, trong khi quan điểm, nhận thức pháp luật của Tòa án. Hiện nay, chưa có quy định nào cho phép phạt nhiều lần về cùng vi phạm trong HĐTD. Tại khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm đã quy định rõ: “Hợp đồng vay tài sản có thỏa thuận xử lý đối với hành vi không trả nợ đúng hạn của bên vay thì Tòa án xem xét, quyết định theo nguyên tắc chỉ xử lý một lần đối với mỗi hành vi không trả nợ đúng hạn”. Do vậy, trong các HĐTD các bên đã thỏa thuận về lãi suất quá hạn (bằng 150% lãi suất vay trong hạn) nhưng lại còn thỏa thuận về lãi phạt chậm trả đối với số tiền lãi quá hạn chưa thanh toán là không đúng.

Đối với HĐTD được ký kết từ ngày 01/01/2017 (ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành), phần lãi chậm trả tính trên số dư lãi chậm trả trong hạn phù hợp với điểm a khoản 5 Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015 và được quy định cụ thể tại điểm b khoản 4 Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng: “Trường hợp khách hàng không trả đúng hạn tiền lãi theo quy định tại điểm a khoản này, thì phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả”.

Thêm vào đó, điểm b khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP quy định: “Trường hợp khách hàng không trả đúng hạn tiền lãi trên nợ gốc theo thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng, thì phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá mức lãi suất giới hạn mà pháp luật quy định tương ứng với thời gian chậm trả lãi trên nợ gốc trong hạn”.

Tranh chấp liên quan đến tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

Tranh chấp liên quan đến tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất là một tranh chấp phổ biến trong tranh chấp HĐTD. Tuy nhiên, hiện nay nhiều vụ án Tòa án đã bác yêu cầu khởi kiện của TCTD về yêu cầu phát mại tài sản trên đất, nguyên nhân do:

(1) Khi ký hợp đồng thế chấp (HĐTC) thì hợp đồng không thể hiện rõ tài sản trên đất. Mặc dù, thực tế quyền sử dụng đất vào thời điểm thế chấp đã có tài sản là nhà ở hay các công trình trên đất nhưng vì các tài sản này không được ghi nhận trong hợp đồng nên không được yêu cầu phát mại tài sản trên đất.

(2) Tài sản trên đất dù đã có vào thời điểm ký HĐTC nhưng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi nhận tài sản trên đất. Khi khởi kiện, TCTD không cung cấp được biên bản thẩm định tài sản thế chấp hoặc có biên bản thẩm định tài sản khi thế chấp nhưng sơ sài, không phản ánh đầy đủ thực tế tài sản trên đất, không xác định giá trị của tài sản trên đất.

(3) Sau khi thế chấp người có tài sản bảo đảm sử dụng tài sản thế chấp đi góp vốn, hợp tác kinh doanh và cho những người khác xây dựng tài sản trên đất thế chấp. Khi ngân hàng khởi kiện phát sinh thêm nhiều vấn đề liên quan phức tạp.

Tranh chấp liên quan đến tài sản thế chấp là động sản

Ngoài việc sử dụng biện pháp bảo đảm tiền vay là thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thì trong hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp còn thế chấp các tài sản khác làm tài sản bảo đảm. Các tài sản bảo đảm này có thể là tài sản hình thành từ vốn vay như hàng hóa, máy móc, trang thiết bị phục vụ sản xuất, mạng truyền hình cáp... Một tài sản bảo đảm khác hay được đưa làm tài sản bảo đảm tiền vay là quyền đòi nợ từ hợp đồng với đối tác kinh doanh (hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng thi công, hợp đồng lắp đặt cung cấp cấp dịch vụ…). Đối với các trường hợp này, khi khách hàng vay mất khả năng thanh toán thì khả năng thu hồi nợ từ những tài sản bảo đảm này rất rủi ro. Nếu ngân hàng không kiểm soát việc sử dụng tiền vay, các tài sản hình thành từ vốn vay như sự luân chuyển của dòng tiền khi khách hàng nhận tiền vay, hay thông báo cho cơ quan, tổ chức có liên quan đến tài sản bảo đảm đã được thế chấp cho bên thứ ba biết để cùng phối hợp thực hiện thì việc tài sản bảo đảm này không còn để đảm bảo cho việc thu hồi nợ của ngân hàng.

