Đánh giá về sự sáng tạo linh hoạt của Đảng trong đường lối lãnh đạo kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của đường lối và nghệ thuật quân sự Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng

26/04/2015 | 2150

phân tích tính đúng đắn sáng tạo trong đường lối kháng chiến chống Mỹ của đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [170.84 KB, 14 trang ]

Mục lục
Mục lục 1
Lời mở đầu 2
Phần 1: Tính đúng đắn sáng tạo trong đường lối kháng chiến chống Mĩ cứu nước .3
1. Tính đúng đắn, sáng tạo của đường lối kháng chiến chống Mỹ của Đảng giai
đoạn 1954 3
1.1 Hoàn cảnh lịch sử 3
1.2 Tính đúng đắn, sáng tạo trong hoạch định chính sách kháng chiến chống
Mỹ của Đảng ta 3
2. Tính đúng đắn, sáng tạo của đường lối kháng chiến chống Mỹ của Đảng giai
đoạn 1965-1975 7
2.1 Hoàn cảnh lịch sử 7
Phần 2: Bài học kinh nghiệm cho ngày nay 11
2.1 Kinh tế 11
2.2 Quốc phòng, an ninh, đối ngoại được tăng cường 11
2.3 Dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
được củng cố 12
2.4 Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt một số kết quả
tích cực 13
Kết luận 14
1
Lời mở đầu
Các cuộc chiến tranh đi qua để lại bao đau thương và mất mát. Ai cũng biết hậu quả
chiến tranh là to lớn biết bao. Song, không phải đất nước nào cũng có quyền chọn
cho mình nền hòa bình, tự do. Có những lúc họ không muốn chiến tranh, nhưng họ
buộc phải chiến đấu cho nền độc lập nước nhà. Và Việt Nam - đất nước chúng ta rơi
vào tình thế đó. Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ đi qua, chúng ta không
khỏi kinh hoàng trước những con số thiệt hại cả về người và của. Bây giờ chúng ta
đang hưởng nền hòa bình, chúng ta đang độc lập. Song, điều đó không có nghĩa là
chúng ta quên quá khứ, bởi lẽ không có quá khứ sẽ không có hiện tại và tương lai.
Chúng ta đã chiến đấu anh dũng trong các cuộc kháng chiến. Chúng ta có những


người lãnh đạo tài giỏi, chúng ta có Đảng lãnh đạo tài tình, chúng ta có sự đoàn kết
đồng lòng của dân tộc và chúng ta đã chiến thắng. Có rất nhiều yếu tố để tạo nên
thắng lợi vẻ vang trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, nhưng ở đây tôi
xin nêu ra một trong những nguyên nhân dẫn đến thắng lợi trong các cuộc kháng
chiến mà ít ai nghĩ đến đó là “nghệ thuật lãnh đạo”. Có thể nói vui: “Lãnh đạo là
một nghệ thuật và người lãnh đạo là một nghệ sĩ”, họ phải cân nhắc, sáng tạo để đưa
ra những sách lượt, chiến lược vào các thời điểm khác nhau, nhắm đem đến chiến
thắng mà ít tổn hại nhất. Người xưa có câu “nước không có vua như rắn mất đầu”
để nói rõ tầm quan trọng của người đứng đầu đất nước. Ở nước ta cũng vậy, từ khi
còn chiến tranh cho đến lúc hòa bình thì Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn giữ một vai
trò cực kì quan trọng trong tất cả các lĩnh vực của đất nước. Bây giờ tôi sẽ hướng
các bạn vào quá khứ, vào thời kì kháng chiến chống Mỹ để cùng phân tích nghệ
thuật lãnh đạo của đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Xuất phát từ những vấn
đề nói trên, tôi đã chọn đề tài.
2
Phần 1: Tính đúng đắn sáng tạo trong đường lối
kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
1. Tính đúng đắn, sáng tạo của đường lối kháng chiến chống Mỹ của
Đảng giai đoạn 1954.
1.1 Hoàn cảnh lịch sử.
Tình hình nước ngoài, phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và
châu Mỹ Latinh phát triển mạnh mẽ thêm vào đó phong trào hòa bình, dân chủ đang
lên cao ở các nước tư bản chủ nghĩa. Đây là một điều kiện thuận lợi để cổ vũ tinh
thần đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Tuy nhiên, trong giai đoạn này
cũng có những khó khăn: thế giới đang bước vào thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua
vũ trang giữa hai phe xă hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, sự xuất hiện những mẫu
thuẫn, bất đồng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc.
Về tình hình trong nước, đặc điểm lớn nhất của cách mạng Việt Nam sau Hiệp
định Giơ-ne-vơ là đất nước tạm thời chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị-
xã hội khác nhau: miền Bắc hoàn toàn độc lập, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, làm

căn cứ địa vững chắc cho cả nước tuy nhiên do mới được giải phóng nên kinh tế
miền Bắc còn nghèo nàn lạc hậu và xét về tiềm lực quân sự thì nước ta còn yếu hơn
Mỹ rất nhiều. Miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ. Trong giai
đoạn này, có một số những thuận lợi cho cách mạng nước ta đó là: thế và lực của
cách mạng đã lớn mạnh hơn sau 9 năm kháng chiến, toàn thể dân tộc Việt Nam một
lòng, quyết tâm thống nhất đất nước.
1.2 Tính đúng đắn, sáng tạo trong hoạch định chính sách kháng chiến
chống Mỹ của Đảng ta.
1.2.1 Đảng đã sớm nhận rõ và đánh giá đúng kẻ thù, có chủ trương,
đường lối phù hợp.
Nắm vững âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ ở Việt Nam và Đông Dương, nên
ngay trước ngày ký Hiệp định Giơnevơ, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung
ương Đảng [khóa II] từ ngày 15 đến ngày 17-7-1954, đã chỉ rõ: "Hiện nay đế quốc
Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực
3
tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc
Mỹ"
Tại hội nghị lần thứ bảy tháng 3-1955 và lần thứ tám tháng 8-1955 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng [khóa II] đã nhận định: Mỹ và tay sai đã hất cẳng Pháp ở miền
Nam, công khai lập nhà nước riêng chống phá Hiệp định Giơnevơ, đàn áp phong
trào cách mạng.
Tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ mười lăm.
Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước, Nghị quyết Hội nghị chỉ
rõ: Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách
thống trị của đế quốc và phong kiến, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền
Nam; Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi
nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Đó là con đường lấy sức mạnh của quần
chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp đấu tranh
chính trị và vũ trang để đánh đổ chính quyền thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay
sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền

Nam.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ mười lăm Ban Chấp hành Trung ương Đảng [khoá II]
có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những đã đáp ứng đúng nhu cầu của lịch sử, mở
đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh cách mạng
độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách
mạng.
1.2.2 Đảng ta đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến
lược là xây dựng miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền
Nam.
Tại hội nghị lần thứ bảy và lần thứ tám tháng [1955] Ban Chấp hành Trung ương
Đảng [khóa II] đã chỉ ra rằng: “Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hòa
bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra
sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân
dân miền Nam.”
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng
ta nhận định: Trong thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
không thể tách rời nhau, và ở nước ta, khi giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo
4
cách mạng thì thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu
của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã
hội, sự bắt đầu của thời kỳ thực hiện nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản. Từ
đó, Đảng ta đề ra và giải quyết vị trí, vai trò nhiệm vụ của cách mạng từng miền
cũng như mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng ở hai miền. Để củng cố miền
Bắc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ, trước hết cần hoàn thành cải cách
ruộng đất, chia ruộng đất cho nông dân, xóa bỏ chế độ sở hữu ruộng đất của giai
cấp địa chủ; đưa miền Bắc tiến dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội; kiện toàn lãnh
đạo các cấp và củng cố Mặt trận Dân tộc thống nhất. Nhiệm vụ của Đảng ở miền
Nam trong giai đoạn mới là: "lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh thực hiện
Hiệp định đình chiến, củng cố hòa bình, thực hiện tự do dân chủ, cải thiện dân
sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc lập. Đồng thời phải lãnh đạo nhân dân

đấu tranh chống những hành động khủng bố, đàn áp, phá cơ sở của ta, bắt bớ cán
bộ ta và quần chúng cách mạng, chống những hành động tiến công của địch, ngụy,
giữ lấy quyền lợi quần chúng đã giành được trong thời kỳ kháng chiến, nhất là ở
những vùng căn cứ địa và vùng du kích cũ của ta Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách
mạng ở hai miền cũng là quá trình Đảng ta cụ thể hoá đường lối Đại hội III của
Đảng. Trong khi đề ra nhiệm vụ cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
Đảng không chỉ căn cứ vào tình hình miền Bắc, mà còn căn cứ vào tình hình miền
Nam, đề ra những chủ trương không chỉ đáp ứng nguyện vọng của nhân dân miền
Bắc, nhân dân miền Nam, mà còn tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của tầng lớp
trên ở miền Nam có tinh thần dân tộc, yêu nước, mở rộng mặt trận dân tộc giải
phóng và tinh thần quốc tế. Bằng công cuộc xây dựng kinh tế - xã hội ở miền Bắc
trên đà “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc” lên CNXH, vừa bảo đảm đời sống
cho nhân dân miền Bắc, vừa tăng cường lực lượng làm hậu thuẫn và chi viện cho
cách mạng miền Nam. Sự gắn bó chặt chẽ giữa cách mạng XHXN ở miền Bắc và
cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam làm cho thế và lực của cách mạng cả
nước cũng như của miền Nam không ngừng tăng lên. Nhờ vậy, cách mạng miền
Nam đã sử dụng được sức mạnh tổng hợp của cả nước để tiến công địch, đánh bại
mọi chiến lược, chiến thuật của đế quốc Mỹ và tay sai.
Đây là sự sáng tạo của Đảng ta trong quá trình nhận thức và giải quyết mối quan hệ
giữa hoà bình và cách mạng khi đã trở thành vấn đề lý luận và thực tiễn nóng hổi.
Đường lối trên thể hiện tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta. Lý luận đó
5
đã được thực tiễn chứng minh, đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách
mạng khác nhau ở hai miền là đúng đắn, sáng tạo. Hai chiến lược cách mạng chẳng
những không mâu thuẫn mà còn hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển, đồng thời
góp phần làm phong phú lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về đường lối tiến hành đồng
thời hai chiến lược cách mạng trên phạm vi một nước bị chia cắt và đường lối
này chưa có tiền lệ trong lịch sử, chỉ duy nhất được thực hiện ở Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2.3 Đảng ta luôn giữ vững quan điểm độc lập, tự chủ, thực hiện

đường lối đối ngoại mềm dẻo, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ
của các nước trên thế giới, phát huy sức mạnh dân tộc và sức
mạnh thời đại.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta diễn ra trong bối cảnh
quốc tế phức tạp, với cả thuận lợi và không ít khó khăn. Kẻ thù của ta lại là một đế
quốc có sức mạnh kinh tế, kỹ thuật, quân sự hàng đầu thế giới, âm mưu của chúng
là chiếm miền Nam, tiến tới xâm chiếm cả nước ta; thực hiện chia rẽ Bắc - Nam và
chia rẽ các nước xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương cũng nêu rõ cần tăng cường công
tác Mặt trận để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân; củng cố, xây dựng Đảng bộ
miền Nam thật vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức để đủ sức lãnh đạo trực
tiếp cách mạng miền Nam.
Đường lối này đã phản ánh đúng nguyện vọng và ý chí quyết tâm của nhân dân ta,
dân tộc ta, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, con người Việt Nam và xu
thế tiến bộ của nhân loại, tạo sự đoàn kết nhất trí, phát huy sức mạnh toàn dân tộc,
đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và sự ủng hộ
của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, tạo sức mạnh tổng hợp để đánh Mỹ
và thắng Mỹ. Để thực hiện đường lối này, một mặt, chúng ta tập trung phát triển
tiềm lực của mình; mặt khác,thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn, mềm dẻo,
tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các nước trên thế giới, đặc biệt là sự đồng tình
ủng hộ và đoàn kết hiệp đồng chiến đấu của hai nước Lào, Cam-pu-chia, sự giúp đỡ
quý báu của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là Liên Xô, Trung Quốc, Cu-ba Về
vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có tầm nhìn chiến lược sâu rộng, sắc
sảo, sáng tạo lớn. Từ năm 1956, Người đã viết trên báo Sự thật của Liên Xô: "Trong
6
tình hình quốc tế hiện nay, những đặc điểm dân tộc và những điều kiện riêng biệt ở
từng nước ngày càng trở thành nhân tố quan trọng trong việc vạch ra chính sách của
mỗi Đảng cộng sản và những vấn đề được đề ra cho đảng này hoặc đảng khác
tuyệt nhiên không phải là việc riêng của mỗi đảng mà có quan hệ thiết thân đến toàn
bộ giai cấp vô sản quốc tế". Với tầm nhìn chiến lược ấy, Người giải thích với bạn bè

quốc tế rằng: "Việc dân tộc Việt Nam phải vạch ra những phương pháp và biện
pháp riêng của mình để chống âm mưu của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai hòng
vĩnh viễn chia cắt đất nước cũng như để quá độ dần dần lên CNXH là điều thật rõ
ràng, nhưng lúc này thì sự đoàn kết thực sự của phe XHCN và của các dân tộc yêu
chuộng hòa bình trên thế giới đối với chúng tôi cũng cần thiết không kém gì hồi
kháng chiến chống Pháp
2. Tính đúng đắn, sáng tạo của đường lối kháng chiến chống Mỹ của
Đảng giai đoạn 1965-1975.
2.1 Hoàn cảnh lịch sử
1 Từ đầu năm 1965, để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự phá
sản của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ đã ào ạt đưa quân Mỹ
và quân các nước chư hầu vào miền Nam, tiến hành cuộc “Chiến tranh cục
bộ” với quy mô lớn; đồng thời dùng không quân, hải quân hùng hổ tiến hành
cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc. Trước tình hình đó, Đảng ta đã
quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên phạm vi
toàn quốc.
Thuận lợi
- Khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cách mạng thế giới
đang ở thế tiến công. Ở miền Bắc, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã đạt và vượt
các mục tiêu về kinh tế, văn hoá. Sự chi viện sức người, sức của của miền Bắc
cho cách mạng miền Nam được đẩy mạnh cả theo đường bộ và đường biển.
- Ở miền Nam, vượt qua những khó khăn trong những năm 1961-9162, từ
năm 1963, cuộc đấu tranh của quân dân ta đã có bước phát triển mới. “Chiến
tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ được triển khai đến mức cao nhất đã cơ bản bị
phá sản.
Khó khăn
- Sự bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc càng trở nên gay gắt và không có
7
lợi cho cách mạng Việt Nam.
- Tương quan lực lượng giữa ta và địch bất lợi cho ta

2.2 Tính đúng đắn, sáng tạo của đường lối kháng chiến chống Mỹ của
Đảng giai đoạn 1965-1975.
2.2.1 Tranh thủ thời cơ từng bước tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.
Giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn là chủ trương chiến
lược đúng đắn, sáng tạo, thể hiện bản lĩnh, tầm nhìn và nghệ thuật chỉ đạo chiến
lược, điều hành chiến tranh sắc sảo của bộ não cách mạng Việt Nam. Chủ trương
chiến lược đó được thể hiện trong đường lối chính trị và quân sự; được thực hiện
bằng những biện pháp hiệu quả, thích hợp trong từng giai đoạn kháng chiến. Đảng
ta dự kiến, trên bước đường đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc,
cần thực hiện những bước đi phù hợp với điều kiện thực lực của cách mạng Việt
Nam lúc đó. Lực lượng vũ trang của ta ở miền Nam hầu hết đã tập kết ra miền Bắc,
Đảng đã chỉ đạo phát huy thế mạnh về chính trị của ta, dựa vào sức mạnh to lớn là
lực lượng chính trị của quần chúng. Và thực tế lịch sử chứng tỏ đó là một chủ
trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta. Đồng khởi năm 1960 của quân và dân ta ở
miền Nam đã làm thất bại một hình thức thống trị điển hình bằng chủ nghĩa thực
dân kiểu mới của Mỹ ở miền Nam, đưa cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực
lượng chuyển sang thế tiến công. Trên đà thắng lợi, ngày 20-12-1960, Mặt trận Dân
tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Ta đề ra mục tiêu phấn đấu trước mắt là
tập trung đánh đổ chính quyền Sài Gòn, thành lập ở miền Nam một chính quyền độc
lập và trung lập. Mục tiêu đó có sức tập hợp rộng rãi và ngày càng mạnh mẽ mọi
lực lượng yêu nước ở miền Nam, làm phân hóa nội bộ kẻ thù, góp phần tạo ra và
nhân lên sức mạnh tổng hợp của cuộc kháng chiến. Đến năm 1968, trên cơ sở thắng
lợi của Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, ta đã chủ động mở rộng
mặt trận đấu tranh ngoại giao, buộc phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải ngồi vào
bàn đàm phán tại Hội nghị Pa-ri, mở ra giai đoạn "vừa đánh vừa đàm". Nhằm thực
hiện phương hướng chiến lược mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ "Đánh cho Mỹ
cút, đánh cho ngụy nhào" và để biến phương hướng chiến lược đó thành hiện thực,
đồng thời với việc tiếp tục đẩy mạnh tiến công quân sự, trong quá trình đàm phán
chúng ta chủ trương thiết lập tại miền Nam một chính quyền liên hiệp ba thành
phần, xem đó là một bộ phận trong giải pháp cả gói buộc phía Mỹ phải chấp nhận

rút hết quân ra khỏi cuộc chiến, chấm dứt sự dính líu quân sự của Mỹ ở Việt Nam.
8
2.2.2 Kết hợp chặt chẽ và nhịp nhàng giữa đấu tranh chính trị với
đấu tranh quân sự.
Kết hợp chặt chẽ và nhịp nhàng giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự,
chúng ta đã triển khai và phát triển thế trận chiến tranh nhân dân trên ba vùng chiến
lược là rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị, thực hành chiến lược tiến công
địch cả về chính trị, quân sự và ngoại giao; đánh địch bằng phương thức kết hợp
giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, chiến tranh nhân dân địa phương
với chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực hợp thành. Quy mô, nhịp độ của đòn
tiến công quân sự cũng như thời cơ và chọn hướng tiến công là những nội dung
quan trọng trong nghệ thuật đánh thắng địch về quân sự. Trong giai đoạn địch thực
hiện chiến lược "chiến tranh đặc biệt", về quân sự, ta đề ra phương châm đấu tranh
"hai chân" "ba mũi" "ba vùng", nỗ lực đánh bại các thủ đoạn "thiết xa vận", "trực
thăng vận", "phượng hoàng vồ mồi", "trên đe dưới búa" của địch; tổ chức nhiều trận
đánh và tiến đến là một số chiến dịch tiêu diệt từng chiến đoàn quân đội Sài Gòn,
phá vỡ từng khu vực phòng thủ của chúng, góp phần đánh thắng chiến lược "chiến
tranh đặc biệt".
Khi địch buộc phải thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ" [1965-1968], Đảng ta
đã phân tích rất kỹ những điểm mạnh, yếu của cả ta và địch, chỉ đạo tìm cách đánh
Mỹ, trên cơ sở đó, quyết tâm ghìm chặt Mỹ và lãnh đạo toàn quân, toàn dân phát
huy sức mạnh tổng hợp đánh bại từng cố gắng chiến lược của đế quốc Mỹ, đánh bại
chúng trên chiến trường chính miền Nam. Sau thắng lợi đánh bại cuộc phản công
chiến lược lần thứ nhất của quân Mỹ [mùa khô 1965-1966], Quân ủy Trung ương
quyết định mở Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị, tạo hướng tiến công chiến lược
mới vào nơi yếu của địch trên chiến trường, buộc địch phải tiếp tục phân tán binh
lực lên vùng rừng núi, là nơi ta có điều kiện thực hiện tiêu diệt và ghìm chân một bộ
phận quan trọng lực lượng cơ động chiến lược của địch, làm đảo lộn thế bố trí chiến
lược của chúng trên toàn bộ chiến trường miền Nam, ngăn chặn không để địch mở
cuộc tiến công trên bộ ra khu vực nam Quân khu 4. Đầu năm 1968, bằng cuộc tiến

công Tết Mậu Thân, ta đã giáng cho địch một đòn chí mạng, buộc giới lãnh đạo Mỹ
phải đơn phương xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom miền Bắc, ngồi vào bàn
đàm phán, mở ra giai đoạn "vừa đánh vừa đàm".
9
Chiến lược "chiến tranh cục bộ" bị thất bại, đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược
"Việt Nam hóa chiến tranh", tìm cách rút bớt một bộ phận quan trọng quân Mỹ
nhưng vẫn duy trì chế độ thực dân mới của chúng ở miền Nam; tiến hành ngoại giao
xảo quyệt nhằm cô lập cách mạng Việt Nam và Đông Dương; mở rộng chiến tranh
đặc biệt ở Lào và xâm lược Cam-pu-chia, đồng thời đẩy mạnh đánh phá bằng không
quân ra miền Bắc. Đảng ta đã chỉ đạo nhanh chóng khôi phục thế trận ở miền Nam,
phối hợp chiến trường ba nước Đông Dương, mở các chiến dịch phản công đánh bại
âm mưu và hành động mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải lui về
phòng ngự chiến lược. Nhằm làm chuyển biến căn bản cục diện chiến trường, mở ra
khả năng giành thắng lợi quyết định, Đảng ta chỉ đạo mở cuộc tiến công chiến lược
trên toàn chiến trường miền Nam; đánh trả thắng lợi các cuộc đánh phá của không
quân Mỹ ra miền Bắc, mà đỉnh cao là đánh bại cuộc tập kích đường không chiến
lược bằng máy bay B52 của chúng vào tháng 12-1972. Thắng lợi của ta đã buộc Mỹ
phải ký kết Hiệp định Pa-ri về lập lại hòa bình ở Việt Nam, rút hết quân về nước.
10
Phần 2: Bài học kinh nghiệm cho ngày nay.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đã để lại cho đảng ta nhiều bài
học kinh nghiệm có giá trị thực tế sâu sắc cho ngày nay.
2.1 Kinh tế
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây
dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế
hoá thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường
đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp
tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh.
Việc kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước
đạt một số kết quả. Giai đoạn 2006 - 2010, doanh nghiệp nước ta tăng hơn 2,3 lần

về số doanh nghiệp và 7,3 lần về số vốn so với 5 năm trước. Doanh nghiệp cổ phần
trở thành hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến.
2.2 Quốc phòng, an ninh, đối ngoại được tăng cường.
Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa, an ninh
chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Thế trận quốc phòng toàn dân và thế
trận an ninh nhân dân được củng cố; tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng
cường, nhất là trên các địa bàn chiến lược, xung yếu, phức tạp. Công tác giáo dục,
bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh được triển khai rộng rãi. Sự phối hợp
quốc phòng, an ninh, đối ngoại được chú trọng hơn.
Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tiếp tục được củng cố, xây dựng theo
hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, thực sự là lực lượng
tin cậy của Đảng, nhà nước và nhân dân, làm tốt vai trò tham mưu, góp phần chủ
động phòng ngừa, làm thất bại âm mưu “diễn biến hoà bình”, hoạt động gây rối, bạo
loạn lật đổ của các thế lực thù địch; đấu tranh ngăn chặn và xử lý có hiệu quả các
hoạt động cơ hội chính trị, các loại tội phạm hình sự, nhất là tội phạm nguy hiểm,
có tổ chức, tội phạm ma tuý, tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm lợi dụng công
nghệ cao, sử dụng vũ khí nóng, chống người thi hành công vụ, tham gia tích cực, có
hiệu quả vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, hoạt động cứu hộ, cứu
nạn, phòng, chống và khắc phục thiên tai.
11
Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, góp phần tạo ra thế
và lực mới của đất nước. Phát triển quan hệ với các nước láng giềng, thiết lập và
nâng cấp quan hệ với nhiều đối tác quan trọng. Hoàn thành phân giới cắm mốc trên
đất liền với Trung Quốc, tăng dày hệ thống mốc biên giới với Lào, hoàn thành một
bước phân giới cắm mốc trên đất liền với Campuchia, bước đầu đàm phán phân
định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc và thúc đẩy phân định biển
phía Tây Nam với các nước liên quan. Quan hệ với các đảng cộng sản và công
nhân, đảng cánh tả, đảng cầm quyền và một số đảng khác; hoạt động đối ngoại nhân
dân tiếp tục được mở rộng. Công tác về người Việt Nam ở nước ngoài đạt kết quả
tích cực. Thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, đối thoại cởi mở, thẳng thắn về tự

do, dân chủ, nhân quyền.
Nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới [WTO], ký kết hiệp định thương
mại tự do song phương và đa phương với một số đối tác quan trọng mở rộng và
tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác, góp phần quan trọng vào việc tạo dựng
và mở rộng thị trường hàng hoá, dịch vụ và đầu tư của Việt Nam, thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài, tranh thủ vốn hỗ trợ phát triển chính thức [ODA] và các nguồn
tài trợ quốc tế khác.
2.3 Dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc được củng cố.
Đảng và Nhà nước tiếp tục đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát huy hơn
nữa quyền làm chủ, bảo đảm lợi ích của nhân dân, vai trò giám sát của nhân dân đối
với hoạt động của các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức. Công tác dân vận của hệ thống chính trị có nhiều đổi mới cả về nội
dung và hình thức. Các cấp uỷ đảng, chính quyền lắng nghe, tăng cường đối thoại
với các tầng lớp nhân dân, tôn trọng các loại ý kiến khác nhau. Dân chủ trong Đảng,
trong các tổ chức và xã hội được mở rộng, nâng cao quyền làm chủ của nhân dân
được phát huy tốt hơn. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý
các hành vi vi phạm pháp luật được coi trọng.
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục được mở rộng
và tăng cường trên cơ sở thống nhất về mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phát
12
huy tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố, mở
rộng tổ chức, phát triển đoàn viên, hội viên, tổ chức nhiều phong trào thi đua, nhiều
cuộc vận động có hiệu quả thiết thực cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội,
góp phần tích cực vào những thành tựu của đất nước.
2.4 Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt một số
kết quả tích cực

Công tác lý luận đã chủ động nghiên cứu nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của công
cuộc đổi mới, diễn biến mới của tình hình thế giới; giá trị khoa học, cách mạng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tập trung vào tổng kết và bổ sung,
phát triển Cương lĩnh, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020
và các văn kiện khác trình Đại hội XI của Đảng.
Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng có đổi mới. Coi trọng hơn nhiệm
vụ xây dựng đạo đức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; tập trung chỉ đạo có kết
quả bước đầu cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”, gắn với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chủ động hơn trong đấu tranh
chống “diễn biến hoà bình”, bác bỏ các quan điểm sai trái, luận điệu tuyên truyền
của các thế lực thù địch. Các hoạt động thông tin, báo chí, xuất bản được quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo chú trọng ngăn ngừa, khắc phục những lệch lạc, nhất là biểu hiện
xa rời tôn chỉ, mục đích. Công tác thông tin đối ngoại được đẩy mạnh. Đa số cán
bộ, đảng viên và nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc
đổi mới và triển vọng phát triển của đất nước. Tư tưởng tích cực vẫn là xu hướng
chủ đạo trong đời sống xã hội.
Việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đạt được một số kết quả; chú trọng hơn xây dựng,
củng cố tổ chức cơ sở đảng ở những vùng, lĩnh vực trọng yếu, có nhiều khó khăn.
13
Kết luận
Cuộc kháng chiến chống Mỹ đi qua, nhưng nhưng ý nghĩa và bài học kinh
nghiệm của nó thì mãi mãi tồn tại cho đến ngày nay và mai sau. Chính vì thế chúng
tôi làm bài thảo luận này mong một phần nào đó khơi dậy lại truyền thống yêu nước
của dân tộc. Từ đó chúng ta thấy được tầm quan trọng của Đảng trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước. Sự lãnh đão đúng đắn, kịp thời và sáng tạo của Đảng đã
giúp chúng ta có được độc lập, tự do hiện nay.
Là sinh viên những chủ nhân tương lai của đất nước không những có trách
nhiệm với gia đình mà còn phải có trách nhiệm đối với toàn xã hội. Thực hiện đúng
các chủ trương chính sách mà đảng đề ra. Kiên quyết bài trừ những nguồn tin xấu

nhằm phá hoại đảng.


14

Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975

Ngày đăng: 28/04/2020 03:23
Mặc định Cỡ chữ
Đại thắng mùa Xuân 1975 được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang sử chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc.

Báo cáo Chính trị tại Đại hội lần thứ IV của Đảng [tháng 12/1976] đã khẳng định: "Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả tổng hợp của một loạt nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam. Nguồn gốc của mọi nhân tố ấy chính là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta", mà "trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Đảng".

Đặc điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam sau Hiệp định Geneva năm 1954 là đất nước tạm thời chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Miền Bắc hoàn toàn độc lập, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Miền Nam bị đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đặt ách thống trị, nhân dân bị kìm kẹp, đàn áp rất tàn bạo. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15 [tháng 01/1959], tiếp sau đó là Nghị quyết Đại hội lần thứ III của Đảng [tháng 9/1960] đã hoàn chỉnh đường lối cách mạng Việt Nam là giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng: “Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. Hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau". Với đường lối đúng đắn, sáng tạo, Đảng ta đã động viên được sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc và sức mạnh của thời đại, sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, trước hết là của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, đặc biệt là sự đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung của ba nước Đông Dương [Việt Nam, Lào và Campuchia], tạo nên sức mạnh tổng hợp để từng bước đánh thắng kẻ thù.

Tại rừng cao su Biên Hòa [Đồng Nai], lễ chuyển giao cờ chiến thắng cho Đại đội 2 [đơn vị hai lần anh hùng] thuộc Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 3, Sư đoàn 304 trước khi vào giải phóng Sài Gòn.

Sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng trong Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975 thể hiện những nội dung chính sau đây:

Một là, đánh giá đúng tình hình, nắm vững thời cơ, hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam chính xác.

Sau Hiệp định Paris năm 1973, quân Mỹ và chư hầu buộc phải rút khỏi Việt Nam nhưng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ vẫn tiếp tục. Mỹ sử dụng chính quyền và quân đội Sài Gòn làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân kiểu mới, tiến hành chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ”, buộc quân và dân ta phải đánh trả để bảo vệ vùng giải phóng, giữ vững hiện trạng. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 [khóa III] chỉ rõ: “Con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên”. Phương hướng chủ động tích cực, có lợi nhất cho sự nghiệp cách mạng của cả nước trong giai đoạn này là luôn luôn giương cao ngọn cờ hòa bình và chính nghĩa, đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao, buộc địch phải thi hành hiệp định để thắng địch. Đồng thời hội nghị xác định: “Chủ động chuẩn bị sẵn sàng cho trường hợp phải tiến hành chiến tranh cách mạng trên khắp chiến trường miền Nam để giành thắng lợi hoàn toàn”.

Nghị quyết Trung ương 21 [khóa III] của Đảng đã chỉ đường, dẫn lối cho sự nghiệp giải phóng miền Nam Việt Nam liên tiếp giành được thắng lợi, cục diện chiến trường chuyển biến nhanh về chiến lược, tạo bước ngoặt căn bản về tương quan so sánh giữa lực lượng giữa ta và địch, dẫn tới Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975.

Hội nghị Bộ Chính trị họp lần thứ nhất từ ngày 30/9/1974 đến ngày 08/10/1974; lần thứ hai từ ngày 18/12/1974 đến ngày 08/01/1975, trên cơ sở nắm chắc, đánh giá đúng tình hình thế giới, trong nước, nhất là so sánh lực lượng ta - địch, điểm mạnh và điểm yếu của chính quyền Sài Gòn sau khi đế quốc Mỹ rút quân khỏi miền Nam và khả năng của ta… đã hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm [1975-1976]; đồng thời xác định nhiệm vụ: Nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc.

Theo dõi sự phát triển cực kỳ mau lẹ của tình hình, Bộ Chính trị, Thường vụ Quân ủy Trung ương đã có những quyết định kịp thời khi thời cơ mới xuất hiện, chuyển kế hoạch cơ bản giải phóng miền Nam từ hai năm [1975-1976] lúc đầu, sang kế hoạch rút xuống còn một năm rồi quyết định kết thúc trước mùa mưa năm 1975. Đảng đã lãnh đạo quân và dân ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn chiến trường miền Nam, đánh tan toàn bộ ngụy quân với số lượng hơn một triệu tên và bộ máy ngụy quyền Sài Gòn, xóa bỏ chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ ở miền Nam Việt Nam.

Hai là, chọn đúng hướng và mục tiêu tiến công chủ yếu, làm thay đổi hoàn toàn cục diện chiến tranh, theo hướng có lợi cho ta.

Trong lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh, việc chọn hướng và mục tiêu tiến công chủ yếu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng [nhất là kinh nghiệm qua Chiến dịch Biên Giới 1950; tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954; Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968; tiến công chiến lược 1972...] cho thấy, chọn đúng hướng, mục tiêu chủ yếu của cuộc tiến công chiến lược sẽ làm thay đổi cục diện chiến trường, hình thành thế và lực mới, tạo ra bước ngoặt của chiến tranh. Thắng trận mở đầu có ý nghĩa rất quan trọng, tạo ra khí thế, niềm tin, thúc đẩy sự phát triển của chiến tranh và là đòn đánh mạnh vào ý chí, tinh thần quân địch, dẫn tới sự suy sụp, tan rã, thất bại của chúng.

Đầu năm 1975, sau thắng lợi giải phóng tỉnh Phước Long, Bộ Chính trị và Thường vụ Quân ủy Trung ương quyết định chọn hướng tiến công chính là nam Tây Nguyên, mục tiêu chủ yếu, trận mở đầu là đánh và giải phóng Buôn Ma Thuột. Quyết định này của Đảng được hình thành trên cơ sở phân tích khoa học so sánh thế và lực giữa ta và địch, xu thế phát triển của tình hình trong giai đoạn cuối cuộc chiến tranh, căn cứ vào sự bố trí lực lượng và âm mưu chiến lược của Mỹ-ngụy trên chiến trường và kết quả công tác chuẩn bị của ta trong hai năm 1973-1974. Vào đầu năm 1975, do phán đoán sai lầm kế hoạch của ta, Mỹ-ngụy không thay đổi thế bố trí chiến lược mạnh ở hai đầu là Trị Thiên [quân khu I của địch] và miền Đông Nam Bộ [quân khu III của ngụy]. Ở Tây Nguyên, nhờ tài năng nghi binh chiến lược và khả năng giữ bí mật của quân và dân ta, địch mắc sai lầm khi nhận định nếu ta tấn công Tây Nguyên thì sẽ tấn công từ hướng Bắc xuống, nên đã tập trung lực lượng vào khu vực phòng thủ chính ở Pleiku và Kon Tum. Buôn Ma Thuột là vị trí hiểm yếu, địch yếu và phòng thủ sơ hở. Chọn Nam Tây Nguyên và Buôn Ma Thuột làm hướng và mục tiêu tiến công chủ yếu, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta về nghệ thuật chỉ đạo chiến lược, chiến dịch trong chiến tranh.

Đòn điểm huyệt Buôn Ma Thuột và chiến thắng của Chiến dịch Tây Nguyên làm xuất hiện nhân tố mới, trực tiếp làm xoay chuyển cục diện chiến trường theo hướng có lợi cho ta, đưa chiến tranh cách mạng ở miền Nam phát triển nhảy vọt. Kể từ đây, với sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Thường vụ Quân ủy Trung ương, việc lựa chọn hướng, mục tiêu chủ yếu trong tất cả các chiến dịch để đi đến ngày toàn thắng đều chính xác. Ngay khi Chiến dịch Tây Nguyên chưa kết thúc, Bộ Chính trị đã kịp thời chỉ đạo mở các mũi tiến công vào quân khu I của địch lúc đó đã bị cô lập, nhằm vào mục tiêu quan trọng là Huế và Đà Nẵng. Điện của Bộ Chính trị ngày 01/4/1975 chỉ đạo rõ: “Trước mắt, như trước đã định, nay cần làm nhanh hơn, gấp rút tăng thêm lực lượng ở hướng tây Sài Gòn, thực hiện chia cắt và bao vây chiến lược, triệt hẳn Đường số 4 và áp sát Sài Gòn. Đồng thời, nhanh chóng tập trung lực lượng ở hướng đông và đông-nam, đánh chiếm những mục tiêu quan trọng, thực hiện bao vây, cô lập hoàn toàn Sài Gòn từ phía Long Khánh, Bà Rịa-Vũng Tàu”. Sau khi lực lượng địch ở quân khu I, quân khu II bị loại khỏi vòng chiến đấu, cùng với những hoạt động của quân và dân ta ở quân khu III, quân khu IV của địch đã được đẩy mạnh, địch bị tiêu diệt và tan rã hàng chục vạn quân; trên đà thắng lợi, lực lượng của ta ngày càng mạnh, thế trận vững chắc... Tình hình đó đã chín muồi để ta mở trận quyết chiến chiến lược tại Sài Gòn-Gia Định, sào huyệt cuối cùng của địch.

Ba là, tổ chức và từng bước đưa cuộc chiến tranh nhân dân phát triển đến đỉnh cao, tạo nên sức mạnh tổng hợp áp đảo đối phương trong chiến dịch quyết chiến chiến lược, kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã tổ chức và từng bước đưa cuộc chiến tranh nhân dân phát triển đến đỉnh cao; thực hiện toàn dân đánh giặc, không phân biệt tiền tuyến, hậu phương. Điều đó đã động viên và phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp; sức mạnh của hậu phương lớn miền Bắc vừa chiến đấu, xây dựng, vừa chi viện đắc lực sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam, kết hợp với sức mạnh của đồng bào và chiến sĩ miền Nam trực tiếp trên tuyến đầu đánh Mỹ và thắng Mỹ.

Đảng ta đã kiên định và vận dụng sáng tạo quan điểm về con đường cách mạng miền Nam phải là con đường cách mạng bạo lực, với hai lực lượng cơ bản: Lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang; kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao; kết hợp khởi nghĩa với chiến tranh cách mạng; đánh địch bằng ba mũi giáp công: Quân sự, chính trị, binh vận; trên cả ba vùng chiến lược: Rừng núi, nông thôn đồng bằng và thành thị; kết hợp chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, thực hiện đánh địch trên mọi quy mô: Đánh lớn, đánh vừa, đánh nhỏ của lực lượng vũ trang ba thứ quân [bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích]; thực hiện làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để giành quyền làm chủ.

Trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, cũng như trong từng chiến dịch, ta đã quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công, vận dụng phương pháp tác chiến, hình thức tác chiến hết sức linh hoạt, táo bạo, sáng tạo, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nên đã đạt hiệu suất, hiệu quả chiến đấu cao. Chúng ta đã phát triển lên một bước mới cách đánh truyền thống của chiến tranh nhân dân: kết hợp tiến công và nổi dậy; kết hợp, phối hợp tác chiến của lực lượng vũ trang ba thứ quân; kết hợp cả đánh lớn, đánh vừa và đánh nhỏ... Ta đã mở những chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, quan hệ chặt chẽ với nhau, theo ý định chiến lược thống nhất: Thực hiện chia cắt, bao vây, phá vỡ hệ thống phòng thủ chiến lược của địch, tiêu diệt và làm tan rã bộ phận lớn quân địch, kết hợp với tiến công rộng khắp ở quy mô vừa và nhỏ của lực lượng vũ trang địa phương và nổi dậy mạnh mẽ giành quyền làm chủ của quần chúng.

Trong các chiến dịch tiến công, ta đã vận dụng linh hoạt phương pháp tác chiến và các hình thức, thủ đoạn tác chiến: Tiến công trận địa, bao vây, chia cắt, đột phá thọc sâu... làm cho địch liên tiếp bị bất ngờ về nhiều mặt, không thể đối phó như ở Tây Nguyên; khi thì bị bất ngờ về cách đánh như ở Huế, hoặc thời gian tiến công rất nhanh như ở Đà Nẵng; khi thì bị bất ngờ cả về thời gian, tốc độ tiến công và quy mô tập trung lực lượng của ta như Chiến dịch Hồ Chí Minh. Nhưng trên hết, cả bộ máy chiến tranh của Mỹ-ngụy đều bị bất ngờ khi ta tổ chức cuộc Tổng tiến công chiến lược. Đối phương cho rằng ta chưa đủ khả năng mở cuộc Tổng tiến công chiến lược vào năm 1975. Đây là điểm mấu chốt khiến chúng hoàn toàn bị động về chiến lược, nên thất bại là tất yếu.

Cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975 là đỉnh cao của sự kết hợp giữa tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công nhằm đánh bại và làm tan rã toàn bộ lực lượng địch, kết thúc chiến tranh trong thời gian ngắn, có lợi nhất, thể hiện nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh và tài thao lược quân sự sắc bén, sáng tạo, táo bạo mà đúng đắn của Đảng ta. Sự kết hợp giữa tiến công quân sự của bộ đội chủ lực và nổi dậy của quần chúng được kết hợp chặt chẽ, hiệu quả trong suốt cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975. Những đòn tiến công quân sự của bộ đội chủ lực, bằng một loạt trận đánh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, đánh thẳng vào các thành thị, trung tâm đầu não, căn cứ quân sự lớn của địch, tiêu diệt, làm tan rã lực lượng lớn và gây cho chúng hoang mang tột độ đã tạo điều kiện thuận lợi để hỗ trợ, thúc đẩy lực lượng chính trị của quần chúng nổi dậy, đập tan bộ máy kìm kẹp của địch ở địa phương, để giành quyền làm chủ. Sự nổi dậy mạnh mẽ của lực lượng quần chúng đông đảo trên nhiều địa bàn từ nông thôn đến thành thị, với nhiều hình thức phong phú, linh hoạt đã tạo thuận lợi cho bộ đội chủ lực cả về thế, lực và điều kiện để nhanh chóng đập tan sự kháng cự của địch; đồng thời, tạo điều kiện để tập trung lực lượng vào những mục tiêu chủ yếu của cuộc tổng tiến công chiến lược.

Chiến dịch quyết chiến chiến lược cuối cùng là minh chứng rõ ràng nhất cho sức mạnh từ đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng. Ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị phê chuẩn đề nghị của Bộ Chỉ huy Chiến dịch đặt tên chiến dịch tiến công giải phóng Sài Gòn-Gia Định là Chiến dịch Hồ Chí Minh, khẳng định đây là “một chiến dịch tiến công hợp đồng binh chủng quy mô lớn, có kết hợp với nổi dậy của quần chúng kết thúc chiến tranh”. Năm cánh quân tiến vào Sài Gòn có lực lượng tương đương 5 quân đoàn binh chủng hợp thành, cùng với lực lượng hậu cần phục vụ chiến dịch hùng hậu 18 vạn người tạo nên một thế trận với sức mạnh áp đảo hoàn toàn, bảo đảm thắng lợi chắc chắn, nhanh chóng và trọn vẹn. Thành ủy Sài Gòn-Gia Định đã điều động 1.700 cán bộ vào các quận nội thành và các xã vùng ven đô cùng với cấp ủy, chính quyền địa phương vận động quần chúng nổi dậy, phối hợp với đòn tiến công của bộ đội chủ lực. Lực lượng vũ trang của thành phố với 2 trung đoàn, 5 tiểu đoàn bộ binh, đặc công biệt động và 3.500 du kích, tự vệ ráo riết chuẩn bị phương án chiến đấu phối hợp và dẫn đường cho các binh đoàn chủ lực đánh chiếm các mục tiêu. Các đoàn thể nhân dân bí mật may cờ, in truyền đơn, viết khẩu hiệu chào đón bộ đội. Nắm vững tư tưởng chỉ đạo và nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị, quân và dân ta đã biểu thị sự nhất trí rất cao trong hành động, muôn người như một, đập tan mọi sự kháng cự của địch, giành thắng lợi hoàn toàn.

Rõ ràng là, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975. Tập trung, thống nhất, trách nhiệm, kỷ luật, thần tốc, táo bạo là nét nổi bật trong sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm giành thắng lợi cuối cùng. Đại thắng mùa Xuân 1975 mãi mãi là niềm tự hào của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975 để lại ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm vẫn còn nguyên giá trị đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Niềm vinh dự, tự hào và trách nhiệm của chúng ta là tiếp tục nghiên cứu, vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm đó để kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới./.

Đại tướng LƯƠNG CƯỜNG, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam

Theo: qdnd.vn

Về trang trước
Gửi email In trang

Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của đường lối và nghệ thuật quân sự Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng

08:08 24/04/2015
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa xuân 1975 đã kết thúc thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của quân và dân ta, tạo bước ngoặt trong lịch sử dân tộc, mở ra kỷ nguyên mới đối với nước ta - kỷ nguyên độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thể hiện sâu sắc sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Đó cũng là một sự kiện có tầm vóc quốc tế to lớn và mang tính thời đại sâu sắc. Thắng lợi đó bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó nhân tố quyết định nhất là nhờ có sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, phát huy cao độ nghệ thuật quân sự độc đáo Việt Nam.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta [1954 - 1975] là sự tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân. Trong điều kiện đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn cứ vào tình hình quốc tế, trong nước, so sánh thế và lực giữa ta và địch, nắm vững phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, đề ra đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo và tổ chức thực hiện đường lối đó phù hợp với điều kiện cụ thể và sự phát triển của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.

Đặc điểm lớn nhất và cũng là nét độc đáo của cách mạng nước ta từ tháng 7/1954 đến tháng 5/1975, đó là Đảng ta đã thực hiện đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, nhằm một mục tiêu chung là hoàn thành độc lập, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đảng ta xác định: miền Bắc là hậu phương lớn, sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự nghiệp cách mạng của cả nước; miền Nam là tiền tuyến lớn, cách mạng miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam. Mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng ở hai miền Nam - Bắc là mối quan hệ hữu cơ, gắn bó chặt chẽ với nhau, thúc đẩy và hỗ trợ nhau cùng phát triển.

Đó là nét độc đáo chưa có tiền lệ trong lịch sử và là thành công lớn của Đảng ta; đồng thời, là nguyên nhân chủ yếu, nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước lâu dài, gay go, quyết liệt của nhân dân ta.

Việc xác định đường lối cách mạng độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo đã thể hiện tầm nhìn xa trông rộng, tư duy chiến lược, tài thao lược xuất sắc của Đảng, nhất là ở những thời điểm mang tính bước ngoặt của cuộc kháng chiến.

Trước tình hình chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm thực hiện chính sách "tố cộng", "diệt cộng", lê máy chém đi khắp miền Nam, thẳng tay đàn áp các chiến sĩ cách mạng và quần chúng nhân dân, phong trào cách mạng miền Nam phát triển khó khăn, tháng 1/1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tổ chức Hội nghị lần thứ 15 [mở rộng], dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định con đường tiến lên của cách mạng miền Nam, vạch rõ mục tiêu và phương pháp cách mạng, mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng ở hai miền, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới nhằm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất nước nhà.

Nghị quyết Trung ương 15 chỉ rõ: con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân; ngoài ra không có con đường nào khác. Chủ trương đúng đắn đó của Đảng đã tạo ra "làn gió mới", khí thế mới, trở thành động lực thúc đẩy cách mạng miền Nam vững bước tiến lên.

Mở đầu là phong trào Đồng khởi vào cuối năm 1959, sau đó nhanh chóng phát triển thành cao trào Đồng khởi trên khắp miền Nam. Thắng lợi của phong trào Đồng khởi đã tạo bước ngoặt, đưa cách mạng miền Nam chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.

Xe tăng quân Giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập trưa 30/4/1975. Ảnh: Ngọc Đản.

Đây là sự mở đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước rất độc đáo, sáng tạo; đồng thời, là cơ sở để Đảng ta tiếp tục phát triển chiến tranh toàn dân, toàn diện và đánh bại các chiến lược: "chiến tranh đặc biệt" [1961 - 1965], "chiến tranh cục bộ" [1965 - 1968], "Việt Nam hoá chiến tranh" [1969 - 1973] của đế quốc Mỹ, "đánh cho Mỹ cút", tiến tới "đánh cho ngụy nhào", giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Cùng với việc đề ra đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn, sáng tạo, Đảng ta đã kiên định phương pháp cách mạng bạo lực tổng hợp, gồm hai lực lượng chủ yếu là lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân, kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang được tiến hành trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đồng thời, kiên trì thực hiện tư tưởng chiến lược tiến công.

Tư tưởng đó được thực hiện không chỉ trong lúc địch "xuống thang" mà ngay cả khi chúng "leo thang" chiến tranh; và không chỉ đối với chiến tranh cách mạng ở miền Nam, mà cả trong cuộc chiến đấu bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Chiến lược tiến công được thực hiện ở mọi thời điểm, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, với phương châm: "đánh lui từng bước, đánh đổ từng bộ phận, kéo địch xuống thang từng bước, tiến tới đánh bại hoàn toàn quân địch, giành thắng lợi quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước".

Sau khi Hiệp định Paris được ký kết [27/1/1973], quân đội viễn chinh Mỹ buộc phải cuốn cờ rút khỏi miền Nam Việt Nam [29/3/1973], cục diện chiến trường chuyển biến có lợi cho ta. Nắm vững thời cơ chiến lược được mở ra sau gần hai mươi năm chiến đấu, Hội nghị Trung ương lần thứ 21 [khoá III] họp hai đợt [đợt I từ ngày 19/6 đến ngày 6/7/1973, đợt II từ ngày 1/10 đến ngày 4/10/1973] đã khẳng định và củng cố quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc trong thời gian sớm nhất. Năm 1974, quân và dân ta mở các cuộc tiến công tạo thế trên khắp các chiến trường miền Nam, làm cho đối phương bị động, đối phó.

Sau chiến thắng Thượng Đức, Đồng Xoài, nhất là thắng lợi của Chiến dịch Đường 14 - Phước Long, đã tạo cơ sở để Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng hạ quyết tâm, thực hiện kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976, đồng thời có phương án nếu thời cơ xuất hiện thì giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975, thậm chí trước mùa mưa năm 1975.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nghệ thuật quân sự và chiến tranh nhân dân Việt Nam đã phát triển tới đỉnh cao. Nhân tố bảo đảm cho sự phát triển không ngừng của chiến tranh nhân dân đó là lực lượng vũ trang nhân dân, gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích được xây dựng vững mạnh, bố trí rộng khắp; trong đó, các binh đoàn chủ lực giữ vai trò nòng cốt trong các chiến dịch, thực hiện tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng quy mô lớn.

Nắm vững quy luật chiến tranh, vận dụng và thực hiện sáng tạo nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân, chúng ta đã từng bước chuyển hóa cục diện chiến trường theo hướng có lợi, luôn đánh địch trên thế mạnh, thế chủ động, thế bất ngờ.

Nét đặc sắc, độc đáo của chiến tranh nhân dân còn được thể hiện ở chỗ đã kết hợp chặt chẽ các nhân tố "thế, lực, thời, mưu" trong từng trận đánh, từng chiến dịch một cách linh hoạt, làm cho địch không thể lường được các hướng, mũi, lực lượng và sức mạnh tiến công của ta. Đó là cơ sở để Đảng ta kiên trì thực hiện phương châm chiến lược: đánh đổ từng bộ phận quân địch, giành thắng lợi từng bước, tiến tới đánh bại hoàn toàn quân địch, giành thắng lợi cuối cùng bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa xuân 1975.

Đảng ta đặc biệt coi trọng và phát huy hiệu quả công tác Đảng, công tác chính trị trong Quân đội; trong các chiến dịch. Kế thừa kinh nghiệm công tác Đảng, công tác chính trị được tiến hành từ khi Quân đội ta mới thành lập và trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, công tác Đảng, công tác chính trị trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã được phát triển lên một bước mới, phong phú về nhiều mặt, thực sự là "linh hồn, mạch sống" của Quân đội ta.

Căn cứ vào tình hình thực tế trên chiến trường, công tác Đảng, công tác chính trị đã tập trung xây dựng quyết tâm chiến đấu, làm cho toàn quân nhất trí cao với đường lối, chủ trương của Đảng, cả về mục tiêu chiến lược, thời cơ chiến lược, phương châm chỉ đạo chiến lược, phương thức tác chiến để giành thắng lợi.

Chủ động chỉ đạo làm tốt chức năng "đội quân công tác" ở vùng mới giải phóng, phát huy vai trò của lực lượng vũ trang địa phương, nhân dân trên địa bàn tác chiến chiến dịch. Công tác Đảng, công tác chính trị đã trực tiếp định hướng tư tưởng bộ đội, khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước, sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt ở miền Bắc, tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất của đồng bào miền Nam "thành đồng Tổ quốc".

Qua đó, tạo động lực chính trị - tinh thần to lớn cho đồng bào và chiến sĩ cả nước trong cuộc đọ sức quyết liệt với kẻ thù xâm lược. Hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị còn góp phần xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ phương pháp tư duy quân sự cách mạng, khoa học; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa con người và vũ khí; giữa chính trị và quân sự; giữa dân chủ, kỷ luật và đoàn kết.

Về công tác tổ chức, xây dựng Đảng, đã tập trung xây dựng "chi bộ 4 tốt" kết hợp với xây dựng các trung đoàn, sư đoàn vững mạnh; tăng cường rèn luyện đảng viên gắn với rèn luyện cán bộ; duy trì nghiêm các nền nếp sinh hoạt, hoạt động của các tổ chức Đảng trong điều kiện chiến tranh; thường xuyên chăm lo bảo đảm chính sách đối với bộ đội và hậu phương quân đội. Đội ngũ cán bộ chính trị các cấp được kiện toàn, bồi dưỡng về phẩm chất, năng lực nên có sự phát triển nhanh chóng và khẳng định vai trò quan trọng trong thực tiễn chiến đấu.

Đặc biệt, Đảng ta hết sức chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược có đủ "tâm", đủ "tầm" và kinh nghiệm chỉ đạo tác chiến. Hình ảnh những vị tư lệnh, chính ủy các binh đoàn chủ lực mẫu mực, xông xáo, quyết đoán, toàn tâm toàn ý với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc mãi mãi để chúng ta tôn vinh và học tập.

Hoạt động hiệu quả của công tác Đảng, công tác chính trị cùng với các mặt công tác khác đã thực sự làm cho đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng đi vào thực tiễn chiến đấu của quân và dân ta, tạo nên sức mạnh chính trị - tinh thần to lớn, nhất là trong những thời điểm bước ngoặt, có tính quyết định.

Đại thắng Mùa xuân 1975 là thành quả vĩ đại của nhân dân ta, thể hiện ý chí, khát vọng độc lập, thống nhất Tổ quốc của dân tộc ta trong thời đại Hồ Chí Minh. Với đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ, Đảng ta đã huy động được cao nhất sức mạnh của cả nước, bao gồm cả sức mạnh vật chất và sức mạnh chính trị - tinh thần, sức mạnh truyền thống yêu nước nồng nàn của đất nước ngàn năm văn hiến cho cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược lâu dài, cam go, quyết liệt.

Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với quan điểm đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng, Đảng ta đã phát huy hiệu quả sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân Việt Nam mãi mãi biết ơn và không bao giờ quên sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nhất là Liên Xô, Trung Quốc đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc ta; đặc biệt là sự đoàn kết liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung của nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia. Sự ủng hộ to lớn cả vật chất và tinh thần của cộng đồng quốc tế là một nhân tố quan trọng góp phần làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của chúng ta.

Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực bên cạnh mặt thuận lợi, vẫn tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn rất gay gắt, tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định; chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp tài nguyên, chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, khủng bố và các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống có chiều hướng gia tăng, tạo ra thách thức với nhiều quốc gia.

Ở trong nước, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực sau 30 năm đổi mới; tiềm lực mọi mặt của đất nước được tăng cường; uy tín, vị thế của nước ta ngày càng được nâng cao, song cũng còn nhiều khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch vẫn đang đẩy mạnh chiến lược "Diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", "phi chính trị hoá" quân đội. Tình hình biển Đông diễn biến phức tạp, cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo còn lâu dài, không ít khó khăn.

Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta rất nặng nề, đan xen cả thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức. Để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chiến lược này, chúng ta phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, phát huy vai trò, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các lực lượng, trong đó lực lượng vũ trang là nòng cốt.

Năm nay, chúng ta kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước đúng vào thời điểm Đảng ta tiến hành đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội XII của Đảng. Đây là một sự kiện trọng đại đối với Đảng ta, dân tộc ta; đồng thời, cũng là dịp để Đảng ta nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, phát huy trí tuệ của toàn Đảng, hoàn thiện đường lối đổi mới, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới.

Bài học thành công về sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cần phải được tiếp tục kế thừa, phát huy trong tình hình mới. Đó là bài học kiên định đường lối, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; giữ vững bản chất giai cấp công nhân và củng cố vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Trên cơ sở đó, xác định đường lối, chủ trương, giải pháp lãnh đạo đúng đắn, sát yêu cầu phát triển của cách mạng; tích cực đổi mới phương thức lãnh đạo, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tìm ra quy luật khách quan bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng mang lại hiệu lực, hiệu quả trên thực tế.

Để xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, thực sự "là đạo đức, là văn minh" như tâm nguyện của Bác Hồ, toàn Đảng phải kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 [khóa XI] gắn với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí và những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Các tổ chức Đảng từ Trung ương đến cơ sở phải làm tốt hơn nữa công tác xây dựng Đảng; cán bộ của Đảng phải thực sự là công bộc của dân, quan tâm đến nguyện vọng và lợi ích chính đáng của người dân; khắc phục mọi biểu hiện quan liêu, xa rời quần chúng, "lợi ích nhóm", mất đoàn kết nội bộ... Đồng thời, tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, tích cực đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Quân đội nhân dân với vai trò là một lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Tổ quốc, nhân dân, cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng theo hướng "cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại". Quân đội cần chủ động nắm chắc tình hình, dự báo chính xác xu hướng phát triển, nhất là những vấn đề liên quan đến quốc phòng, an ninh của đất nước.

Trên cơ sở đó, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng Công an, đối ngoại để tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, chiến lược bảo vệ Tổ quốc và có đối sách, xử lý đúng đắn các tình huống, không để bị động, bất ngờ, góp phần tạo môi trường hoà bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước.

Quân đội ta là quân đội cách mạng, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, phải tiếp tục hoàn thành tốt vai trò là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động, sản xuất, xứng đáng với niềm tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, tô thắm thêm truyền thống phẩm chất "Bộ đội Cụ Hồ".

Để làm được điều đó, phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội; tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu cao; kiên quyết đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn "phi chính trị hoá" Quân đội của các thế lực thù địch.

Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng cần nghiên cứu, tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 8 [khóa XI] về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; trong đó, trọng tâm là xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ và các phương án, kế hoạch phòng thủ đất nước. Thường xuyên chăm lo xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh về chính trị, tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị trong toàn quân và lực lượng dân quân tự vệ.

Lịch sử 85 năm ra đời và phát triển của Đảng ta cho thấy, càng trong những thời điểm khó khăn, phức tạp thì bản lĩnh, trí tuệ, đạo đức, năng lực lãnh đạo của Đảng càng cần được khẳng định. Chúng ta tin tưởng rằng, bài học thành công về sự lãnh đạo của Đảng trong Đại thắng Mùa xuân 1975, cũng như toàn bộ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước sẽ tiếp tục được phát huy trong tình hình mới.

# Ban Chấp hành Trung ương Đảng bộ đội Cụ Hồ Chủ nghĩa Mác – Lê nin Chủ tịch Hồ Chí Minh Đại thắng mùa xuân 1975 dinh Độc Lập Hội nghị lần thứ 15 Nghị quyết Trung ương 4 xe tăng quân Giải phóng
Facebook Twitter Link gốc

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề