Quyển sách này viết về các phương pháp nghiên cứu trong nhân học văn hoá. Chủ đề của quyển sách này là các phương pháp thuộc về tất cả chúng ta trong ngành - thật vậy, trong tất cả các ngành của khoa học xã hội. Dù cho định hướng lý thuyết của chúng ta có là gì đi nữa thì trong bất kỳ cuộc nghiên cứu nào về tư tưởng và hành vi của con người thì một kết hợp hợp lý giữa các dữ liệu định tính và định lượng là điều thường thấy. Dù cho chúng ta thể hiện bằng từ ngữ hay bằng số thì chúng ta cũng phải làm thật đúng.
Vấn đề gặp phải trong việ viết một quyển sách về các phương pháp nghiên cứu [bên cạnh sự thật là có quá nhiều phương pháp] đó là bản thân từ “phương pháp” có ít nhất ba nghĩa. Ở một mức độ khái quát, nó có nghĩa là nhận thức luận hay sự nghiên cứu cách làm thế nào chúng ta biết được sự vật. Ở một mức độ ít khái quát hơn, phương pháp là các chọn lựa chiến lược, chẳng hạn như bạn sẽ chọn tiến hành điền dã quan sát tham dự, một luận án nghiên cứu thư tịch, hay một thực nghiệm. Ở một mức độ cụ thể, nó là về các vấn đề như bạn sẽ chọn loại mẫu nào, bạn sẽ thực hiện phỏng vấn trực diện hay qua điện thoại, bạn sẽ dùng phiên dịch hay học ngôn ngữ bản địa đủ giỏi để bạn tự phỏng vấn, vân vân.
Khi nói về nhận thức luận, có một số câu hỏi quan trọng. Một là, bạn theo nguyên tắc triết học của chủ nghĩa duy lý hay chủ nghĩa kinh nghiệm. Câu hỏi khác là bạn sẽ sử dụng các giả thuyết của phương pháp khoa học mà thường được gọi là thực chứng luận trong khoa học xã hội, hay ưa thích dùng phương pháp đối nghịch với nó mà thường được gọi là chủ nghĩa nhân văn hay diễn giải luận. Đây là những câu hỏi khó, không dễ trả lời được. Tác giả sẽ lần lượt nói đến các phương pháp này trong sách.
Mục lục:
Lời nói đầu
Chương 1: Nhân học văn hoá và khoa học xã hội
Chương 2: Các nền tảng của nghiên cứu xã hội
Chương 3: Nhân học và thiết kế nghiên cứu
Chương 4: Chọn mẫu
Chương 5: Chọn các vấn đề nghiên cứu, địa bàn và phương pháp
Chương 6: Nghiên cứu tài liệu
Chương 7: Quan sát tham dự
Chương 8: Thông tín viên
Chương 9: Ghi chép điền dã: cách ghi, mã hoá và quản lý
Chương 10: Phỏng vấn phi cấu trúc và bán cấu trúc
Chương 11: Phỏng vấn cấu trúc
Chương 12: Bảng hỏi và nghiên cứu điều tra
Chương 13: Thang đo và đo lường
Chương 14: Quan sát trực tiếp và có phản ứng
Chương 15: Quan sát kín đáo
Chương 16: Phân tích dữ liệu định tính
Chương 17: Mã hoá và bảng mã hoá cho dữ liệu định lượng
Chương 18: Thống kê đơn biến: miêu tả từng biến
Chương 19: Phân tích hai biến: kiểm định và các mối liên hệ
Chương 20: Phân tích đa biến
Mời bạn đón đọc.
Full PDF PackageDownload Full PDF Package
This Paper
A short summary of this paper
3 Full PDFs related to this paper
Download
PDF Pack
Full PDF PackageDownload Full PDF Package
This Paper
A short summary of this paper
3 Full PDFs related to this paper
Download
PDF Pack
27 313 KB 2 31
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 27 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
NHÂN HỌC
Anthropology
TS. Bùi Quang Thắng [biên soạn]
[Trích từ: Bùi Quang Thắng [cb]. 30 thuật ngữ nghiên cứu văn hóa. – H.:
NXB KHXH, 2008] Có thể coi “anthropology” là một thuật ngữ khó diễn giải nhất trong số
các thuật ngữ khoa học hiện nay. Sở dĩ như vậy là nó có liên quan và được
tích hợp từ nhiều bộ môn khoa học khác nhau và được sử dụng với sự khác
biệt về nội dung của môn học [từ quan điểm đến phương pháp luận, đến
phương pháp nghiên cứu] ở những không gian khác nhau và trong những
thời kỳ lịch sử khác nhau. Vì thế, có người đã ví nhân học như một cái la
bàn trong đó cái kim định hướng không phải lúc nào, ở đâu cũng quay về
một hướng. Ngay cả những nhà bác học tầm cỡ thế giới như C. L. Strauss cũng phải rất
thận trọng khi nói đến bộ môn khoa học này. Ông viết:
Mọi cái đều diễn ra tựa hồ như nhân học xã hội và nhân học văn hóa chẳng
hề xuất hiện trên diễn đàn phát triển khoa học với tư cách là một bộ môn độc
lập, đòi hỏi vị trí của mình giữa các bộ môn khác, mà lại đại khái mang hình
thức một tinh vân dần dần nhập vào một đề tài cho đến giờ vẫn mơ hồ hay
được phân phối khác đi, và do chính sự tập trung này tạo nên một sự phân bố
lại toàn bộ các chủ đề nghiên cứu giữa mọi khoa học xã hội và nhân văn
chăng? [dẫn theo 7, tr. 5]
Chính vì vậy, muốn trả lời tốt được câu hỏi: “Nhân học là gì?” thì tốt nhất phải
có một bài chuyên luận [hay một cuốn sách] về lịch sử của bộ môn khoa học này.
Như thế người đọc sẽ hình dung được sự hình thành và phát triển của nó ở những
khu vực khác nhau, ở trong những thời kỳ khác nhau và qua đó họ sẽ hiểu “nhân
học là gì?” một cách mạch lạc hơn.
Tuy nhiên, khuôn khổ của một mục từ không cho phép nên chúng tôi cố gắng
trình bày vấn đề trên theo một cách khác. Đó là cách trình bày theo cấu trúc của
môn học [quan điểm bản thể luận? lý thuyết và phương pháp luận? phương pháp?].
Hy vọng rằng, cách trình bày này sẽ phần nào trả lời được câu hỏi: “Chiếc kim chỉ
hướng” của cái “la bàn nhân học” kia quay theo lực hút nào?
Tôi cho rằng, chiếc kim chỉ hướng đó - dù ở thời kỳ nào của lịch sử nhân học chính là quan điểm bản thể luận của các nhà nghiên cứu, các trường phái, các lý
thuyết nhân học. [xem thêm mục từ Bản thể luận ở cuốn sách này].
1. Nhân học theo trường phái thực chứng
Có một thực tế là, ở châu Âu lục địa, ở Anh và ở Mỹ, ba thuật ngữ Ethnology,
Anthropology, và Sociology nhiều lúc được sử dụng theo cùng một nghĩa. Dân tộc chí - ethnography - được coi là một bộ môn khoa học ở thế kỷ XVIII,
tuy nhiên, trước đó, thậm chí thời cổ đại, đã có nhiều tác phẩm mô tả về các tộc
người "lạ" và các nền văn hóa kỳ thú của họ.
Đối với dân tộc chí, không có sự tranh cãi trong cách định nghĩa môn học. Đa
số đều chấp nhận đây là môn học về sự miêu tả các xã hội cổ sơ, bán khai và các
nền văn hóa riêng biệt. Trong "Nhân học cấu trúc", Lévi-Strauss viết:
Đối tượng của dân tộc chí là sự khảo cứu những biểu thị vật chất của hoạt
động người. Sự ăn và sự ở, sự mặc và trang sức, vũ khí chiến tranh và dụng cụ của
các công việc thời bình, săn bắn, đánh cá, trồng trọt và công nghệ, phương tiện
vận tải và trao đổi, lễ - tết - hội tôn giáo, các trò chơi, nghệ thuật phát triển mạnh
hay yếu, tất thảy những gì, trong sự sinh tồn vật chất của các cá nhân, các gia đình
hay các xã hội trình ra nét nào đó đặc biệt, là thuộc lĩnh vực của dân tộc chí... [dẫn
theo 2, tr. 12].
Dân tộc chí mặc dầu chỉ là một khoa học miêu tả nhưng nó vẫn tồn tại cho đến
ngày nay, ít ra là trên phương diện phương pháp [bởi không có khoa học nào mà
lại không cần đến quan sát và miêu tả cả]. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở miêu tả
thì người ta sẽ chẳng bao giờ thoát ra khỏi được những "sự lạ" không cùng của thế
giới này để đi đến một hay những kết luận có tính khái quát khả dĩ áp dụng được
cho cuộc sống đương đại.
Chính vì vậy, giữa thế kỷ XIX, dân tộc học được ra đời với tư cách là bước
phát triển mới của dân tộc chí.
Ethnology - mà nhiều người dịch là dân tộc học lý luận - là khoa học nghiên
cứu văn hóa và xã hội các tộc người [thường là ở các xã hội bán khai, hay nói rộng
ra là các xã hội cổ truyền]. Nó là một bước tiến so với những kết quả thuần tuý
miêu thuật của dân tộc chí. ở Đức, người ta gọi môn học này bằng những thuật
ngữ Volkunde hoặc Folklore để gọi việc nghiên cứu những tộc người trong nước, và thuật ngữ Volkerkunde để chỉ việc nghiên cứu các tộc người ở nước ngoài, chủ
yếu là các tộc người ở thuộc địa.
Quá trình hình thành dân tộc học gắn liền với sự phát triển của giai cấp tư sản
châu Âu: mở rộng thị trường để tiêu thụ hàng hóa và sau này là xâm chiếm và mở
rộng thuộc địa để kiếm tìm nguồn tài nguyên mới và nhân công mới. Trong
khoảng 100 năm của thời kỳ này, những kiến thức tương đối toàn diện về các xã
hội và các nền văn hóa ở Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, hoặc các nước ở châu
Mỹ, châu Phi, châu Đại Dương đã được thu thập và chúng thực sự trở thành công
cụ đắc lực cho quá trình thực dân hóa.
Nhiều nhà dân tộc học coi cuốn Văn hóa nguyên thủy [Primitive Culture - xuất
bản tại London năm 1871] của nhà dân tộc học/nhân học người Anh là Edward
Burnett Tylor là tác phẩm mẫu mực của xu hướng dân tộc học/nhân học cổ điển.
Đối tượng của dân tộc học - theo Tylor - là văn hóa của các dân tộc sơ khai.
Trở lại với các dân tộc sơ khai, Tylor không nhằm nghiên cứu văn hóa của các
dân tộc sơ khai một cách thuần túy, mà ông nhằm vào việc tìm ra những qui luật
chung về quá trình hình thành, phát triển của văn hoá.
Thuật ngữ Anthropology gắn liền với tên tuổi của nhà tự nhiên học người Thuỵ
Điển Karl Von Linné[1] người đầu tiên phân loại loài người theo những tiêu chí
chủng tộc.
Theo và phát triển xu hướng này, anthropology được các học giả châu Âu hiểu
là khoa học về lịch sử tự nhiên của con người [mà đối tượng của nó là các dân tộc
sơ khai, các giống người tiền sử]. Vào thế kỷ XIX, xu hướng này lan ra nhiều
nước ở châu Âu [ví dụ ở Pháp, Paul Broca sáng lập trường nhân chủng học, ở
Thuỵ Điển có những bảo tàng nhân chủng học,...]. Như thế, Anthropology [nhân
chủng học] thời ấy đồng nghĩa với Physical Anthropology [nhân học hình thái]. Tuy nhiên, dường như các nhà khoa học thời ấy đã cảm thấy tính hữu hạn ở
những đặc điểm tự nhiên của con người. [Thật vậy, cho đến nay các giáo trình
nhân chủng học hiện đại cũng không tìm ra được giống người nào khác lạ hơn, có
khác chẳng qua chỉ là tên gọi, cách phân loại, phân nhóm mà thôi]. Mặt khác,
những thành tựu của các nhà nhân chủng học lại thường phụ thuộc rất nhiều vào
những cuộc khai quật khảo cổ học, vì thế, cơ hội thành đạt của các nhà khoa học
này là rất hiếm. Thêm nữa, nhu cầu căn bản của các nhà tài trợ cho các nhà khoa
học thời đó không phải chỉ là những đặc điểm cấu tạo hình thể của con người, mà
là cái gì đó thực dụng hơn, có ích hơn cho công cuộc xâm chiếm và mở rộng thuộc
địa của họ: đó chính là những kiến thức toàn diện về xã hội của người bản địa.
Có lẽ đó chính là những lý do mà thuật ngữ nhân học xã hội [Social
Anthropology] và nhân học văn hóa [Cultural Anthropology] ra đời. Hai thuật ngữ
này được gộp chung vào thuật ngữ nhân học [từ này cũng được chuyển ngữ từ từ
Anthropology với ý nghĩa chủ yếu là để phân biệt nó với nhân chủng học hay nhân
học hình thái].
Có ba quan điểm chủ yếu sau về bộ môn nhân học [cả về phương pháp luận,
phương pháp nghiên cứu, bộ khái niệm ...]:
- Nhân học đồng nhất với dân tộc học.
- Nhân học đồng nhất với xã hội học.
- Nhân học là kết quả của sự giao thoa giữa hai khoa học trên [dân tộc học và
xã hội học].
Chúng tôi tán thành quan điểm thứ ba, bởi :
a] Nhân học, đúng như nhận xét của L. Strauss: Ở tất cả nơi nào ta bắt gặp, từ nhân học xã hội hay nhân học văn hoá, thì
chúng đều được gắn liền với giai đoạn thứ hai và cuối cùng của sự tổng hợp
lấy cơ sở là những kết luận của dân tộc chí và dân tộc học. Trong các xứ
Anglo-Saxons, nhân học nhằm vào những hiểu biết toàn diện về con người,
bao quát chủ thể của nó trong tất cả sự khuếch trương lịch sử và địa lý; mong
đi tới một hiểu biết khả áp dụng vào toàn thể sự phát triển người từ Homo
Sapiens đến các chủng tộc hiện đại; và hướng tới những kết luận, tích cực hay
tiêu cực, nhưng có giá trị đối với tất cả các xã hội người, từ thành phố lớn hiện
đại đến một bộ lạc nhỏ nhất Melanesian. Vậy, trong ý nghĩa ấy, người ta có thể
nói giữa nhân học và dân tộc học có cùng mối quan hệ giống như quan hệ đã
xác định ở trên giữa dân tộc học với dân tộc chí. Dân tộc chí, dân tộc học và
nhân học không tạo thành ba môn học khác nhau hay ba quan niệm khác nhau
về cùng những khảo cứu. Thực tế đó là ba giai đoạn hay ba yếu tố của cùng
một khảo cứu, và sự ưa thích đối với từ này hay từ nọ chỉ diễn đạt sự chú ý lớn
hơn đối với một loại hình khảo cứu, nó không bao giờ có thể bác bỏ hai loại
hình kia [dẫn theo 3, tr. 16].
Và, cả dân tộc học và nhân học đều dựa vào những tư liệu dân tộc chí để tiến
hành những nghiên cứu của mình.
Dân tộc chí chủ yếu là sự quan sát và sự phân tích các nhóm người được
xem xét trong tính riêng biệt của chúng và nhằm phục nguyên theo cách trung
thành nhất khả thể đời sống của mỗi nhóm; trong khi ấy, nhà dân tộc học sử
dụng theo so sánh những tư liệu được trình ra bởi nhà dân tộc chí. Với những
xác định như vậy, dân tộc chí có cùng một nghĩa trong mọi nước; và dân tộc
học tương ứng suýt soát với cái mà người ta hiểu là nhân học xã hội và nhân
học văn hoá ở các xứ Anglo-Saxons [ dẫn theo 2, tr. 12 ].
Như vậy, mặc dù thừa nhận sự đồng nhất giữa nhân học [theo cách gọi của
người Anh] với dân tộc học [theo cách gọi ở châu Âu lục địa] nhưng các đoạn văn trên của Lévi-Strauss vẫn ám chỉ: ông vẫn nghiêng về ngữ nhân học hơn với ý
nghĩa là khoa học mang tính khái quát ở trình độ cao nhất - và vì thế, chỉ nó mới
có thể đưa ra được những kết luận khái quát, có thể áp dụng cho mọi xã hội. [Dĩ
nhiên, không phải ai học nhân học và nghiên cứu nhân học cũng có thể trở thành
Morgan, Tylor, hay Lévi-Strauss,... nhưng ứng dụng những thành tựu của những
nhà nhân học ấy để nghiên cứu những xã hội và nền văn hóa cụ thể ở những xã hội
truyền thống cũng đã đủ để nhân học trở thành một ngành khoa học độc lập.]
Thực ra, anthropology [nhân học] chỉ mới được đưa vào giảng dạy ở bậc đại
học với tư cách là một bộ môn khoa học độc lập ở nửa đầu thế kỷ XX. Ghế giáo sư
đầu tiên về nhân học ở đại học Liverpool do G. Frazer đảm nhiệm năm 1908. Tuy
nhiên, trước đó, từ năm 1884, Tylor đã đảm nhận ghế giáo sư dân tộc học tại đại
học Oxford. Sự thực, Tylor và các nhà dân tộc học danh tiếng ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX như Frobenius, Malinowski, Frazer, L. Morgan... đã tạo nên những
tiên đề lý thuyết cho bộ môn nhân học hiện đại.
Ở những nhà nhân học này và các tác phẩm của họ, ta nhận thấy rất rõ: đó là
những nhà bác học trực tiếp nghiên cứu điền dã, hoặc ít nhất như Tylor cũng căn
cứ vào những tư liệu dân tộc chí đa dạng để khái quát một vấn đề gì đó. Từ đó,
bằng tài năng của mình, các nhà bác học đó đã đưa ra được những kết luận khái
quát cao: đó là những tri thức mới, ví dụ: tiến hóa luận [evolutionism], thuyết hồn
linh [animism], thuyết chức năng [functionism], thuyết cấu trúc [structurism],... và
kèm theo đó là hệ khái niệm và phương pháp nghiên cứu.
Nhân học theo nghĩa ấy luôn ưu tiên đến những tương đồng, và về mặt phương
pháp nó ưu tiên cho phương pháp tổng hợp và khái quát. Sự tổng hợp và khái quát
của nhân học được tập trung ở những bình diện sau:
- Tổng hợp theo chiều hướng không gian
- Tổng hợp theo chiều hướng thời gian - Tổng hợp theo chiều hướng hệ thống
Như thế, các công trình nhân học thường tổng hợp các hiện tượng [văn hóa và
xã hội] từ những không gian và thời gian xã hội khác nhau để đi đến một kết luận
chung về cấu trúc và chức năng của một hay những hình thái thể chế nào đó.
Chính vì thế, nhà nhân học Anh A. R. Radcliffe-Brown đã đặc định đối tượng của
nhân học là những liên hệ xã hội và các cấu trúc xã hội [xem 3, tr.18], hay
Pritchard đã coi nhân học là khoa học "khảo cứu tất nhiên về một hình thức này
hay một hình thức khác của định chế xã hội" [9, tr.80].
b] Lịch sử phát triển nhân học đã cho thấy: Không có những tư tưởng phương
pháp luận [ví dụ những tư tưởng của E. Durkheim, hay của M. Weber], và cả các
khái niệm của xã hội học, thì nhân học không thể có sự phát triển như ngày nay
được. Chính những tư tưởng xã hội học [tổng thể - thực chứng và hành vi - phản
thực chứng] đã trở thành cơ sở của những khác biệt về quan điểm của nhiều
trường phái lý thuyết nhân học hiện đại.
Một yếu tố căn bản làm cho nhân học trở thành khoa học có tính khái quát cao
hơn dân tộc học là nó đã sử dụng được những tư tưởng và bộ máy khái niệm của
xã hội học.
Nếu để ý những đề tài của đại đa số các công trình nhân học hay những luận
văn của sinh viên nhân học ở Anh [xem 9, tr. 83] ta thấy rất rõ là, chúng được tập
trung vào một trong ba vấn đề: cơ cấu, chức năng hoặc thể chế - những vấn đề cơ
bản của xã hội học. Đây chính là cơ sở để nhân học tạo được hệ thống lý thuyết
cũng như khái niệm [công cụ khái quát, tổng hợp] cho mình, khiến nó trở thành
một khoa học phổ quát: với nó, người ta có thể nghiên cứu bất kỳ kiểu loại xã hội
nào. Về vấn đề này Pritchard viết "nhân học dễ tổng quát hoá hơn và có một lý
thuyết đại cương mà sử học không có. Không chỉ có những điểm tương đồng rõ rệt
giữa các xã hội cổ sơ trên thế giới, mà các xã hội này còn có thể phân loại thành vài nhóm có giới hạn nếu ta áp dụng phương pháp phân tích cơ cấu. Điều này làm
cho đề tài được thống nhất. Các nhà nhân học khảo cứu xã hội cổ sơ luôn luôn
theo một cách thức nhất định, dù cho có khảo cứu ở Polynesia, ở Phi châu, hay xứ
Laponia, và bất cứ họ viết về một đề tài nào - một hệ thống thân tộc, một hình thức
sinh hoạt tôn giáo, hay một định chế chính trị - đề tài đó phải được đặt trong cơ
cấu xã hội toàn diện" [đã dẫn, tr. 82]. Như thế, một lần nữa chúng ta lại thấy, cái
chung chứ không phải cái riêng, cái khác biệt là mục đích của kiểu nhân học này.
Tóm lại, Nhân học hiểu theo nghĩa thông dụng là hệ thống lý thuyết và phương
pháp nghiên cứu giúp cho những người nghiên cứu ở những đối tượng khảo sát
khác nhau [về không gian và thời gian] có cùng một cách thức thu thập thông tin
và xử lý chúng. Đến đây, ta có thể tạm hiểu nhân học theo quan điểm thực chứng
là:
- Giai đoạn phát triển cao nhất của dân tộc chí và dân tộc học.
- Kết quả của sự giao thoa với xã hội học.
- Đối tượng nghiên cứu là cấu trúc - chức năng các hiện tượng xã hội và văn
hóa với tư cách là những sự kiện xã hội tổng thể.
- Đối tượng khảo sát: là các sự kiện xã hội và văn hóa trong các xã hội cổ
truyền [bao hàm cả xã hội bán khai, cổ sơ,...] và ngày nay thì trong cả các xã hội
đương đại nữa.
- Phương pháp luận nghiên cứu: Xem xét các sự kiện xã hội và văn hóa ấy
trong mối tương liên giữa cấu trúc xã hội và hành vi, trong đó cấu trúc quy định
hành vi.
- Phương pháp chủ đạo là phương pháp tái dựng mô hình.
2. Nhân học theo quan điểm phản - thực chứng luận Trong các sách giáo khoa nhân học hay trong các buổi thuyết trình về nhân
học gần đây, người ta thường bắt đầu bằng những mẩu chuyện tưởng như bình
thường [đối với những ngời trong cuộc] để dẫn đến cách tiếp cận tham dự mà các
nhà nhân học đã trải nghiệm[2]. Cách viết một tác phẩm nhân học cũng khác với
cách viết kiểu truyền thống của những nhà nhân học thực chứng luận: không dùng
giọng văn nghị luận, duy lý, không nêu hay khái quát hoá một vấn đề lý thuyết lớn
lao nào cả [kiểu như tiến hoá luận hay lý thuyết về vật tổ hay thuyết hồn linh…],
ngược lại, những trang viết thường mô tả, diễn giải ý nghĩa của những hiện tượng
văn hoá hay từng hành vi cụ thể nào đó, trong một bối cảnh cụ thể nào đó theo
giọng điệu của chủ thể nền văn hoá ấy. Văn phong của những tác phẩm này gần
gũi với đời sống thường nhật hơn và những người đọc bình thường [không phải là
các nhà chuyên môn] cũng có thể lĩnh hội được.
Đó là kiểu nhân học theo quan điểm phản thực chứng.
Các nhà phản thực chứng luận cho rằng, khác với khoa học tự nhiên [có đối
tượng nghiên cứu là những sự vật tồn tại khách quan, và tìm ra qui luật nhân quả
của những sự kiện "bên ngoài" là mục đích của các nghiên cứu], đặc trưng của
"khoa học nhân văn" [hay "triết học đời sống"] là quan tâm đến tri thức bên trong
của "cách cư xử có ý nghĩa", hoặc, quan tâm đến sự "nắm bắt ý nghĩa" của một
kinh nghiệm cá nhân về thế giới.
Chính vì thế, những nghiên cứu theo quan điểm bản thể luận này không nhằm
vào việc giải thích các hiện tượng, quá trình văn hoá bằng những qui luật xã hội.
Họ cho rằng, bằng việc "hiểu" các ý nghĩa ở những quan hệ tương tác cụ thể,
người ta mới có thể tránh được những áp đặt có tính cách phương pháp luận và lý
giải được những khác biệt và những đặc thù của các nền văn hoá. Trong Xã hội
học, đại biểu cho khuynh hướng này là M. Weber [người đã phát triển từ ngữ
Verstehen thành một thuật ngữ điển hình cho phương pháp “hiểu biết có tính chất This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.
Video liên quan