Dạy học hiệu quả là dạy học hướng vào vùng phát triển gần nhất

Dạy học hiệu quả là dạy học hướng vào vùng phát triển gần nhất, điều này có nghĩa là giáo viên nên tìm hiểu về trình độ hiện tại và những điều mà người học đang muốn học, rồi dạy học và giúp học sinh tiến bộ từ đó.

Để dạy học hiệu quả, giáo viên cũng nên sử dụng nhiều phương pháp và kỹ thuật khác nhau để giúp người học hiểu và nhớ dễ hơn. Ví dụ, có thể sử dụng các bài tập, các bài thực hành, các trò chơi học tập, các bài giảng và các phương pháp học tập tự học để giúp người học hiểu và nhớ kiến thức một cách hiệu quả hơn.

Ngoài ra, giáo viên cũng nên đảm bảo rằng người học có đủ thời gian và không gian để học tập và làm bài tập, và hỗ trợ người học khi có vấn đề hay khó khăn trong quá trình học tập. 

Để áp dụng khái niệm về vùng phát triển gần, giáo viên hướng dẫn từng bước nhỏ theo các nhiệm vụ mà trẻ đã có thể làm một cách độc lập. Chiến lược này được gọi là giàn giáo . Giáo viên cũng nên hỗ trợ và giúp đỡ trẻ cho đến khi trẻ có thể hoàn thành tất cả các bước một cách độc lập.

Trước khi giáo viên có thể bắt đầu hướng dẫn học sinh qua các bước cần thiết để tìm hiểu một khái niệm, họ phải nắm được cách thức các nhiệm vụ này, được gọi là giàn giáo, có thể áp dụng cho cuộc sống hàng ngày. Sau đó, giáo viên xây dựng trên những giá đỡ này để phát triển vùng phát triển gần của trẻ. Để giảng dạy hiệu quả nhất bằng cách sử dụng vùng phát triển gần, giáo viên nên nhấn mạnh mối liên hệ giữa kiến ​​thức trước đây của người học về một nhiệm vụ trong bối cảnh hàng ngày với nhiệm vụ hoặc khái niệm mới đang được học. Ví dụ, giả sử một giáo viên đang hướng dẫn học sinh về vòng tuần hoàn của nước. Nếu giáo viên đã dạy một bài về khái niệm về sự bay hơi, giáo viên nên sử dụng kiến ​​thức trước về sự bay hơi khi giới thiệu thông tin về sự ngưng tụ. Sau đó, đứa trẻ sẽ có thể tạo kết nối giữa các giai đoạn khác nhau của chu trình nước.

Mối liên hệ giữa nhiệm vụ đang học và cách nó áp dụng với các kỹ năng cần thiết trong cuộc sống hàng ngày có thể không rõ ràng ngay lập tức; trên thực tế, họ có thể mất một số bài học để phát triển. Thông qua việc đọc thêm và các môn học, trẻ em tiếp tục hình thành mối liên hệ giữa các ý tưởng và kinh nghiệm hàng ngày. Ví dụ, một người học có thể không hiểu ngay cách học phép cộng có thể áp dụng cho cuộc sống hàng ngày của họ. Tuy nhiên, khi được yêu cầu thêm số quả táo trong nhóm này với số quả cam ở nhóm khác, học sinh sau đó có thể tạo ra mối liên hệ giữa lý thuyết cộng và đếm các đồ vật hàng ngày. Trong một số trường hợp, giáo viên có thể không phải là người hiệu quả nhất để truyền đạt một khái niệm. Làm việc nhóm và các dự án hợp tác với các đồng nghiệp đã thành thạo một nhiệm vụ hoặc khái niệm cũng có thể chứng minh hiệu quả.

Dưới đây là quy trình từng bước mà một giáo viên có thể áp dụng vùng phát triển gần:

 

  • Đầu tiên, giáo viên nên xác định những gì học sinh đã biết. Bằng cách xác định kiến ​​thức trước này, giáo viên có thể xây dựng dựa trên bộ kỹ năng đó khi giới thiệu các khái niệm mới.
  • Tiếp theo, giáo viên có thể xây dựng trên kiến ​​thức này thông qua giàn giáo; giàn giáo sẽ giúp học sinh chuyển từ những gì họ đã biết sang những gì họ nên biết vào cuối giờ học. Khi lập kế hoạch bài học, giáo viên cần lưu ý quy trình dàn dựng bằng cách lồng ghép thực hành có hướng dẫn vào giáo án của mình.
  • Cuối cùng, giáo viên có thể giúp học sinh kết nối việc học mới với kiến ​​thức trước đó của họ. Ví dụ, nếu một giáo viên toán vừa dạy trẻ cách chia thành thạo các số thập phân, thì giáo viên đó có thể liên hệ khái niệm này trở lại với việc nhân các số thập phân.
  • Nhìn chung, thông qua việc áp dụng khái niệm về vùng phát triển gần, giáo viên xác định những gì trẻ đã biết, dạy trẻ điều gì mới để bổ sung và sau đó liên hệ điều này trở lại với kiến ​​thức trước đây của trẻ để trẻ hoặc bây giờ cô ấy có thể hiểu khái niệm mới với sự trợ giúp.

 

Hướng tới “vùng phát triển năng lực gần nhất”

 

Kết quả của hướng tác động này sẽ đem lại kết quả trong sự phát triển ở người học. Cụ thể như: Góp phần xây dựng động cơ học tập, nhu cầu đối với tri thức và tăng cường thái độ tích cực đối với học tập.

Đồng thời giúp người học có được tri thức sâu, chính xác, phản ảnh đúng bản chất, kỹ năng kỹ xảo chắc chắn. Quan sát sâu, có tính khái quát, trình độ tư duy và năng lực phát triển cao.

 

Tiến sỹ Dung nhấn mạnh: Hướng phát triển này dựa trên lý luận: Giáo dục cần phải tác động vào những kết cấu tâm lý chưa hoàn thiện, các chức năng tâm lý chưa hoàn thành để xây dựng được những kết cấu mới.

“Nói như vậy có nghĩa là giáo dục cần phải hướng đến phạm vi vùng phát triển gần của học sinh, hay nói cách khác giáo dục phải đi trước sự phát triển, hướng đến sự phát triển hoàn thiện hơn” – TS Dung trao đổi.

Theo đó, tiến sỹ Dung cho rằng, hướng phát triển này cần tiến hành theo các nội dung sau:

Tôn trọng vốn sống của người học. Cần phải xác định được mức độ phát triển hiện tại của người học, những gì người học đang có và những gì người học có thể phát triển trong tương lai gần để từ đó có những cách giáo dục phù hợp nhất. Đây là cách giáo dục cá biệt hóa, sát đối tượng.

Khi nhà giáo dục làm được điều này sẽ làm tăng hứng thú học tập của người học, tạo ra không khí làm việc thoải mái, tự tin vì những hoạt động mà người học hiện nằm trong khả năng của họ.

Xây dựng việc dạy học và giáo dục trên lớp mức độ khó khăn và nhịp điệu học có tính thử thách. Việc học cần phải được phát triển dần từ thấp đến cao và luôn đặt cho người học những nhiệm vụ cần giải quyết.

Khi giải quyết được một vấn đề theo yêu cầu, người học cần phải xem xét thêm những vấn đề khác có liên quan để tìm hiểu toàn diện vấn đề đặt ra. Nhịp điệu học có tính thử thách nghĩa là tránh việc để học sinh dậm chân tại chỗ hay nhắc đi nhắc lại nhiều lần một vấn đề.

Nâng tỉ trọng tri thức lý luận khái quát. Tùy theo mức độ nhận thức của người học để đưa ra mức độ tri thức lý luận khái quát phù hợp. Tuy nhiên, khi người học có khả năng thì có thể cho người học các định luật, các quy tắc, các biểu thức để cho người học có thể khái quát hóa các quy tắc hay định luật đó.

Đồng thời, phải làm cho người học có ý thức về toàn bộ quá trình học tập, tự giác khi học. Việc người học ý thức được toàn bộ quá trình học tập giúp cho họ có thể xâu chuỗi kiến thức, tìm ra mối liên hệ giữa các kiến thức đồng thời xây dựng được kế hoạch học tập phù hợp.

Giáo dục dựa trên cấu trúc của hoạt động và nhận thức

 

Muốn phát triển năng lực cho người học thì đầu tiên cần phải hình thành tư duy lý luận, nghĩa là cần phải thay đổi căn bản cấu trúc của nội dung và phương pháp học

 

Liên quan đến nội dung này, tiến sỹ Dung chia sẻ: Cơ sở lý luận của hướng tiếp cận này là quá trình phát triển tâm lý của người học qua việc lĩnh hội những kinh nghiệm, lịch sử xã hội loài người, từ đó tái tạo các năng lực và phương thức hành vi có tính người đã hình thành trong lịch sử.

Để làm được điều này, người học phải có các hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phù hợp với hoạt động của con người, hoạt động đã hiện thân gửi gắm các công cụ và tri thức đó.

Muốn thực hiện tốt theo hướng này, nhà giáo dục cần phải chỉ rõ cấu trúc của hoạt động của con người thể hiện trong kiến thức cụ thể hay một kỹ năng cụ thể.

Nghiên cứu cách tổ chức hoạt động của người học và năng lực của họ để có thể đảm bảo người học có đủ khả năng tiếp nhận được cấu trúc hoạt động của con người thể hiện trong kiến thức hay một kỹ năng cụ thể.

Từ xuất phát điểm này, TS Dung đề xuất: phương pháp giáo dục theo hướng trên nhà giáo cần phải làm cho người học cảm thấy hứng thú và thấy cần thiết phải tiếp nhận nội dung học, nội dung khái niệm, quá trình xây dựng khái niệm, nguồn gốc khái niệm.

Mặt khác, phải làm cho người học có kỹ năng ghi nội dung các khái niệm bằng mô hình và sử dụng mô hình như là một phương tiện học tập.

Việc cung cấp khái niệm cho người học không phải là dạng có sẵn mà phải để người học xem xét từ nguồn gốc phát sinh, mối liên hệ xuất phát và bản chất của khái niệm, khôi phục lại mối liên hệ đó bằng mô hình, ký hiệu, hướng dẫn người học chuyển dần và kịp thời từ các hành động trực tiếp với các sự vật sang các thao tác và hoạt động trí tuệ [người học cần kiến tạo kiến thức]…

Đồng thời, có kỹ năng giải quyết các nhiệm vụ cụ thể trên cơ sở những tri thức lý luận khách quan phù hợp với chúng.

“Dạy học theo hướng này sẽ đạt đến những kết quả tích cực sau: Người học ình thành được khái niệm không dựa trên quan sát và so sánh tính chất bề ngoài của sự vật mà trên cơ sở hành động với đối tượng, các mối liên hệ bản chất giữa các sự vật.

Người học nắm được cái chung, cái tổng quát, trừu tượng trước khi nắm được những riêng, cụ thể, phức tạp. Người học nắm được khái niệm bằng các hoạt động độc lập dưới dạng tìm tòi, khám phá từ những tình huống và điều kiện mà ở đó như cầu đã được nảy sinh” – Tiến sỹ Dung trao đổi.

Chủ Đề