Khi nhận thế chấp những tài sản bảo đảm không phải là bất động sản này, trong HĐTC cần ghi nhận rõ hiện trạng tài sản, miêu tả cụ thể chi tiết, không miêu tả chung chung dẫn tới khi xảy ra tranh chấp Tòa án không thông thể xác định được tài sản bảo đảm là gì, định giá sát thực tế thị trường đối với tài sản bảo đảm; thường xuyên có sự kiểm tra, giám sát tài sản bảo đảm.

Về quyết định trong công nhận giao dịch về nhà đất không đúng hình thức, chưa hoàn thành nghĩa vụ thuế

Khi ký HĐTD, ngân hàng thông thường ký các hợp đồng bảo đảm cho khoản vay, hợp đồng bảo đảm được lập thành văn bản. Hiện nay, các HĐTC nhà, đất đều phải công chứng, chứng thực, sau đó phải được đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật đối với từng giao dịch. Trên thực tế, tuy chỉ là biện pháp bảo đảm để thực hiện HĐTD, nhưng khi giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo đảm lại gây khó khăn, vướng mắc nhất cho Tòa án, do các văn bản pháp luật liên quan điều chỉnh vấn đề này thường xuyên thay đổi, thiếu thống nhất về nhận thức giữa các cấp Tòa án, đặc biệt là các HĐTC về nhà đất, hoặc nhà đất của bên thứ ba bảo đảm cho khoản vay của bị đơn là người vay tiền trong vụ tranh chấp. Nhiều vụ án quá thời hạn giải quyết do việc xác minh, thu thập chứng cứ bị kéo dài bởi đương sự không phối hợp; nhiều vụ án có hiệu lực pháp luật nhưng không thể thi hành được bởi đương sự chống đối quyết liệt không đồng ý cho TCTD xử lý tài sản thế chấp.

Bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thường nêu ra các lý do để cho rằng HĐTD vô hiệu để trốn tránh việc trả lãi vay cho ngân hàng và trốn tránh việc xử lý tài sản thế chấp. Các lý do đưa ra thường là người đại diện theo pháp luật của bị đơn ký không đúng thẩm quyền, ký HĐTD mà chưa được sự đồng ý của Hội đồng quản trị, Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng thành viên...

Vì vậy, các TCTD cần lưu ý khi ký HĐTD cũng như HĐTC cần thực hiện đầy đủ các thủ tục theo quy định của Bộ luật Dân sự, Luật doanh nghiệp, Luật các TCTD, Luật đất đai… trước khi cấp tín dụng cho các doanh nghiệp và nhận tài sản thế chấp nhằm hạn chế thấp nhất hậu quả là hợp đồng vô hiệu. Hiện nay trong nhiều vụ án, Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu nhưng không giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Tổ chức tín dụng cần phải biết những vụ án HĐTC, HĐTD có thể bị tuyên bố vô hiệu thì phải chủ động yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu để giải quyết triệt để trong cùng một vụ án.

2. Đề xuất, kiến nghị

Hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng

Để thực hiện pháp luật thống nhất, đồng bộ, cần cơ cấu lại hệ thống pháp luật về hợp đồng theo hướng tinh giản hóa là nhu cầu cấp thiết. Xác định vai trò của Bộ luật Dân sự là đạo luật “gốc”, tránh những trường hợp quan niệm về hợp đồng giữa pháp luật dân sự và pháp luật chuyên ngành có sự khác nhau hay trùng lặp gây khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền khi giải quyết tranh chấp.

Hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm nhằm khắc phục khó khăn trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm, cần quy định thống nhất giữa các văn bản pháp luật hiện hành nhằm tạo thuận lợi cho các bên liên quan cũng như cơ quan có thẩm quyền giải quyết về tài sản bảo đảm. Các nhà làm luật cần có những hướng dẫn cụ thể nhằm đảm bảo sự thuận lợi, công bằng và hợp lý trong xử lý tài sản bảo đảm nói chung và trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo các HĐTD nói riêng.

Về trình tự tố tụng đối với việc khởi kiện thu hồi nợ:

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về cụ thể về trình tự, thủ tục đối với các vụ án dân sự, kinh doanh, thương mại. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết, giữa các Tòa án đã có những quan điểm khác nhau về thẩm quyền giải quyết. Có Tòa án tôn trọng việc thỏa thuận của các bên đương sự trong các HĐTD hoặc HĐTC, tạo điều kiện cho TCTD tập trung xử lý các vụ việc thuận lợi, chấp nhận nội dung thỏa thuận chọn Tòa án nơi có trụ sở hoạt động của TCTD, chi nhánh, phòng giao dịch của TCTD. Tuy nhiên, thực tế có nhiều Tòa án không chấp nhận xử lý theo nội dung thỏa thuận như trên mà cho rằng Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nơi có tài sản thế chấp hoặc nơi thường trú của bị đơn. Do vậy, để các vụ kiện được giải quyết nhanh chóng, đúng quy định của pháp luật và thuận lợi cho các TCTD, khách hàng và những người có liên quan khi tham gia tố tụng thì các cơ quan tiến hành tố tụng nên có quan điểm thống nhất về nội dung này.

Về thỏa thuận phạt vi phạm:

Đây là một nội dung tương đối phức tạp, mặc dù Thông tư số 39/TT-NHNN ngày 30/12/2016 quy định về hoạt động cho vay của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng đã quy định khá rõ, tuy nhiên thực tiễn áp dụng còn có nhiều quan điểm khác nhau, do đó, cần có quy định cụ thể, chi tiết hơn để áp dụng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Về việc xác định mức lãi suất trong HĐTD:

Hiện nay, vấn đề này đã có hướng dẫn cụ thể tại Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm. Các cơ quan và người tiến hành tố tụng cần áp dụng thống nhất các quy định pháp luật về lãi suất, phạt vi phạm trong hợp đồng vay tài sản, tránh tình trạng cùng loại tranh chấp HĐTD nhưng cách hiểu và áp dụng khác nhau.

Về thi hành pháp luật:

Các cơ quan tiến hành tố tụng trên cơ sở những khó khăn, vướng mắc thực tế cần tổng hợp lại, đề xuất đến cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến giải quyết tranh chấp hợp đồng nói chung và HĐTD nói riêng, theo hướng giảm thiểu thời gian, chi phí, đơn giản hóa thủ tục, trình tự nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp.

Công khai thông tin giao dịch bảo đảm được đăng ký tại các trung tâm đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, Bộ Tư pháp; các hoạt động đang thực hiện nhằm hoàn thiện thể chế về giao địch bảo đảm; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các chủ thể khi tham gia ký kết HĐTD liên quan đến HĐTC cũng như các giao dịch đảm bảo khác. Bên cạnh đó, tuyên truyền, phổ biến rộng rãi các quy định về tín dụng, thế chấp tài sản bảo đảm nhằm nâng cao hiểu biết của người dân, giải quyết gốc rễ sâu xa, tránh những trường hợp người dân bị lợi dụng cho TCTD mượn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để vay, nhưng không hiểu bản chất là thế chấp tài sản để đảm bảo cho khoản nợ của tổ chức, cá nhân khác.

Để tháo gỡ trong công tác xử lý nợ xấu của các TCTD, Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu đã được gia hạn thời gian áp dụng đến hết ngày ngày 31/12/2023. Đây là quy định rất thuận lợi cho TCTD thu hồi nợ xấu. Điểm b khoản 2 điều 5 Nghị quyết này quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm quy định TCTD được quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của bên bảo đảm khi có đủ điều kiện quy định của nghị quyết và tại hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, cần phải có hướng dẫn cụ thể về quy trình, trình tự để ngân hàng xử lý tài sản bảo đảm trên thực tế mà không cần thiết phải khởi kiện tranh chấp HĐTD tại Tòa án như hiện nay.

Khuyến nghị đối với các TCTD:

Để hạn chế những vấn đề khó khăn, phức tạp khi khoản vay chuyển sang nợ xấu, bản thân các TCTD cần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ đối với nhân viên của TCTD khi thẩm định cho vay. Cần có chế tài xử lý đối với nhân viên có vi phạm khi giải ngân không đúng, thiếu trách nhiệm trong thẩm định tài sản bảo đảm… Bên cạnh đó, TCTD phải thường xuyên rà soát các khoản nợ xấu, thực hiện các quy trình thu hồi nợ khi cần thiết.

Xây dựng quy trình cho người có tài sản bảo đảm được giải chấp tài sản bảo đảm nhanh chóng, thuận lợi cho cả bên vay, bên cho vay và người có tài sản bảo đảm, phân chia tỉ lệ tài sản bảo đảm rõ ràng đối với các khoản vay có nhiều tài sản bảo đảm.

Các TCTD cần nắm rõ các quy định của pháp luật về chủ thể và thẩm quyền ký kết hợp đồng, nhất là với các doanh nghiệp. Ví dụ, đối với doanh nghiệp, thì phải do người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ký. Do đó, trước khi ký HĐTD, ngân hàng phải yêu cầu doanh nghiệp xuất trình giấy đăng ký kinh doanh để xem ai là người đại diện theo pháp luật, nếu doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật thì phải căn cứ vào điều lệ công ty và Luật doanh nghiệp. Hợp đồng tín dụng phải được ký kết đúng quy định của pháp luật và điều lệ doanh nghiệp. Đặc biệt là hồ sơ vay cần thiết phải lưu giữ cẩn thận những tài liệu về thẩm quyền ký của khách hàng vay như giấy ủy quyền ký HĐTD, ủy quyền ký khế ước nhận nợ… Đây là những tài liệu cần thiết để đảm bảo hiệu lực của hợp đồng tín dụng, căn cứ bảo vệ quyền lợi của TCTD khi xảy ra tranh chấp.

Đối với tài sản thế chấp là bất động sản thì cần phải thực hiện thẩm định tài sản thế chấp chặt chẽ, chụp ảnh hiện trạng trước khi thế chấp để lưu hồ sơ tín dụng; xác định rõ hiện trạng tài sản trên đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có sự khác biệt thế nào; ghi nhận rõ trong HĐTC có thế chấp tài sản trên đất hay không; xác minh những người sống trên đất có quyền lợi liên quan đến hình thành tài sản thế chấp không để tránh phát sinh những tranh chấp phức tạp sau này.

Khi nhận thế chấp tài sản là quyền thu đòi nợ từ hợp đồng kinh tế thì các TCTD phải có thông báo với tổ chức, cá nhân có liên quan đến thanh toán nợ đã được thế chấp. Theo dõi, yêu cầu khách hàng thường xuyên báo cáo về quá trình thực hiện hợp đồng, dòng tiền thanh toán các khoản phải thu từ hợp đồng thế chấp. Nếu cần thiết thì yêu cầu bên vay ký phụ lục sửa đổi, bổ sung hợp đồng được thế chấp để tiền thanh toán phải chuyển về tài khoản nơi TCTD nhận thế chấp nhằm đảm bảo thu hồi được nợ từ hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ.