Giáo án học phần cơ sở văn hóa việt nam năm 2024

  • 1. HOÁ VIỆT NAM CƠ SỞ VĂN HOÁ VIỆT NAM (Tái bản lần thứ 11) Chủ biên TRẦN QUỐC VƯỢNG LỜI NÓI ĐẦU Những năm gần đây, nhận thức về vai trò của văn hóa ở nước ta được nâng lên đúng với giá trị đích thực của nó. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành Trung ương khóa VII đã khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ phát triển của một dân tộc, là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa người với người, với xã hội và với thiên nhiên. Nó vừa là một động lực thúc đẩy vừa là một mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của chúng ta. Cũng vì thế, việc giữ gìn, phát huy và chấn hưng văn hóa dân tộc được đặt ra một cách cấp bách, đòi hỏi sự tham gia của nhiều ngành, nhiều giới. Giữa tháng 12 năm 1994, Hội nghị lần thứ 8 của Ủy ban quốc gia về Thập kỉ Quốc tế phát triển văn hóa của Việt Nam do Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh làm chủ tịch đã họp. Hội nghị tập trung thảo luận chủ đề: Bảo vệ và phát huy di sản văn hóa Việt Nam, đặc biệt là di sản văn hóa phi vật thể. Hội nghị này đã có nhiều kiến nghị với Đảng, Nhà nước, các Bộ, ngành, trong đó có kiến nghị: “Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa vào chương trình giảng dạy ớ các trường học nội dung bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa, giáo dục cho thanh niên và học sinh về giá trị của văn hóa dân tộc và di sản văn hóa Việt Nam, nâng cao lòng tự hào dân tộc và ý thức bảo vệ di sản văn hóa”. Ngày 10 tháng 1 năm 1995, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã kí công văn số 173/VP về việc tăng cường giáo dục các giá trị văn hóa dân tộc và di sản văn hóa Việt Nam, yêu cầu các cơ quan chuẩn bị hệ thống gíao trình, đưa môn Văn hóa học và cơ sở văn hóa Việt Nam vào chương trình đại học, cao đẳng, để phục vụ việc học tập của sinh viên.
  • 2. trước Bộ Giáo dục và Đào tạo, chúng tôi biên soạn giáo trình môn Cơ sở văn hóa Việt Nam. Khoa Văn hóa học nói chung và môn Cơ sở văn hóa Việt Nam nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ trong nhà trường mà còn ở ngoài xã hội. Tuy thế, với nhà trường đại học và cao đẳng, Văn hóa học lại là môn học còn rất mới mẻ. Hiện tại, còn có nhiều cách hiểu khác nhau về lịch sử và đặc điểm văn hóa Việt Nam, cũng như còn nhiều cách hiểu, cách trình bày về môn Cơ sở văn hóa Việt Nam. Chính vì vậy, chúng tôi thấy rằng, cần trình bày cho sinh viên hiểu cả hai mặt lịch đại và đồng đại của văn hóa Việt Nam lẫn những đặc điểm về cả những kiến thức cơ bản về môn Văn hóa học. Sau lần xuất bản đầu tiên, phục vụ cho hội nghị tập huấn về bộ môn Văn hóa học do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi đã nhận được nhiều ý kiến đóng góp quý báu của các đồng nghiệp, các thày giáo, cô giáo và bạn đọc các nơi (như PGS,. TS Nguyễn Xuân Kính, TS Nguyễn Thị Minh Thái, ông Nguyễn Hòa, ông Lê Đình Bích, ông Trần Mạnh Hảo trên tạp chí Văn hóa dân gian, Tập san Kiến thức ngày nay, báo Thể thao và văn hóa, báo Văn nghệ). Chúng tôi xin tỏ lòng cảm ơn. Ở lần xuất bản này, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung cho hoàn thiện hơn trên cơ sở các ý kiến đóng góp. Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ rằng để có cuốn giáo trình về Văn hóa học hoàn chỉnh, bản thân các tác giả còn phải nghiên cứu nhiều và cần có thêm nhiều ý kiến thảo luận, góp ý của độc giả. Vì vậy, rất mong các đồng nghiệp và bạn đọc góp ý, phê bình để cuốn sách ngày một tốt hơn. Với hi vọng môn Văn hóa học và Cơ sở văn hóa Việt Nam sẽ được khẳng định vị thế, như nó vốn cần có, chúng tôi mong rằng giáo trình sơ thảo này sẽ đóng góp tích cực vào việc giảng dạy và học tập trong các trường đại học và cao đẳng. Hà Nội, tháng 8 – 1998 Chủ biên TRẦN QUỐC VƯỢNG
  • 3. KHÁI NIỆM CƠ BẢN Bài 1: VĂN HÓA VÀ VĂN HÓA HỌC I. CON NGƯỜI − CHỦ / KHÁCH THỂ CỦA VĂN HÓA Một trong những khía cạnh cần xem xét của vấn đề là quan hệ giữa con người và văn hóa. Mối quan hệ này được bộc lộ ra ở ba khía cạnh quan trọng: – Con người với tư cách là chủ thể sáng tạo của văn hóa, – Con người cũng là sản phẩm của văn hóa, – Con người cũng là đại biểu mang giá trị văn hóa do con người sáng tạo ra. Như vậy, con người vừa là chủ thể nhưng vừa là khách thể của văn hóa. Có nhìn nhận văn hóa như một chỉnh thể thống nhất, chúng tạ mới lí giải được mối quan hệ hữu cơ giữa con người với xã hội, giữa con người với tự nhiên. Trong những mối quan hệ ấy, con người là chủ thể, là trung tâm, như mô hình sau: Thế nhưng, từ trước đến nay cả ba thành tố trong mô hình này, không phải đã được mọi người, mọi thời nhìn nhận một cách nhất quán. 1. Những định nghĩa khác nhau về con người Trong trường kì lịch sử, những câu hỏi “Ta từ đâu đến? Ta đi đến đâu?” là những câu hỏi ám ảnh loài người từ muôn đời nay và loài người luôn tìm cách giải đáp những câu hỏi này bằng các huyền thoại, sáng thế luận, học thuyết triết học, tôn giáo v.v… Trong tư tưởng phương Đông, con người là vũ trụ thu nhỏ “Nhân thân tiểu thiên địa” (Lão Tử). Con người là sự thống nhất của không gian và thời gian. Con người bao gồm cả vũ – không gian (trên dưới) và trụ – thời gian (xưa qua nay lại).
  • 4. tam phân (bộ ba) hay thuyết Tam, Tài, con người là một trong ba ngôi ba thế lực của vũ trụ bao la tức Thiên – Địa – Nhân. Người nối liền trời với đất, dung hòa hai cực đối lập ấy để đạt được sự hài hòa hợp lí: “Thiên thời – địa lợi – nhân hòa”. Trong hệ thống quan niệm của Phật giáo, người và muôn loài là bình đẳng, khác với quan niệm phương Tây cổ truyền cho con người là trung tâm vũ trụ, chúa tể của muôn loài. Quan niệm về con người của triết học phương Đông là: “Tam tài”, “'Vạn vật tương đồng”, “Thiên nhân hợp nhất” và quan niệm của Phật giáo cho rằng con người bình đẳng với muôn loài, hoàn toàn tương đồng với xu thế phát triển của sinh thái học hiện đại và sinh thái học văn hóa. Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử nhìn con người như một thành tố đã tồn tại trong nhiều mối quan hệ xã hội như định nghĩa của Các Mác: “Trong tính thực tiễn của nó, con người là sự tổng hòa các quan hệ xã hội”. Một số nhà nghiên cứu cho rằng định nghĩa này đúng nhưng để hiểu Các Mác hơn cần nhớ, năm 1865, khi hai cô con gái Laura và Jenny Mác đặt câu hỏi với bố: “Châm ngôn ưa thích nhất của bố là gì? “. Mác đã trả lời bằng một câu nổi tiếng của thời cổ đại La Mã: “Không có cái gì của con người, mà tôi lại coi nó như xa lạ đối với tôi”. Trong thời đại tin học, người ta hay sử dụng khái niệm con người nhiều chiều (Multidimension). Khái niệm này về thực chất thể hiện quan niệm trên của Các Mác. Con người nhiều chiều ở đây có thể hiểu con người trong các chiều hướng tự nhiên – xã hội, gia đình – xã hội, hành động – tâm linh, con người – chính mình. Trong khoa học sinh thái, con người được đặt trong sinh quyển, là một thành viên đặc biệt trong sinh quyển, do bản chất sinh vật phát triển hoàn hảo nhất và do bản chất văn hóa chỉ có ở con người. Con người cùng với quả đất là một hệ sinh thái. Tuy vậy do vị trí thuộc nhóm sinh vật tiêu thụ ăn tạp (con người là một kẻ tiêu thụ đặc biệt tham lam nhất và tàn nhẫn nhất – ăn, phá, khai thác và biến đổi tự nhiên) nên con người hầu như không có đóng góp gì
  • 5. quá trình tiến hóa của sinh quyển cũng như cho sự phát triển của hệ sinh thái, ngoài sự tồn tại và phát triển của chính xã hội của mình. Từ thế kỉ XVIII B.Franklin đã định nghĩa con người là “động vật làm ra công cụ”. Cho đến trước năm 1960 hầu hết các nhà khoa học đều đã nghĩ như vây. Song những kết quả quan sát và nghiên cứu tập tính của các loài động vật cấp cao ở điều kiện thí nghiệm và điều kiện tự nhiên cho thấy ở những tình huống nhất định, một số loài đã sử dụng đá, cành cây… (như vượn – người chimpanjé). Như vậy, mầm mống sử dụng công cụ đã xuất hiện ở con vật. Nhiều học giả phương Tây đã lợi dụng kết quả nghiên cứu đó để chống lại học thuyết về vai trò của lao động trong quá trình biến chuyển từ vượn thành người. Vì thế, điểm mấu chốt là phải làm rõ những điều kiện và tình huống môi trường tự nhiên, xã hội của hai hoạt động này. Động vật sử dụng công cụ “ngẫu nhiên” không hệ thống, hay không muốn làm theo hệ thống và không bắt buộc. Con người sử dụng và chế tạo công cụ một cách có ý thức, có hệ thống và với một sự bắt buộc để có thể tồn tại do đã bị mất đi những khả năng thể lực. Hay “Con người còn tỏ ra là động vật duy nhất đã biết “chọn” cách thích nghi để phát triển hệ thần kinh tới mức đó (tư duy, chế tạo, công cụ, ngôn ngữ), trong khi các động vật khác đã chọn cách biến đổi tứ chi của chúng để cải thiện dinh dưỡng. Con người giữa toàn bộ thế giới động vật là loài đã phát triển được bộ não”. Ta có thể bổ sung thêm định nghĩa của B.Franklin “con người sơ khai – một loài linh trưởng biết chế tạo và sử dụng một cách hệ thống các công cụ bằng đá, tre, gỗ…” Con người vừa là cá nhân không thể chia cắt được, vừa là một sinh vật xã hội. Đặc điểm của con người là sống cùng nhau, sống với nhau, thành một cộng đồng. Tuy thế loài vật cũng sống cùng nhau, sống với nhau, như vậy con người không phải là kẻ độc quyền về tính xã hội. Song, tính xã hội của con vật được di truyền theo bản năng, không thay đổi, bất di, bất dịch từ ngàn đời nay. Tính xã hội của con người được truyền qua con đường sinh học, và con đường văn hóa (thông qua trau dồi, tu dưỡng, giáo dục). Tính xã hội của
  • 6. quá trình với những nguyên lí và cấp độ diễn biến phức tạp. Trong tất cả các loài “Con người là sinh vật có tính xã hội cao nhất” (F. Ăngghen). Con người luôn luôn sống trong hai thế giới, thế giới thực và thế giới biểu tượng. Đặc điểm riêng của con người, theo L.A.White, chính là năng lực biểu trưng của tư duy con người. 2. Sự nhìn nhận vai trò của con người: Chúng ta nói văn hóa trước hết phải nói tới con người. “Trong toàn bộ sự phát triển xã hội, con người luôn luôn tồn tại với hai tư cách: vừa là chủ thể, vừa là đối tượng. Với tư cách là chủ thể, con người thực hiện sự phát triển của xã hội, mà trước hết là sự phát triển lực lượng sản xuất. Với tư cách là đối tượng, con người hưởng thụ những thành quả của sự phát triển đó. Không có con người thì không có sự hưởng thụ cũng không có sự cống hiến – nghĩa là không có sự phát triển. Dĩ nhiên giả thiết ấy là không thể có được, nhưng nó cho thấy một điều trong tất cả những gì có thể nói được về sự tiến hóa của lịch sử trên trái đất con người là trung tâm. Hơn nữa cái vị trí trung tâm đó được đảm bảo bằng hai vế – cống hiến và hưởng thụ. Ở con người, với tư cách là con người hai vế này có sự gắn bó chặt chẽ và luôn luôn cần giữ được sự cân đối trong từng hoàn cảnh lịch sử”. Như vậy từ góc độ văn hóa, ta thấy con người một mặt sáng tạo ra văn hóa (nghĩa vụ), mặt khác con người là đối tượng của văn hóa (quyền lợi – văn hóa vì con người). Vì thế, dần dà, nhân loại càng nhận ra vai trò của con người và càng ngày vai trò của con người càng được đánh giá cao. Ở Liên Xô (cũ), trước hiến pháp Xtalin 1936, Xtalin có một luận điểm, trong đó nêu vấn đề con người là quyết định. Ở Việt Nam, đã có lúc khoa học xã hội Việt Nam ít, hoặc còn né tránh chuyện nghiên cứu những vấn đề về con người Việt Nam. Tình hình đó đã thay đổi đặc biệt từ sau Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Yếu tố con
  • 7. được coi trọng. Nhiều trí thức Việt Nam đã nêu ý kiến: chiến lược đấu tiên là chiến lược về con người. Nhiều học giả của các ngành khoa học xã hội, nhân văn tham gia soạn thảo cuốn Chiến lược con người. Con người là động lực, con người làm ra văn hóa, kinh tế xã hội. Nhiều ngành khoa học có liên quan tới con người Việt Nam như sử học, văn học, đạo đức học, tâm lí học, giáo dục học, xã hội học,… đã đạt được không ít thành tựu trong nghiên cứu về con người Việt Nam với tư cách là đối tượng của ngành mình. Trong đó đáng lưu ý là đề tài khoa học cấp Nhà nước KX–07 “con người với tư cách là mục tiêu và động lực phát triển kinh tế xã hội”. “Con người ở khắp mọi nơi đều giống nhau vì họ đều là con người”. Đó là nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa nhân văn triết học, con người có quyền bình đẳng với nhau trên khắp hành tinh. Tuy vậy khi chuyển khái niệm con người sang các ngành khoa học xã hội, nhân văn có tính phân tích ta lại phải đối diện với những hiện thực khác, trong đó con người là giống nhau, đồng thời là khác nhau, bởi vi họ ở trong những tập hợp người đủ mọi kiểu, họ mang trong mình dấu ấn dân tộc, chế độ xã hội, đặc điểm thời đại, địa lí, giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp. Khái niệm con người được nhìn nhận từ các góc độ khác nhau, tùy thuộc vào vấn đề tiếp cận. Điều đó cũng bắt nguồn từ tính đa dụng vô cùng của con người trong sự thống nhất hiển nhiên của giống loài. II. CON NGƯỜI VIỆT NAM, CHỦ – KHÁCH THỂ CỦA VĂN HÓA VIỆT NAM Đã có rất nhiều nhận xét (theo tình cảm, theo lí trí) từ các quan điểm truyền thống, hiện đại, từ các góc độ nhận thức dân tộc thế giới,… về con người Việt Nam từ xưa tới nay. Song cho tới nay nhận thức về con người Việt Nam thực sự chưa đầy đủ. Từ góc độ là chủ thể của văn hóa, con người Việt Nam một mặt là con người cá nhân, mặt khác mang tải trong mình tính dân tộc truyền thống. “Con người phải có tính dân tộc cũng như phải có mũi, có tai. Và tính dân tộc được trao cho con người từ lúc sinh ra và còn lại một cách bất biến suốt cuộc đời người ấy. Nó cũng tồn tại chắc chắn trong ta chẳng hạn như là giới tính”.
  • 8. Anh đã chú ý các đặc điểm khí chất của người Việt Nam khi ông viết cuốn Việt Nam văn hóa sử cương, tuy nhiên theo ông, những tính chất ấy không phải là bất di bất dịch. Ông cho rằng: “Về tính chất tinh thần thì người Việt Nam đại khái thông minh, nhưng xưa nay thấy ít người có trí tuệ lỗi lạc phi thường. Sức kí ức thì phát đạt lắm mà giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, giàu trực giác hơn luận lí. Phần nhiều người có tính ham học. Song thích văn chương phù hoa hơn thực học, thích thành sáo và hình thức hơn là tư tưởng hoạt động. Não tưởng tượng thường bị não thực tiễn hòa hoãn bớt, nên dân tộc Việt Nam ít người mộng tưởng mà phán đoán thường có vẻ thiết thực lắm. Sức làm việc khó nhọc, nhất là người ở miền Bắc thì ít dân tộc bì kịp, cảm giác hơi chậm chạp, song giỏi chịu đau đớn cực khổ và hay nhẫn nhục. Tính khí cũng hơi nông nổi, không bền chí, hay thất vọng, hay khoe khoang trang hoàng bề ngoài; ưa hư danh và thích chơi cờ bạc. Thường thì nhút nhát và chuộng hòa bình, song ngộ sự thì cũng biết hi sinh vì đại nghĩa. Não sáng tác thì ít, nhưng mà bắt chước thích ứng và dung hóa thì rất tài. Người Việt Nam lại rất trọng lễ giáo song cũng có não tinh vặt, hay bài bác chế nhạo”. PGS. Phan Ngọc trong công trình Văn hóa Việt Nan và cách tiếp cận mới, khẳng định: “Văn hóa là một quan hệ. Nó là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng và thế giới thực tại. Quan hệ ấy biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của một tộc người, một cá nhân so với một tộc người khác, một cá nhân khác”. Trên nền ấy, ông cho rằng: “Bản sắc văn hóa, do đó, không phải – là một vật mà là một kiểu quan hệ. Kiểu quan hệ kết hợp, chẳng nói từ nhiều góc rất khác nhau, nhưng tạo nên một thể thống nhất hữu cơ kì diệu. Tôi tạm dùng chữ bricolage… người Việt Nam là bậc thầy về nghệ thuật bricolage”. Thực ra ý này đầu tiên là của nhà sử học – nhà báo Jean Lacouture. GS. Hà Văn Tấn khi viết về sự hình thành bản sắc dân tộc Việt Nam cũng khẳng định sự tồn tại của tính cách dân tộc và tâm lí dân tộc. “Tâm lí dân tộc biểu hiện trong phong cách tư duy, lối ứng xử (hay hành vi), đồng thời biểu hiện ra trong tình cảm dân tộc. Nó bị chế ước bởi các điều kiện tự nhiên mà trong đó cộng đồng đang tồn tại, điều kiện xã hội và điều kiện lịch sử”.
  • 9. này bao gồm cả biến số và hằng số, chính vì vậy tính cách dân tộc và tâm lí dân tộc có biến chuyển. Vì thế, khi tìm hiểu tâm lí dân tộc hay tính cách dân tộc (cả mặt tích cực và tiêu cực), phải xem xét vai trò tác động, sự chi phối của cả ba yếu tố tự nhiên, xã hội và lịch sử. Có như vậy, ta mới có thể lí giải một cách cặn kẽ, khoa học, lí tình những yếu tố trội trong tính cách, tâm lí, bản sắc dân tộc, bản sắc văn hóa của người Việt Nam trong lịch sử và cả giai đoạn hiện nay. Trong công trình nghiên cứu “Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay” thuộc đề tài KX–07, các tác giả đều thống nhất trong những nhìn nhận về giá trị tinh thần, tính cách dân tộc Việt Nam mà điển hình là tinh thần yêu nước kiên cường gắn bó với quê hướng xứ sở, cụ thể là với làng và nước, với nhà, làm tế bào chung; ý thức sâu sắc và vững bền về bản ngã; tinh thần cố kết cộng đồng; cần cù, chịu thương, chịu khó, giỏi chịu đựng gian khổ, tình nghĩa; ứng xử linh hoạt mềm dẻo; dễ thích nghi, hội nhập… Mặt khác, do những điều kiện môi trường tự nhiên khắc nghiệt, thất thường, điều kiện xã hội lắm chiến tranh cùng với những hạn chế của một nền sản xuất nông nghiệp (tiểu nông) truyền thống chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, nên căn tính nông dân với những mặt tiêu cực của nó như tâm lí bình quân– cào bằng; tác phong tùy tiện; “ăn xổi”; tâm lí cầu an, cầu may; thủ cựu; gia trưởng,... đã và đang ảnh hưởng không ít tới công cuộc xây dựng và phát triển một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến mang đậm đà bản sắc dân tộc. Tóm lại, ở Việt Nam từ xa xưa có con người cá nhân trên nền tảng tiểu nông, tuy nhiên do tư tưởng công xã phương Đông bao trùm nên vai trò cá nhân không được phát huy. Luôn luôn cá nhân được đặt trong và dưới cộng đồng. Hằng số văn hóa Việt Nam cổ truyền về mặt chủ thể là người nông dân Việt Nam với tất cả những tính chất tích cực và hạn chế của nó. Trên nền cơ bản là nông dân, song người nông dân đó lại tuỳ thuộc vào từng vùng (xứ, miền) văn hóa khác nhau mà lại mang những nét trội, riêng trong tính cách. Vượt lên cả về không/thời gian là đặc điểm duy tình, duy nghĩa, duy cảm của con người Việt Nam trong mối quan hệ người–người, người – tự nhiên; người – tâm linh; thần linh và nhất là thái độ trách nhiệm với những thế hệ sau thể hiện qua khái niệm phúc đức.
  • 10. VĂN HÓA VÀ CÁC KHÁI NIỆM KHÁC Đây là những công cụ – khái niệm hay công cụ – nhận thức dùng để tiếp cận những vấn đề nghiên cứu. Chúng thường hay bị, hay được sử dụng lẫn lộn, dù mỗi một khái niệm đều có những đặc trưng riêng của mình. 1. Khái niệm văn hóa Văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo, có từ thuở bình minh của xã hội loài người. Ở phương Đông, từ văn hóa đã có trong đời sống ngôn ngữ từ rất sớm. Trong Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ văn và hóa: Xem dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo hóa thiên hạ (Quan hồ nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ). Người sử dụng từ văn hóa sớm nhất có lẽ là Lưu Hướng (năm 77–6 trước công nguyên), thời Tây Hán với nghĩa như một phương thức giáo hóa con người – văn trị giáo hóa. Văn hóa ở đây được dùng đối lập với vũ lực (phàm dấy việc võ là vì không phục tùng, dùng văn hóa mà không sửa đổi, sau đó mới thêm chém giết). Ở phương Tây, để chỉ đối tượng mà chúng ta nghiên cứu, người Pháp, người Anh có từ culture, người Đức có từ kultur, người Nga có từ kultura. Những chữ này lại có chung gốc La tinh là chữ cultus animi là trồng trọt tinh thần. Vậy chữ cultus là văn hóa với hai khía cạnh: trồng trọt, thích ứng với tự nhiên, khai thác tự nhiên và giáo dục đào tạo cá thể hay cộng đồng để họ không còn là con vật tự nhiên, và họ có những phẩm chất tốt đẹp. Tuy vậy, việc xác định và sử dụng khái niệm văn hóa không đơn giản và thay đổi theo thời gian thuật ngữ văn hóa với nghĩa “canh tác tinh thần” được sử dụng vào thế kỉ XVII–XVIII bên cạnh nghĩa gốc là quản lí, canh tác nông nghiệp. Vào thế kỉ XIX thuật ngữ “văn hóa” được những nhà nhân loại học phương Tây sử dụng như một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn hóa (văn minh) thế giới có thể phân loại ra từ trình độ thấp nhất đến cao nhất, và văn hóa của họ chiếm vị trí cao nhất. Bởi vì họ cho rằng bản chất văn hóa hướng về trí lực và sự vươn lên, sự phát triển tạo thành văn minh, E.B. Taylo (E.B. Taylor) là đại diện của họ. Theo ông, văn hóa là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục,
  • 11. và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội. Ở thế kỉ XX, khái niệm “văn hóa” thay đổi theo F.Boa (F.Boas), ý nghĩa văn hóa được quy định do khung giải thích riêng chứ không phải bắt nguồn từ cứ liệu cao siêu như “trí lực”, vì thế sự khác nhau về mặt văn hóa từng dân tộc cũng không phải theo tiêu chuẩn trí lực. Đó cũng là “tương đối luận của văn hóa”. Văn hóa không xét ở mức độ thấp cao mà ở góc độ khác biệt. A.L. Kroibơ (A L Kroeber) và C.L. Klúchôn (C L Kluckhohn) quan niệm văn hóa là loại hành vi rõ ràng và ám thị đã được đúc kết và truyền lại bằng biểu tượng, và nó hình thành quả độc đáo của nhân loại khác với các loại hình khác, trong đó bao gồm cả đồ tạo tác do con người làm ra. 2. Khái niệm văn minh Văn minh là danh từ Hán – Việt (văn là vẻ đẹp, minh là sáng), chỉ tia sáng của đạo đức, biểu hiện ở chính trị, pháp luật, văn học, nghệ thuật. Trong tiếng Anh, Pháp, từ civilisation với nội hàm nghĩa văn minh, có từ căn gốc La tinh là civitas với nghĩa gốc: đô thị, thành phố, và các nghĩa phái sinh: thị dân, công dân. W. Đuran (W. Durrant) sử dụng khái niệm văn minh để chỉ sự sáng tạo văn hóa, nhờ một trật tự xã hội gây ra và kích thích. Văn minh được dùng theo nghĩa tổ chức xã hội, tổ chức luân lí và hoạt động văn hóa. Văn minh trong tiếng Đức là để chỉ các xã hội đã đạt được tới giai đoạn tổ chức đô thị và chữ viết. Theo F. Ăngghen, văn minh là chính trị khoanh văn hóa lại và sợi dây liên kết văn minh là Nhà nước. Như vậy khái niệm văn minh thường bao hàm bốn yếu tố cơ bản: đô thị, nhà nước chữ viết, các biện pháp kĩ thuật cải thiện, xếp đặt hợp lí, tiện lợi cho cuộc sống của con người. Tuy vậy, người ta vẫn hay sử dụng thuật ngữ văn minh đồng nghĩa với văn hóa. Các học giả Anh và Pháp thường sử dụng lẫn lộn hai khái niệm văn
  • 12. minh (civilisation) để chỉ toàn bộ sự sáng tạo và các tập quán tinh thần và vật chất riêng cho mọi tập đoàn người. Thực ra, văn minh là trình độ phát triển nhất định của văn hóa về phương diện vật chất, đặc trưng cho một khu vực rộng lớn, một thời đại, hoặc cả nhân loại. Như vậy, văn minh khác với văn hóa ở ba điểm: Thứ nhất, trong khi văn hóa có bề dày của quá khứ thì văn minh chỉ là một lát cắt đồng đại. Thứ hai trong khi văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất lẫn tinh thần thì văn minh chỉ thiên về khía cạnh vật chất, kĩ thuật. Thứ ba, trong khi văn hóa mang tính dân tộc rõ rệt thì văn minh thường mang tính siêu dân tộc – quốc tế. Ví dụ nền văn minh tin học hay văn minh hậu công nghiệp và văn hóa Việt Nam, văn hóa Nhật Bản, văn hóa Trung Quốc… Mặc dù giữa văn hóa và văn minh có một điểm gặp gỡ nhau đó là do con người sáng tạo ra. 3. Khái niệm văn hiến Ở phương Đông, trong đó có Việt Nam, từ xa xưa đã phổ biến khái niệm văn hiến. Có thể hiểu văn hiến là văn hóa theo cách dùng, cách hiểu trong lịch sử. Từ đời Lý (1010) người Việt đã tự hào nước mình là một “văn hiến chi bang”. Đến đời Lê (thế kỉ XV) Nguyễn Trãi viết “Duy ngã Đại Việt chi quốc thực vi văn hiến chi bang”– (Duy nước Đại Việt ta thực sự là một nước văn hiến). Từ văn hiến mà Nguyễn Trãi dùng ở đây là một khái niệm rộng chỉ một nền văn hóa cao, trong đó nếp sống tinh thần, đạo đức được chú trọng. Văn hiến (hiến= hiền tài)– truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp. GS. Đào Duy Anh khi giải thích từ “văn hiến” khẳng định: “là sách vở” và nhân vật tốt trong một đời. Nói cách khác văn là văn hóa, hiến là hiền tài, như vậy văn hiến thiên về những giá trị tinh thần do những người có tài đức chuyên tải, thể hiện tính dân tộc, tính lịch sử rõ rệt. 4. Khái niệm văn vật (vật = vật chất) Truyền thống văn hóa tốt đẹp biểu hiện ở nhiều nhân tài trong lịch sử và nhiều di tích lịch sử. “Hà Nội nghìn năm văn vật”. Văn vật còn là khái niệm hẹp để chỉ những công trình hiện vật có giá trị nghệ thuật và lịch sử, khái
  • 13. cũng thể hiện sâu sắc tính dân tộc và tính lịch sử. Khái niệm văn hiến, văn vật thường gắn với phương Đông nông nghiệp trong khi khái niệm văn minh thường gắn với phương Tây đô thị. Như vậy, cho đến nay, chưa phải mọi người đã đồng ý với nhau tất cả về định nghĩa của văn hóa. Từ năm 1952, hai nhà dân tộc học Mĩ A.L. Kroibơ (A.L Kroeber) và C.L. Klúchôn (C.L. Kluckhohn) đã trích lục được trên dưới ba trăm định nghĩa, mà các tác giả khác nhau của nhiều nước từng phát ra từ trước nữa cho đến lúc bấy giờ. Từ đó đến nay, chắc chắn số lượng định nghĩa tiếp tục tăng lên và đương nhiên không phải lúc nào các định nghĩa đưa ra cũng có thể thống nhất, hay hòa hợp, bổ sung cho nhau. Chúng tôi xin trích dẫn một số định nghĩa đã được công bố trong những giáo trình và công trình nghiên cứu về Văn hóa học hay Cơ sở văn hóa Việt Nam. Theo một số học giả Mĩ “Văn hóa là tấm gương nhiều mặt phản chiếu đời sống và nếp sống của một cộng đồng dân tộc”. Ở trung tâm của văn hóa quyển là hệ tư tưởng cũng được xem là một hệ văn hóa. Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Cựu thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử… cốt lõi của sức sống dân tộc là văn hóa với nghĩa bao quát và cao đẹp nhất của nó, bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức và phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh.”
  • 14. đưa ra một định nghĩa văn hóa mang tính chất thao tác luận, khác với những định nghĩa trước đó, theo ông đều mang tính tinh thần luận. “Không có cái vật gì gọi là văn hóa cả và ngược lại bất kì vật gì cũng có cái mặt văn hóa. Văn hóa là một quan hệ. Nó là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng và thế giới thực tại. Quan hệ ấy biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của một tộc người, một cá nhân so với một tộc người khác, một cá nhân khác. Nét khác biệt giữa các kiểu lựa chọn làm cho chúng khác nhau, tạo thành những nền văn hóa khác nhau là độ khúc xạ. Tất cả mọi cái mà tộc người tiếp thu hay sáng tạo đều có một độ khúc xạ riêng có mặt ở mọi lĩnh vực và rất khác độ khúc xạ ở một tộc người khác”. Trên cơ sở phân tích các định nghĩa văn hóa, PGS, TSKH. Trần Ngọc Thêm đã đưa ra một định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”. Định nghĩa này đã nêu bật 4 đặc trưng quan trọng của văn hóa: tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch sử, tính nhân sinh. Chúng tôi cho rằng, trong vô vàn cách hiểu, cách định nghĩa về văn hóa, ta có thể tạm quy về hai loại Văn hóa hiện theo nghĩa rộng như lối sống, lối suy nghĩ, lối ứng xử… Văn hóa hiện theo nghĩa hẹp như văn học, văn nghệ, học vấn, và tuỳ theo từng trường hợp cụ thể mà có những định nghĩa khác nhau. Ví dụ xét từ khía cạnh tự nhiên thì văn hóa là “cái tự nhiên được biến đổi bởi con người” hay “tất cả những gì không phải là thiên nhiên đều là văn hóa”. Gần đây nhất, trong một bài viết của mình, PGS. Nguyễn Từ Chi đã quy các kiểu nhìn khác nhau về văn hóa vào hai góc độ: – Góc rộng, hay góc nhìn “dân tộc học”, đây là góc chung của nhiều ngành khoa học xã hội. – Góc hẹp, góc thông dụng trong cuộc sống hàng ngày, còn gọi là góc báo chí.
  • 15. góc rộng – văn hóa là toàn bộ cuộc sống (nếp sống, lối sống) cả vật chất xã hội và tinh thần của từng cộng đồng. Ví dụ: nghiên cứu văn hóa Việt Nam là nghiên cứu lối sống của các dân tộc Việt Nam. Văn hóa từ góc nhìn “báo chí” tuy cũng có những cách hiểu rộng hơn hay hẹp hơn, nhưng trước đây thường gắn với kiến thức của con người, của xã hội. Ngày nay, văn hóa dưới góc “báo chí” đã hướng về lối sống hơn là về kiến thức mà theo tác giả là lối sống gấp, đằng sau những biến động nhanh của xã hội. IV. ĐỊNH NGHĨA VĂN HÓA CỦA UNESCO Trong ý nghĩa rộng nhất, “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng: Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lí. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân”. Như vậy, văn hóa không phải là một lĩnh vực riêng biệt. Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Văn hóa là chìa khóa của sự phát triển. Theo quan niệm của UNESCO có 2 loại di sản văn hóa: Một là, những di sản văn hóa hữu thể (Tangible) như đình, đền, chùa, miếu, lăng, mộ, nhà sàn v.v… Hai là, những di sản văn hóa vô hình (Intangible) bao gồm các biểu hiện tượng trưng và “không sờ thấy được” của văn hóa được lưu truyền và
  • 16. thời gian, với một số quá trình tái tạo, “trùng tu” của cộng đồng rộng rãi… Những di sản văn hóa tạm gọi là vô hình này theo UNESCO bao gồm cả âm nhạc, múa, truyền thống, văn chương truyền miệng, ngôn ngữ, huyền thoại, tư thế (tư thái), nghi thức, phong tục, tập quán, y dược cổ truyền, việc nấu ăn và các món ăn, lễ hội, bí quyết và quy trình công nghệ của các nghề truyền thống… Cái hữu thể và cái vô hình gắn bó hữu cơ với nhau, lồng vào nhau, như thân xác và tâm trí con người. CÂU HỎI 1. Trình bày một số khái niệm về con người với tư cách là chủ – khách thể của văn hóa. 2. Trình bày khái niệm văn hóa qua các giai đoạn. Phân biệt khái niệm văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vật. 3. Nêu một số cách hiểu khác nhau về văn hóa. Định nghĩa văn hóa của UNESCO. Bài 2: VĂN HÓA VÀ MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN I. TỰ NHIÊN LÀ CÁI CÓ TRƯỚC Con người tồn tại trong tự nhiên, bởi vậy, mối quan hệ giữa con người và tự nhiên cũng là một mặt cơ bản của đời sống văn hóa. Tự nhiên là cái đương nhiên tồn tại, không phải do ý muốn, hiểu biết và sáng tạo… của con người, như sự giải thích từ này của GS. Đào Duy Anh: “tạo hóa, vũ trụ, không phải sức người làm, không miễn cưỡng được”. Tự nhiên bao gồm hai nhân tố: hữu sinh (biotic) và phi sinh (abiotic). Trong tự nhiên, ban đầu không có sự sống. Sự sống xuất hiện trên trái đất, cách đây trên 3 tỉ năm, bao gồm ba nhóm: Nhóm sinh vật sản xuất; nhóm sinh vật tiêu thụ và nhóm sinh vật phân hủy.
  • 17. sinh luôn luôn tồn tại (sống trong, sống cùng, sống với) thế giới phi sinh. Điều quan trọng nhất trong tự nhiên là những mối tương tác (thống nhất, mâu thuẫn) giữa các quần xã sinh vật (hữu sinh) và phi sinh (môi trường vật lí, hóa học…) tạo thành hệ sinh thái. Tự nhiên là tự nhiên chứ không phải những gì ngoài ta. Con người cũng là sản phẩm của tự nhiên hay là sản phẩm của chuỗi diễn hóa của tự nhiên (F.Ăngghen). Nói cách khác, con người vốn sinh ra từ tự nhiên, cần có tự nhiên để tồn tại, nhưng khác hẳn động vật, con người không chỉ cần đến tự nhiên như nguồn tư liệu sống, mà trước hết như nguồn tư liệu lao động. Con người tồn tại trong môi trường tự nhiên, cùng phát triển với môi trường tự nhiên. Vật chất trong cơ thể con người là do môi trường tự nhiên cung cấp, không khí con người hít thở, nước con người uống đều lấy từ môi trường tự nhiên, thức ăn của con người cũng vậy… Những khu vực trong môi trường tự nhiên thiếu một nguyên tố hóa học nào đó thì người sống ở đó cũng thiếu chất tương tự, gây ra bệnh tật và ảnh hưởng tới sự phát triển về thể chất cũng như trí tuệ, tình cảm của con người. Tự nhiên đang thay đổi chậm chạp và điều đó có liên quan trực tiếp đến con người trong mọi lĩnh vực hoạt động: Vấn đề cơ bản là xác định vị trí của con người trong tự nhiên và mối quan hệ của con người với tự nhiên. Con người cũng là tự nhiên, trong con người cũng có mặt tự nhiên (bản năng, bẩm sinh…) và con người bao giờ cũng phải sống với tự nhiên. Chúng tôi cho rằng, trong thế ứng xử giữa con người và tự nhiên trước thế kỉ XX, giữa phương Đông và phương Tây có ít nhất một sự khác nhau. Những nền văn minh phương Tây (Hy–La cổ đại, Thiên chúa giáo trung đại, Tư bản chủ nghĩa cận đại) đều xem thiên–tự nhiên là thù địch và do vậy cần phải chinh phục, thống trị, biến đổi tự nhiên. Các nền văn minh phương Đông, như văn minh Phật giáo Ấn – Hoa, văn minh Nho giáo Đông Á, văn hóa Lão – Trang Đông Á, văn minh Thần giáo Nhật Bản (trong đó phải kể cả văn minh Đông Sơn − Đông Nam Á, văn minh
  • 18. Việt Nam) đều có đức hiếu sinh (Nho giáo), cấm hay tiết kiệm sát sinh, (Phật giáo) hay “hòa đồng với tự nhiên” (Lão giáo). Một trong mười đặc điểm của văn hóa thế giới hiện đại theo giới lí luận văn hóa Trung Hoa, là văn hóa từ chỗ quá tự tin vào sức mạnh của con người chuyển đến chỗ biết sức mạnh của thiên nhiên và chỗ yếu của con người. Văn hoá công nghiệp là văn hóa chinh phục thiên nhiên, sau cuộc phục hưng văn hóa, con người thoát khỏi sự mê tín thần thánh, song lại mê tín chính sức mạnh của mình. Trong quá trình cải tạo thiên nhiên, nay nhìn lại con người đã thấy trong đó sự can thiệp, thô bạo vào thiên nhiên là có hại cho mình. Chính vì vậy từ giữa thế kỉ XX ở phương Tây dấy lên phong trào “tìm về phương Đông”. Người ta dự báo rằng tới thế kỉ XXI, con người sẽ biết sống hòa điệu hơn với tự nhiên, hơn là phá phách tự nhiên và triết lí của thế kỉ XXI là triết lí tân tự nhiên. II. TỰ NHIÊN NGOÀI TA: MÔI TRƯỜNG Môi trường là một phần của ngoại cảnh, bao gồm những thực thể – hiện tượng tự nhiên mà cơ thể, quần thể, loài (quần xã) có quan hệ trực tiếp, trước hết bằng các mối quan hệ thích nghi, rồi sau đó mới là biến đổi. Thuật ngữ môi trường: hiện nay người ta thường sử dụng rộng rãi khái niệm “môi trường lớn” gồm môi trường tự nhiên, môi trường nhân tạo và cả những môi trường khác như môi trường đời sống, môi trường văn hóa, môi trường sinh thái. Có môi trường tự nhiên, có môi trường nhân tác – tạo. Môi trường tự nhiên là một bộ phận trong “môi trường lớn”, là tổng thể các nhân tố tự nhiên xung quanh chúng ta như bầu khí quyển, nước, thực vật, động vật, thổ nhưỡng, nham thạch, khoáng sản, bức xạ mặt trời…v.v. Môi trường tự nhiên tác–tạo (môi trường nhân vi, nhân văn), có người gọi đó là môi trường văn hóa. Kĩ thuật và tổ chức xã hội của con người tạo nên một môi trường mới, có sức tác động ngược trở lại tới môi trường tự nhiên. Môi trường mới này bổ khuyết cho thiên nhiên trong một số trường hợp
  • 19. lại cản trở những hiệu quả thông thường của thiên nhiên trong một số trường hợp khác mà con người đã không đề phòng đúng mức. Như vậy, môi trường nhân tác/tạo là hệ thống môi trường được tạo ra do con người lợi dụng tự nhiên, cải tạo tự nhiên. Vì môi trường nhân tác–tạo được sáng tạo và phát triển trên cơ sở môi trường tự nhiên, bởi vậy môi trường nhân tác–tạo bị môi trường tự nhiên chi phối và ngược lại nó cũng ảnh hưởng tới môi trường tự nhiên. III. CÁI TỰ NHIÊN TRONG TA – BẢN NĂNG Có một định nghĩa về văn hóa mà theo PGS. Nguyễn Từ Chi là ngắn gọn nhất: Tất cả những gì không phải là thiên nhiên đều là văn hóa. Bản năng là “vốn có”, do đó cũng là thiên nhiên. Cái “vốn có” này mọi sinh vật đều có. Đặc điểm của loài vật là chẳng chịu sự chi phối của bản năng tự nhiên. Sự phân biệt giữa tính người và tính sinh vật có giá trị về mặt động vật học và khoa học. Loài vật không có lịch sử tự thức. Khác với con người là động vật sống trong cả hiện tại, quá khứ và tương lai, các xã hội loài vật như xã hội loài kiến, loài mối hay loài ong – đã không thay đổi từ hàng ngàn năm nay, bởi vì đời sống của chúng, đời sống cá thể hay tập thể tuân theo những nguyên tắc không thể vi phạm, quy tắc của tự nhiên, của bản năng. Loài người cũng có bản năng, vì con người cũng là tự nhiên. Song ở con người, những bản năng này luôn luôn bị đặt dưới sự kiểm soát của xã hội (các cưỡng chế xã hội, các chuẩn mực xã hội) bằng những biện pháp khác nhau. Còn những bản năng không thể nào chặn đứng được, vì chúng gắn quá chặt với sự sống, như ăn uống, giao hợp… cả chết nữa, thì từng cộng đồng “văn hóa–hóa” chúng lên bằng những nghi thức – xã hội hay tôn giáo, mà hiệu quả cuối cùng là kiềm tỏa chúng lại trong vòng cộng đồng chấp nhận được. Văn hóa là sự chế ngự bản năng. Văn hóa, văn minh có mục đích nhiệm vụ bắt chúng ta chấp nhận những cưỡng chế xã hội bằng cách bù lại những thú vui tinh thần. Như vậy văn hóa có nhiệm vụ điều hòa và giải quyết giữa những ham muốn cá nhân và các cưỡng chế xã hội.
  • 20. với loài vật, đặc điểm của loài người là khả năng vượt lên trên sự thống trị của bản năng. Bằng cách đó các học giả cho rằng loài người bước vào một quá trình hai mặt. Quá trình của tính sử và quá trình của tính toàn cầu. Tính sử chính là khả năng truyền lại di sản của thế hệ này cho thế hệ sau – di truyền xã hội, di truyền văn hóa. Tính toàn cầu do khả năng con người biết đến những nền văn hóa khác, học hỏi những thứ tiếng khác, gặp gỡ những hình thức khác của nghệ thuật hay chính trị so với những hình thức của mình và qua đó nhận biết những con người khác bất kể thuộc nền văn hóa nào như những đồng loại của mình, nhờ vậy khám phá ra loài người. Con người bao gồm phần xã hội và phần sinh vật (bản năng) – Con–người. IV. THÍCH NGHI VÀ BIẾN ĐỔI TỰ NHIÊN Từng nền văn hóa, xét cho cùng, đều là hậu quả của việc từng cộng đồng để tồn tại, phải thích ứng với thiên nhiên bao quanh nó. Mối quan hệ của con người với tự nhiên là mối quan hệ nhiều chiều, mối quan hệ thích nghi, không thích nghi và biến đổi (tự nhiên, xã hội và chính mình). Con người là một sinh vật nhìn về phía trước, mắt hướng về tương lai. Con người xưa nay vẫn sống trong nguy hiểm kể từ thời tổ tiên xa xưa nhất của loài người, đặt những mốc đầu tiên trên con đường tiến hóa của giống nòi. Kể từ buổi bình minh của lịch sử con người đã không ngừng vượt lên trên các khả năng và các giới hạn của mình. Có thể coi đặc điểm đó chính là động cơ tiến hóa của loài người. Xu hướng chung của con người là thích nghi với cả những điều kiện sống mà môi trường tự nhiên áp đặt lẫn những thách thức mà con người tự đặt ra. Loài người xuất hiện muộn trên trái đất, tuy vậy bàn tay và khối óc, con tim… con người đã gây ra những biến đổi rộng khắp – trong không khí, nước và đất, trong các giới sinh vật khác, trong toàn bộ hệ thống các yếu tố tác động qua lại và liên quan chặt chẽ với nhau tạo thành môi trường sống.
  • 21. đoạn sinh thái trong lịch sử mối quan hệ giữa con người với môi trường, cả về tác động của xã hội đối với môi trường tự nhiên lẫn điều kiện sống của con người. Đó là giai đoạn thu lượm, giai đoạn đầu nông nghiệp, giai đoạn đầu đô thị, giai đoạn công nghiệp hiện đại. Trong giai đoạn I, thoạt đầu tổ tiên con người hòa nhập vào môi trường sống rất giống cách của các loài động vật khác. Sau đó cách đây gần 500.000 năm, con người biết sử dụng lửa. Đây là sự kiện có tác động sinh thái quan trọng, lửa đánh dấu một sự thay đổi về chất trong quan hệ giữa con người với môi trường. Song ảnh hưởng sinh thái chỉ giới hạn ở sự phá hoại của lửa vì môi trường dễ dàng hấp thụ những hóa chất do gỗ cháy sinh ra mà không bị ảnh hưởng bao nhiêu. Từ đây, con người trở thành một thế lực sinh thái đáng kể và cộng đồng con người không hòa nhập vào hệ sinh thái khu vực của mình giống như những động vật khác nữa. Ngoài lửa, sự bành trướng của con người cũng là một tác động sinh thái nổi bật trong giai đoạn này. Giai đoạn II (cách đây khoảng 12 nghìn năm). Đây là giai đoạn thuần hóa súc vật và cây trồng. Con người trở thành một sinh vật đã có thể điều khiển có chủ ý các quá trình sinh học để phục vụ mình. Bàn tay con người đã làm biến đổi bề mặt trái đất, thay đổi thảm thực vật, gây ra xói mòn, thay đổi cơ cấu cây, con… Lối sống định cư làm thay đổi bản chất mối quan hệ giữa con người với các loài sinh vật khác… gây nên những bệnh tật mới mà trong lối sống trước đó đã không thể có. Cả hai giai đoạn đầu đều có hai đặc điểm sinh thái mà các xã hội hiện đại không có. Đó là tỉ lệ sử dụng năng lượng ngoại thể (chủ yếu là lửa) thay đổi song song với tỉ lệ phát triển dân số; hoạt động của con người tác động không đáng kể vào chu trình Sinh– Địa– Hóa. Giai đoạn III (cách đây khoảng 5 nghìn năm). Một loạt thay đổi quan trọng liên quan tới việc tổ chức xã hội và lối sống của các thành viên xã hội. Sự hình thành đô thị và lối sống đô thị làm thay đổi cơ cấu thức ăn, việc chuyên môn hóa lao động trở thành thông lệ. Tuy vậy sinh quyển và phần lớn các hệ sinh thái của con người đều ở trong trạng thái cân bằng động.
  • 22. Tỉ lệ gia tăng mức sử dụng năng lượng không còn song song với tỉ lệ phát triển dân số. Mức tiêu thụ năng lượng tăng nhanh gấp đôi tỉ lệ tăng dân số các chu trình Sinh– Địa– Hóa ở nhiều vùng không còn nguyên vẹn nữa. Thế cân bằng đã bị phá vỡ ở nhiều nơi trên trái đất. Để tồn tại, các dân tộc, các cộng đồng người phải vượt qua sự cản trở mà thiên nhiên gây ra. Song khác với loài vật, con người không thể thuần túy bằng bản năng vượt qua như các động vật khác, mà phải dùng những biện pháp kĩ thuật khác nhau để thích nghi, biến đổi tự nhiên, buộc nó không còn là thiên nhiên như cũ nữa, bắt nó phục vụ lại mình. Những biện pháp đó có thể gọi là: Chiến lược thích nghi. Chính kết quả hay hậu quả của chiến lược thích nghi này tác động không nhỏ tới việc hình thành những nét đặc thù của một bản sắc văn hóa, mô thức ứng xử của một tộc người. Sự khác nhau về văn hóa giữa các dân tộc hay các nhóm, cộng đồng người được quy định bởi nhiều yếu tố trong đó có nguyên nhân do con người là một sinh vật có tư duy, có ý thức, có ngôn ngữ và khả năng biểu tượng hóa, có mô hình hành động được lựa chọn (tương đối tự do) chứ không chỉ có mô hình hành động theo bản năng như phần lớn các động vật khác và do sự khác nhau về môi sinh. Chính từ sự khác nhau về môi sinh này đã giúp cho các nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam trong và ngoài nước khẳng định sự hiện hữu của một nền văn minh và văn hóa Việt Nam bên cạnh nền văn minh Hoàng Hà, văn hóa Trung Hoa. Bản sắc văn hóa của từng cộng đồng, từng dân tộc được khắc họa bởi những điều kiện lịch sử, xã hội và tâm lí dân tộc. Theo nghĩa rộng, văn hóa là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người, bao hàm cả kĩ thuật, kinh tế… để từ đó hình thành một lối sống, một thế ứng xử, một thái độ tổng quát của con người đối với vũ trụ, thiên nhiên và xã hội, là vai trò của con người trong vũ trụ đó, với một hệ thống những chuẩn mực, những giá trị, những biểu tượng, những quan niệm… tạo nên phong cách diễn tả tri thức và nghệ thuật của con người. Như vậy, thì phải xuất phát từ những điều kiện tự nhiên, rồi sau đó những điều kiện lịch sử để nhận nhìn về cội nguồn và bản sắc văn hóa Việt Nam. Trong những điều kiện đó, văn hóa Việt Nam khác và không phải là bản sao của văn hóa Trung quốc. Văn hóa Việt Nam, văn minh sông Hồng và văn
  • 23. khác nhau từ căn bản. Cội nguồn của văn hóa Việt Nam là những điều kiện của vùng nhiệt ẩm – gió mùa. Cội nguồn của văn hóa Trung Quốc lại là điều kiện của đại lục lạnh, khô, lượng mưa ít, lượng bốc hơi cao. V. ĐẶC ĐIỂM MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN, HỆ SINH THÁI VIỆT NAM VỚI VẤN ĐỀ BẢN SẮC DÂN TỘC, BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á. Vùng Đông Nam châu Á này bao gồm miền chân núi Himalaya và Thiên Sơn. Các dòng sông lớn của khu vực đều bắt nguồn từ hai dãy núi này. Hạ lưu của các dòng sông ấy – Dương Tử, sông Hồng, Mê Công, Chaophaya… đều là những vùng đồng bằng màu mỡ, đầy phù sa. Đặc trưng tiêu biểu của vùng này, là sự chênh lệch khá lớn giữa bình nguyên và núi rừng, sự chênh lệch tương đối nhỏ giữa bình nguyên và mặt biển. Chính nét đặc trưng này cùng với điều kiện khí hậu nóng, ẩm, mưa nhiều và có gió mùa là cơ sở thuận lợi cho việc phát sinh nghề nông trồng lúa nước từ rất sớm với văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn. Việt Nam “nằm giữa Đông Nam Á” (lục địa hải đảo) (Yves Lacoste) “là ngã tư đường của các cư dân và các nền văn minh” (Olov Janse). Việt Nam – Bán đảo Đông Dương là đầu cầu để mở vào Đông Nam Á từ hướng Ấn Độ và Trung Quốc. Tính chất bán đảo rõ nét của Việt Nam thể hiện ở khí hậu nóng, ẩm, mưa nhiều và có hai mùa gió rõ rệt. Địa hình Việt Nam trải dài (khoảng 15 vĩ độ); núi rừng chiếm 2/3 diện tích, sông ngòi nhiều và phân bố đều khắp. Đồng bằng chỉ chiếm một tỉ lệ khiêm tốn (chưa đến 1/3 diện tích). Ngoài ra, bao quanh hướng Đông và Nam là bờ biển khoảng hơn 2000 km. Tây và Bắc bị chắn bởi núi rừng, trong đó quan trọng nhất là dãy núi Hoàng Liên Sơn và dãy núi Trường Sơn. Cũng vì vậy mà việc phân bố hệ thống động vật cũng như tập quán canh tác dân tộc Việt Nam là khá tiêu biểu và đặc thù. Ta có thể vạch ra phổ tự nhiên Việt Nam (hay hằng số tự nhiên Việt Nam) như sau: Nhiệt – Ẩm – Gió mùa Trong đó cân bằng bức xạ ở Việt Nam quanh năm dương, độ ẩm gần như thường xuyên 100%.
  • 24. – Việt Nam được đặc trưng bởi hệ sinh thái phồn tạp (một trong hai loại hình hệ sinh thái tự nhiên của thế giới). Trong hệ sinh thái phồn tạp chỉ số đa dạng giữa số giống loài và số cá thể rất cao, thực vật phát triển hơn so với động vật (động vật dễ bị dịch bệnh do nhiệt ẩm gió mùa). Trong thời kinh tế thu lượm, hái lượm (phổ rộng) vượt trội hơn săn bắn (bắt) sử dụng đạm thủy sản là chính. (Trong các di chỉ khảo cổ học chủ yếu là dấu tích quả, hạt cây và các động vật sống dưới nước như vỏ sò, vỏ ốc, xương cá… Xương động vật hiếm mà phần nhiều là động vật vừa và nhỏ). Thời kinh tế nông nghiệp trồng trọt (đa canh) vượt trội hơn chăn nuôi. Trong một hệ sinh thái phồn tạp lại có nhiều vùng sinh thái khác nhau. Theo GS. Đào Thế Tuấn, Việt Nam có 10 vùng: Đông Bắc Việt Nam, Tây Bắc Việt Nam, trung tâm Bắc Việt Nam (châu thổ sông Hồng), Bắc Trung Bộ Việt Nam (Thanh – Nghệ – Tĩnh), Trung Trung Bộ Việt Nam (Bình – Trị – Thiên), Nam Trung Bộ Việt Nam (Quảng Nam – Ninh Thuận – Bình Thuận), Bắc Tây Nguyên, Nam Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Còn theo GS. Mai Đình Yên có 19 vùng. Ví dụ vùng đầm phá ven biển Trung Bộ, vùng hải đảo ven bờ, xa bờ, vùng núi, vùng đồi, vùng Hà Nội, vùng thành phố Hồ Chí Minh. Từ góc độ địa lí – văn hóa, chúng ta có thể khái quát địa hình Việt Nam – dài Bắc – Nam, hẹp Tây – Đông; đi từ Tây sang Đông có Núi – Đồi – Thung – Châu thổ – Ven biển – Biển và Hải đảo. Đi từ Bắc vô Nam là các đèo cắt ngang Tây Đông. Sự đa dạng của môi trường sinh thái, điều kiện tự nhiên là yếu tố góp phần tạo nên sự đa dạng văn hóa. Trong vô vàn yếu tố tác động đến cuộc sống hàng ngày từ góc độ tự nhiên, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước hầu như đều nêu bật hai tính trội của văn hóa Việt Nam truyền thống: sông nước và thực vật. Văn minh Việt Nam – nền văn minh thực vật (khái niệm của học giả Pháp P.Gourou) hay văn minh thôn dã, văn hóa lúa nước tính chất thực vật (mà cốt lõi là cây lúa) in dấu ấn đậm nét trong đời sống hàng ngày của con người Việt Nam như ở, đi lại; mặc và ăn. Bữa ăn (bữa cơm) được mô hình hóa Cơm – Rau – Cá cộng với không có thói quen ăn sữa và các sản
  • 25. động vật, không có truyền thống chăn nuôi đại gia súc lấy thịt – chăn nuôi gắn với trồng trọt, phục vụ trồng trọt. Tính chất thực vật còn thể hiện rõ nét trong đời sống tâm linh mà điển hình là tục thờ cây. Môi trường sông – nước được coi là một yếu tố đặc biệt quan trọng khi xem xét về những vấn đề văn hóa, con người Việt Nam. Có thể nói đặc trưng nước chính là kết quả tổng thể của những đặc điểm về địa lí, địa hình cũng như khí hậu. Yếu tố nước mang tính chất phổ quát và đặc thù này đã tạo nên sắc thái riêng biệt trong tập quán kĩ thuật canh tác (đê, ao, kênh, rạch…), cư trú (làng ven sông, trên sông “vạn chài, từ chợ búa, bến” tới những đô thị ven sông, biển hay ngã ba, ngã tư sông…), ở (nhà sàn, nhà mái hình thuyền, nhà – ao, nhà thuyền…), ăn (cá nước ngọt, nước mặn, các loại nhuyễn thể…), tới tâm lí ứng xứ (linh hoạt, mềm mại như nước – chữ dùng của GS. Cao Xuân Huy), sinh hoạt cộng đồng (đua thuyền, bơi chài…), tín ngưỡng, tôn giáo (thờ cá, rắn, thủy thần…), phong tục tập quán, thành ngữ, tục ngữ, ca dao, nghệ thuật (chèo, tuồng, rối nước, hò, lí…) và truyền thống. Bên cạnh những ưu đãi, thiên nhiên cũng đặt ra cho con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam với không ít khó khăn, thách thức bằng những tai biến bất ngờ, khí hậu thất thường, lũ lụt, bão tố, ẩm thấp gây vô vàn dịch bệnh cho người, cho động vật, mùa màng. Cuộc đấu tranh kiên cường, chống chọi hàng ngàn năm với những thử thách này của thiên nhiên đã hun đúc nên tính cách kiên cường, tinh thần cố kết cộng đồng của người Việt mà điển hình là quá trình chinh phục và khai phá châu thổ Bắc Bộ. CÂU HỎI 1. Thế nào là môi trường tự nhiên? Môi trường nhân tác/ tạo. Đặc điểm hệ sinh thái Việt Nam. 2. Anh, chị hiểu thế nào về bản năng và biện pháp văn hóa xã hội để kiềm chế bản năng. 3. Quan hệ của con người Việt Nam với môi trường tự nhiên Việt Nam thể hiện những sắc thái gì trong nền văn hóa dân tộc.
  • 26. HÓA VÀ MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI Con người là cá nhân không thể chia cắt được, đồng thời là sinh vật có tính xã hội cao nhất. Con người không chỉ sống cùng, sống với tự nhiên mà còn phải sống cùng nhau, sống với nhau tạo thành những cộng đồng xã hội. Con người không phải chỉ có những quan hệ với tự nhiên và thế giới các biểu tượng của tự nhiên. Giữa con người và con người nảy sinh những quan hệ ngày càng phức tạp. Loài người đã trải qua những hình thức tổ chức xã hội khác nhau, mà mức độ phức tạp của nó không thể biểu thị bằng một mũi tên thẳng đi lên. Khi nghiên cứu môi trường xã hội, chúng ta cần lưu ý các khái niệm sau: Xã quyển: Toàn bộ các thể chế pháp lí, chính trị, kinh tế, xã hội và nghề nghiệp tạo nên xã hội loài người. Xã quyển sử dụng truyền bá công nghệ, chịu trách nhiệm về sự lựa chọn những hình thức phát triển thông qua việc quốc tế hóa kinh tế và thương mại để dần dần áp đặt một hệ thống quản lí toàn cầu. Nhân tác quyển: Các vấn đề được quyết định thế nào trong xã quyển? Đây là một lĩnh vực mơ hồ hơn, kín đáo hơn, không phải bao giờ cũng có thể phân tích duy lí và thuộc về một quyển khác nữa, tức thế giới các ý tưởng mà ta có thể gọi là nhân tác quyển hay còn gọi là quyển tinh thần. Từ nhân tác quyển sinh ra các nền văn hóa, tôn giáo, các nền văn minh. Chính ở mức độ này hình thành một cách bí hiểm về nhận thức các tập tính của chúng ta, các khát vọng của chúng ta với môi trường và phát triển sinh thái học văn hóa, nghiên cứu mối tương tác, nhịp điệu giữa môi trường – con người – văn hóa. Con người không chỉ sống trong môi trường sinh thái mà còn sống cả trong một môi trường khác. Một môi trường đã được hình thành từ ngàn xưa, đó là môi trường văn hóa mà người ta còn gọi là sinh thái văn hóa.
  • 27. hóa: Văn hóa một khi đã hình thành, cũng là môi trường sống của con người. Nếu môi trường tự nhiên và môi trường xã hội là điều kiện sự hình thành và phát triển của môi trường văn hóa thì ngược lại môi trường văn hóa mỗi khi đã xuất hiện lại góp phần rất lớn trong việc tạo ra thế ứng xử và lối ứng xử của con người trong việc không ngừng cải thiện môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Môi trường văn hóa quen thuộc của một cộng đồng người, bao giờ cũng gắn với các truyền thống đã có ý nghĩa trường tồn của một cộng đồng ấy và với hệ thống các giá trị được toàn thể cộng đồng công nhận. I. XÃ HỘI: TỔ CHỨC CÁC QUAN HỆ NGƯỜI – NGƯỜI Xã hội là toàn bộ những nhóm người, những tập đoàn, những lĩnh vực hoạt động, những yếu tố hợp thành một tổ chức được điều khiển bằng những thể chế nhất định. Theo C.Mác, trong tính hiện thực của nó, con người là tổng hòa các quan hệ xã hội. Xã hội được hiểu như những cơ cấu và những chức năng. Cơ cấu thể hiện các tương quan giữa các thành phần tạo nên xã hội, những tầng lớp, những giai cấp, những nhóm người. Chức năng thể hiện các hoạt động đáp ứng nhu cầu của xã hội, các hoạt động ấy nằm trong một hệ thống. Xã hội thay đổi – thay đổi về cơ cấu và chức năng. Có thể lấy ví dụ về cơ cấu và chức năng của gia đình: Quan niệm chung được nhiều người nghiên cứu đồng tình: Gia đình là tế bào của xã hội. Thực ra, gia đình cũng đã là xã hội, một xã hội thu nhỏ mà quan hệ người – người trong đó dựa trên một loạt những nguyên tắc, tình cảm, dòng máu, luân lí, đạo đức kinh tế… Mối quan hệ người – người trong gia đình cũng có sự thay đổi theo thời gian, phụ thuộc vào các hình thức hôn nhân cụ thể. Trong xã hội loài người, các huyền thoại sáng thế luận và tôn giáo khác nhau đều giống nhau ở chỗ sáng tạo ra một cặp nam – nữ đầu tiên ở buổi sơ khai của loài người. Một người đàn ông, một người đàn bà và con cái tạo nên hình ảnh gia đình. Tuy vậy, trở ngược dòng lịch sử ta thấy có những cấu trúc gia đình rộng lớn hơn, phức tạp hơn có thể gọi là “gia đình mở rộng”, như bầy, thị tộc, tông tộc… Theo nghĩa rộng nhất, gia đình là cội nguồn và chốn
  • 28. mỗi người, một thiết chế có lệ luật và tôn ti trật tự. Từ bao đời nay, chính gia đình đã tạo nên mối liên hệ xã hội bền vững nhất, nơi duy trì và lưu truyền những nét đặc trưng của văn hóa dân tộc, truyền thống gia đình, truyền thống dòng họ và sự di truyền văn hóa. Mối liên hệ gia đình ở nhiều nước trong xã hội ngày nay có khuynh hướng lỏng léo và hiện có nhiều đổi thay. Gia đình bị thu hẹp dần và thay đổi tính chất. Gia đình hạt nhân với tư cách là đơn vị sản xuất dần thay thế bằng một mô hình khác. Trong xã hội xuất hiện những gia đình “thiếu”, hoặc chỉ có mẹ, hoặc chỉ có cha. Giai đoạn hiện đại có xu hướng dung hoà mối quan hệ giữa gia đình và tự do cá nhân. Cơ cấu và chức năng của gia đình cũng phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của từng dân tộc, từng cộng đồng người. Ví dụ gia đình của một số dân tộc Đông Á có nền chung là Nho giáo. Gia đình cổ truyền của người Hoa là một thể chế xã hội, chính trị, là hình thức gia đình lớn “tứ đại, ngũ đại đồng đường” và sự phục tùng tuyệt đối của người phụ nữ đối với đàn ông “tam tòng, tứ đức”. Gia đình (gia tộc) người Nhật cổ truyền lại là một thể chế xã hội kinh tế hơn là một cộng đồng về huyết thống, nói khác đi, đó là một đơn vị kinh doanh. Gia đình cổ truyền của người Việt đa số là gia đình hạt nhân, người phụ nữ có vai trò quan trọng. II. CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI Xã hội Việt Nam trong hàng ngàn năm là một xã hội nông nghiệp, nền văn hóa của nó cũng là nền văn hóa nông nghiệp. Trong xã hội ấy, gia đình, họ hàng và cùng với gia đình họ hàng là làng mạc tạo thành đơn vị xã hội cơ sở. Điều này ấn định một nguyên tắc ngàn năm gần như bất di, bất dịch – các giá trị gia đình và cộng đồng được đặt trên các giá trị cá nhân. Cá nhân bị hoà tan trong cộng đồng, tách riêng ra, cá nhân không có mảy may ý nghĩa.
  • 29. ta, cá nhân chìm đắm ở trong gia tộc cho nên nhất thiết những luân lí đạo đức, chế độ văn vật, chính trị pháp luật, đều lấy gia tộc chủ nghĩa làm gốc.” Giữa phương Đông (bao gồm cả Việt Nam) và phương Tây có sự khác biệt về cách nhìn nhận vai trò của cá nhân trong xã hội. Phương Đông coi trọng vai trò của cộng đồng, phương Tây coi trọng vai trò cá nhân. Có ba nguyên lí cơ bản tập hợp con người thành xã hội, khiến con người trở thành sinh vật xã hội. Nguyên lí cùng cội nguồn hay nguyên lí cùng dòng máu: Đây là “cương lĩnh tự nhiên” của loài người, là nguyên lí tiên nghiệm xuất hiện ngay từ buổi đầu của lịch sử loài người. Có thể gọi nguyên lí cùng dòng máu trong lịch sử loài người là một nguyên lí liên đại hay đó là một hằng số của văn hóa dân gian. Nguyên lí này, với thời gian, được mở rộng từ phạm vi gia đình, gia tộc ra phạm vi tộc người và thậm chí trong trường hợp ở Việt Nam; ra cả phạm vi quốc gia– dân tộc. Nguyên lí cùng chỗ: hay trong văn hóa Việt Nam người ta thường gọi là quan hệ hàng xóm láng giềng. Nguyên lí này đóng vai trò quan trọng từ thời đại đá mới hay thời Cách mạng nông nghiệp (cách đây khoảng 10.000 năm), khi con người có nhu cầu sống định cư và chuyên môn hóa lao động. Trong văn hóa cổ truyền Việt Nam, cùng với nguyên lí cùng cội nguồn, nguyên lí cùng chỗ là hai nguyên lí nền tảng của các quan hệ xã hội, các tổ chức xã hội mà ta có thể gắn với gia định (gia tộc) và làng xóm. Nguyên lí cùng lợi ích: đây là nguyên lí của các quan hệ tầng lớp, giai cấp, nghề nghiệp, giới tính… III. SỰ XÃ HỘI HÓA CÁ NHÂN VÀ SỰ NHẬP THÂN VĂN HÓA Con người – sinh vật xã hội ngoài di truyền sinh học (như mọi loài của thế giới sinh vật) còn thừa hưởng một loại di truyền khác – đó là di truyền văn hóa thông qua giáo dục (giáo dục hiểu theo nghĩa rộng là sự truyền đạt văn hóa ngoài nhà trường và trong nhà trường). Trong trường hợp này, gia đình là môi trường văn hóa đầu tiên để cá thể người tiếp nhận văn hóa của cộng đồng. Con người nhập thân văn hóa trước hết ngay từ khi còn trong bào thai
  • 30. Nam việc giáo dục con trẻ từ trong trứng nước là di truyền truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp. Những điều kiêng cữ, cấm kị đối với phụ nữ mang thai đều nhằm mục đích tạo cho đứa trẻ một môi trường văn hóa lành mạnh và trong sáng. Ngay từ thế kỉ XVI ở Việt Nam đã có sách về Thai giáo (của bà ngoại chúa Trịnh Tráng). Đứa trẻ vừa sinh ra đã được sống và cảm thụ, hội nhập văn hóa trước hết là ở gia đình, rồi sau đó ở gia đình mở rộng, làng xóm… Việt Nam có câu “Cha mẹ sinh con, trời sinh tính”. “Tính” có mặt bẩm sinh. Tính cách con người được hình thành rất sớm. Vì vậy tổ tiên ông bà người Việt rất coi trọng việc giáo dục văn hóa. “Dạy con từ thủa còn thơ”. Gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách và trong việc truyền đạt các giá trị văn hóa: “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”. Như vậy bối cảnh môi sinh gia đình – tộc họ – xóm làng là nơi con người nhập thân văn hóa xã hội hóa cá nhân đầu tiên. IV. PHỔ HỆ (CƠ CẤU) XÃ HỘI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN 1. Phổ xã hội và trường hoạt động cá nhân Phổ (Spectre) hay cơ cấu xã hội của các nhà nước, các dân tộc, các cộng đồng tuy đều dựa trên ba nguyên lí cơ bản nói trên và thuộc vào các hình thái kinh tế xã hội nhất định tùy vào từng giai đoạn lịch sử cụ thể mà có những đặc thù riêng. Khi xem xét môi trường xã hội Việt Nam, điều đầu tiên phải nhắc tới: Việt Nam là quốc gia có vị thế địa chính trị, địa văn hóa đặc biệt, nằm ở giao điểm của các nền văn hóa lớn, là cầu nối Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo. Điều thứ hai, lịch sử Việt Nam là lịch sử đấu tranh chống xâm lược phương Bắc, mở rộng bờ cõi về phương Nam. Điều thứ ba, văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng. Đa dạng trước hết là đa dạng tộc người (54 dân tộc). Từ lâu Việt Nam đã là một quốc gia có nhiều cộng đồng sắc tộc với những đặc trưng văn hóa
  • 31. người Việt (Kinh) đóng vai trò chủ thể. Văn hóa Việt Nam có truyền thống đa dạng trong văn hóa nhưng hướng tâm vào văn hóa chủ thể – văn hóa Việt. Điều thứ tư, văn hóa Việt Nam có đặc trưng văn hóa nông nghiệp lúa nước, mang tính chất tiểu nông, duy tình với cơ cấu tĩnh (tương đối). Đây là một nền văn hóa của kinh tế nông nghiệp chủ yếu theo phương thức cổ truyền mang sắc thái tiến hóa (chữ dùng của Quang Đạm). Từ các công xã thị tộc, công xã nông thôn đến tổ chức nhà nước hiện nay là một quá trình diễn biến lâu dài, qua các giai đoạn nhất định. Điều cần lưu ý không phải dân tộc nào, nhà nước nào cũng trải qua đầy đủ các giai đoạn, các thời kì hay các hình thái kinh tế xã hội như nhau. Nhiều khái niệm tổ chức, cơ cấu xã hội của châu Âu khó có thể áp dụng y nguyên khi giải thích cơ cấu xã hội Việt Nam. Ví dụ về chế độ phong kiến: Phong kiến phương Tây có thể được diễn giải bằng sơ đồ các mối quan hệ sau: S P T S: Lãnh chúa. P: Nông nô. T: Ruộng đất Nhìn vào đây ta thấy lãnh chúa nắm toàn bộ nông nô và ruộng đất. Thời tiền quân chủ Việt Nam – Quan hệ của tầng lớp thống trị ở Việt Nam thời cổ đại với nông dân và đất đai lại theo mô hình sau: TL: Thủ lĩnh -> ND: Nông dân TL: Thủ lĩnh -> ĐĐ: Đất đai ND: Nông dân <-> ĐĐ: Đất đai Tầng lớp thống trị không phải là người chủ sở hữu ruộng đất mà là người phân chia. Quan hệ với đất đai không bao giờ là quan hệ vĩnh viễn. Bởi, sở hữu đất đai trong làng Việt ở châu thổ Bắc Bộ là quan hệ cho phép người nông dân, miễn là dân chính cư đều được quyền thuê ruộng của làng.
  • 32. Việt Nam truyền thống, các tầng lớp, giai cấp cũng không theo cơ chế khắt khe, phân biệt nghiêm ngặt rõ ràng. Mô hình xã hội Việt Nam truyền thống dưới đây cho thấy được sự khác nhau giữa cơ cấu tầng lớp giai tầng xã hội Việt Nam cổ truyền và những xã hội phong kiến châu Âu, châu Á. Dân có thể lên làm quan, làm vua Vua quan có thể “tụt” xuống làm Dân: Bao giờ dân nổi can qua Con vua thất thế lại ra quét chùa Và ở làng – cơ cấu kinh tế, xã hội chính yếu trong xã hội Việt Nam cổ truyền, nét cơ bản nhất của kinh tế làng là quan hệ địa chủ và nông dân tự do chứ không phải các điền trang gia tộc Trung Hoa với tầng lớp quý tộc và cũng không phải các điền chủ và các đồn điền kiểu châu Âu. Phổ xã hội Việt Nam có thể được vạch ra như sau: Cá nhân – Gia đình – Họ hàng – Làng xóm – Vùng (miền, xứ) − Đất nước. Nhà – Họ –Làng – Nước, có phân biệt mà cũng có hoà hợp, y như quang phổ, tuy phân tích ra thì có bảy màu song chung lại nơi ánh sáng trắng. Trong tâm thức dân gian, làng xóm như cái gia đình mở rộng và nước như một làng lớn, nên ngôn ngữ xã hội vẫn là ngôn ngữ kiểu gia đình và xu thế chính của tâm lí người Việt là kéo xã hội về với gia đình. Hầu hết các nhà nghiên cứu khi đề cập tới cơ cấu xã hội Việt Nam cổ truyền đều đạt tới một số điểm chung như sau: Xã hội Việt Nam là xã hội nông nghiệp, văn hóa Việt Nam là nền văn hóa nông nghiệp. Trong xã hội đó, gia đình (và gia đình mở rộng – tộc họ), làng là đơn vị xã hội cơ sở, là hai yếu tố cơ bản chi phối toàn bộ hệ thống xã hội Việt Nam. Đặc trưng của cơ cấu xã hội Việt Nam truyền thống là những gia đình tiểu nông trong những làng xã tiểu nông.
  • 33. gia đình của người Việt Gia đình người Việt, trong đại đa số trường hợp (theo số liệu điều tra từ 2/3 đến 3/4) là gia đình hạt nhân (bố mẹ và con cái chưa trưởng thành). Ngoài ra còn có hình thức gia đình nhỏ (bố mẹ và gia đình một con trai, thường là con trai trưởng). Tuy vậy trong từng làng, một “gia đình nhỏ” chỉ là thiểu số bên cạnh rất nhiều gia đình hạt nhân. PGS. Nguyễn Từ Chi khi xem xét cơ cấu xã hội – văn hóa của gia đình người Việt từ góc độ thờ cúng tổ tiên đã cho rằng quan niệm gia trưởng của Nho giáo, chế độ phụ quyền của nó không đủ để giải thích cơ cấu gia đình Việt trong thực tế. Gia đình này đã cấu tạo theo hai kiểu lồng vào nhau trong quan hệ thân tộc. Đó là kiểu gia đình nhỏ, từ đó tách ra thành những gia đình “hạt nhân hóa” và cứ thế mà tiếp diễn mãi mãi. “Sự tập hợp các gia đình “nhỏ” và “hạt nhân” thành đơn vị “chung tộc danh về phía bố” không đeo đuổi một mục đích kinh tế rõ ràng nào. Nó chỉ nhằm giải quyết hai vấn đề, bảo đảm chế độ ngoại hôn trong lòng từng “đơn vị chung tộc danh về phía bố” và thờ phụng tổ tiên ở mức độ rộng rãi nhất”. Gia đình hạt nhân của người Việt là cơ cấu kinh tế tự cung, tự cấp theo mô hình “chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa”. Khi bàn về ảnh hưởng của Nho giáo với đời sống văn hóa của gia đình, gia tộc người Việt, các nhà nghiên cứu đều đi đến luận điểm chung, Nho giáo chỉ là lớp phủ bên ngoài và nếu không đi sâu nghiên cứu các giá trị văn hóa truyền thống thì khó mà giải thích được những đặc điểm cơ cấu nội tại của gia đình người Việt. Có giáo sư đã sử dụng hình ảnh “vỏ Tàu, lõi Việt” để nêu bật đặc thù của gia đình Việt cổ truyền. 3. Làng Làng là một đơn vị cộng cư có một vùng đất chung của cư dân nông nghiệp, một hình thức tổ chức xã hội nông nghiệp tiểu nông tự cấp tự túc, mặt khác là mẫu hình xã hội phù hợp, là cơ chế thích ứng với sản xuất tiểu nông, với gia đình – tông tộc gia trưởng, đảm bảo sự cân bằng và bền vững của xã hội nông nghiệp ấy. Làng được hình thành, được tổ chức chủ yếu dựa vào hai nguyên lí cội nguồn và cùng chỗ. Một mặt, làng có sức sống mãnh liệt,
  • 34. về cấu trúc, làng là một cấu trúc động, không có làng bất biến. Sự biến đổi của làng là do sự biến đổi chung của đất nước qua tác động của những mối liên hệ làng và siêu làng. Do những đặc thù của tự nhiên và xã hội mà ở miền Trung, miền Nam tuy gốc gác cũng là người Việt từ miền Bắc di cư vào, nhưng với môi trường sống mới, hình thức cơ cấu làng xã và quan hệ xã hội đã thay đổi nhiều không còn những đặc điểm như làng Bắc Bộ. Làng Việt ở châu thổ Bắc Bộ là hình thức công xã nông thôn với những đặc thù riêng của mình, hình thức công xã nông thôn “nửa kín, nửa hở” (chữ dùng của GS. Trần Quốc Vượng) những đặc thù riêng của làng thể hiện ở chế độ ruộng đất, chế độ công điền, các loại hình và nguyên tắc tổ chức xã hội, lệ, luật tục tín ngưỡng, lễ hội của làng. Khi nói về văn hóa làng và làng văn hóa, một số nhà nghiên cứu đã nêu bật những đặc trưng làng Việt Nam. Đó là ý thức cộng đồng làng, ý thức tự quản – quyền quản lí làng xã được thể hiện trong hương ước của làng – và tính đặc thù độc đáo rất riêng của mỗi làng trong tập quán, nếp sống, tín ngưỡng, tôn giáo, thậm chí giọng nói và cả cách ứng xử. Giữa ba đặc trưng trên có mối liên hệ hữu cơ, tạo cho làng một vị trí đặc biệt tạo nên những đặc trưng văn hoá làng, văn hóa dân tộc. Nghiên cứu văn hóa làng – văn hóa ngôn từ, văn chương truyền miệng, phong tục tập quán, lễ hội, tín ngưỡng, tôn giáo; nghiên cứu cơ cấu xã hội, môi trường xã hội Việt Nam trong văn hóa Việt Nam, nhiều học giả cho rằng chính “chủ nghĩa gia tộc” là cái giải thích tinh thần trọng đạo đức của người Việt Nam, là sự quy chiếu mọi giá trị, chuẩn mực. Trong “chủ nghĩa gia tộc” ấy lại có đặc trưng cơ bản là duy tình, trong đó cốt lõi là ý thức trách nhiệm lâu dài và toàn vẹn đối với các thế hệ tiếp theo. Là một đơn vị xã hội của văn hóa Việt Nam, làng của người Việt là một môi trường văn hóa. Ở đó, mọi thành tố, mọi hiện tượng văn hóa được sinh thành phát triển, lưu giữ và trao truyền tới mọi cá thể. 4. Đô thị Đô thị xuất hiện ở Việt Nam chậm và ít và cũng không hoàn toàn mang nội dung giống như đô thị ở Trung Hoa hay phương Tây. Đô thị truyền thống
  • 35. hết là trung tâm chính trị, rồi từ đó mới là kinh tế và văn hóa cho đến thế kỉ XVI, Đại Việt chỉ có một đô thị, một trung tâm chính trị. – kinh tế – văn hóa là Thăng Long (Kẻ Chợ) mà vị trí chính trị đảm bảo cho kinh tế. Từ sau thế kỉ XVI, xuất hiện thêm một số đô thị mà chủ yếu gắn với ngoại thương (Phố Hiến, Thanh Hà, Hội An, Nước Mặn, Sài Gòn…). Ở Việt Nam có sự hoà tan của thành thị trong nông thôn– (theo GS. Phan Đại Doãn) do phân công lao động không rõ ràng, không triệt để. Nông thôn mang tính chất áp đảo, vì vậy tư duy nông nghiệp, căn tính nông dân ảnh hưởng rất lớn tới cư dân đô thị Việt Nam. Ở Việt Nam có hiện tượng nông thôn hóa đô thị mà chúng ta thấy hiện nay vẫn là những vấn đề gây nhiều khó khăn cho việc quản lí, xây dựng nếp sống đô thị. 5. Từ Làng đến Nước Làng – như trên đã trình bày là một đơn vị cơ sở và là không gian sinh hoạt văn hóa chính yếu của người Việt, là một thiết chế phức hợp, vừa chứa những yếu tố khởi nguyên của công xã, vừa chịu tác động của những thay đổi chế độ xã hội. Làng – một hệ thống riêng (kinh tế, xã hội…) gồm những yếu tố hợp thành, hệ thống này có những quan hệ nội tại, bên trong (đóng kín), song cũng có những quan hệ bên ngoài (mở, hở) mà theo GS. Hà Văn Tấn những quan hệ này có thể chia làm hai loại: Liên làng – mối liên hệ giữa các hệ thống tương đương; Siêu làng – mối liên hệ giữa làng với cộng đồng hay khu vực rộng lớn hơn. Khi cộng đồng tộc người đã tiến tới trình độ dân tộc thì cộng đồng Siêu làng lớn nhất là nước, là dân tộc. Con người Việt Nam trong lịch sử, từ rất lâu đã là con người vừa của làng, vừa của nước, đã mang trong mình ý thức cộng đồng làng và ý thức cộng đồng rộng lớn hơn miền (xứ, vùng), nước. Giữa hai yếu tố làng, nước là những tác động qua lại hữu cơ, bổ sung, hỗ trợ (đôi khi đối kháng) trong suốt những giai đoạn lịch sử tạo nên những cái chung của văn hóa dân tộc, những cái riêng của văn hóa từng làng, từng miền (xứ hay vùng). V. BIẾN ĐỔI XÃ HỘI VÀ BIẾN ĐỔI VĂN HÓA
  • 36. trội vượt lên không thể nào được quyền xao lãng của văn hóa Việt Nam đó là sự đan xen (hỗn dung, tiếp biến = acculturation) đó là sự giao thoa văn hóa. Một trong những đặc trưng của văn hóa Việt Nam là tính phong phú đa dạng trong một chỉnh thể văn hóa thống nhất nền tảng là truyền thống Việt. Văn hóa Việt Nam có nhiều yếu tố nội sinh mà cũng có không ít yếu tố ngoại sinh, từ bốn phương trời Đông Á, Nam Á, Thái Bình Dương Nam Đảo, Âu Tây gửi đến và dần dà được hội nhập vào văn hóa Việt Nam. Văn hóa Việt Nam từ thời tiền sử cho tới giai đoạn công nghiệp hiện đại đã trải qua nhiều biến đổi, song sắc thái đặc thù của văn hóa Việt Nam là sự hỗn dung văn hóa. Những biến đổi văn hóa ấy mà đúng hơn là sự ứng biến (thích ứng và biến đổi) của văn hóa Việt Nam thể hiện rất rõ tâm thức Việt – là sự khoan hòa. Hay bản lĩnh văn hóa Việt Nam, theo J. Feray, là sự “không chối từ” về văn hóa trong việc hấp thụ các yếu tố ngoại sinh. Những biến đổi văn hóa từng thời kì, từng giai đoạn dù mang những tốc độ, sắc thái khác nhau thì vẫn có một mặt bằng văn hóa chung cho mọi thời đại văn hóa – văn minh. Đó là Nông dân – Nông nghiệp và Xóm làng. CÂU HỎI 1. Xã hội là gì? Những nguyên lí tổ chức xã hội. 2. Cơ cấu xã hội Việt Nam cổ truyền. 3. Thế nào là nhập thân văn hóa và xã hội hóa cá nhân. 4. Nêu những hiểu biết của anh (chị) về gia đình và làng của người Việt. Bài 4: TIẾP XÚC VÀ GIAO LƯU VĂN HÓA I. KHÁI NIỆM Thuật ngữ tiếp xúc và giao lưu văn hóa được sử dụng khá rộng rãi trong nhiều ngành khoa học xã hội như khảo cổ học, dân tộc học, xã hội học,
  • 37. v.v…, tức là những ngành khoa học có đối tượng nghiên cứu là con người và xã hội, nhân văn. Khái niệm tiếp xúc và giao lưu văn hóa được dịch từ những thuật ngữ như cultural contacts, Cultural exchanges, acculturation của các nước phương Tây. Nhưng ngay bản thân ở các nước phương Tây, các khái niệm này cũng được dùng bởi những từ khác nhau. Người Anh thích dùng chữ Cultural Change (có thể dịch là trao đổi văn hóa), người Tây Ban Nha dùng chữ Transculturation (có nghĩa là di chuyển văn hóa), người Pháp có thuật ngữ Interpénétration des civilisations (có nghĩa là sự hòa nhập giữa các nền văn minh), người Hoa Kỳ dùng thuật ngữ acculturation. Đương nhiên, nội hàm của các thuật ngữ trên ở các nước có giới hạn chung, nhưng các thuật ngữ đều có những nét khác nhau nhất định về sắc thái. Khái niệm acculturation được các nhà nghiên cứu ở Việt Nam dịch không thống nhất. Có người dịch là văn hóa hóa, có người dịch là đan xen văn hóa, có người dịch là hỗn dung văn hóa, có người dịch là giao thoa văn hóa. Cách dịch được nhiều người chấp nhận là giao lưu văn hóa, tiếp (xúc) và biến (đổi) văn hóa. Theo GS. Hà Văn Tấn, các nhà khoa học Mỹ: R. Ritdiphin (R.Redifield), R.Linton (R.Linton) và M.Heckôvich EM.Herkovits) vào năm 1936 đã định nghĩa khái niệm này như sau: “Dưới từ acculturation, ta hiểu là hiện tượng xảy ra khi những nhóm người có văn hóa khác nhau, tiếp xúc lâu dài và trực tiếp, gây ra sự biến đổi mô thức (pattern) văn hóa ban đầu của một hay cả hai nhóm”. Như vậy, giao lưu và tiếp xúc văn hóa là sự vận động thường xuyên của xã hội, gắn bó với tiến hóa xã hội nhưng cũng gắn bó với sự phát triển của văn hóa, là sự vận động thường xuyên của văn hóa. Con người sống thành cộng đồng và đã là con người thì ai cũng có những nhu cầu trong cuộc sống gần như nhau. Để đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu đó, họ đã chế tạo những công cụ sản xuất cần thiết vào buổi ban đầu. Trải qua năm tháng, sống trong những hoàn cảnh địa lí và lịch sử khác nhau, từng nhóm dân cư khác nhau đã tạo nên những nền văn hóa riêng biệt, in
  • 38. của họ. “Một hoạt động có ý nghĩa đặc biệt đối với giao lưu văn hóa là trao đổi kinh tế. Giữa các cộng đồng sống trên các địa bàn khác nhau thường có sự trao đổi nguyên liệu hoặc sản phẩm với nhau mà sau này là sự trao đổi hàng hóa”. Sự trao đổi kinh tế thường được tiến hành bằng những cuộc tiếp xúc tập thể hay cá nhân tại các địa điểm quy định trên đường biên giới giữa lãnh thổ của các cộng đồng (bộ lạc hay một nhóm bộ lạc…). Trên bước đường phát triển của xã hội loài người, cơ sở kinh tế là nhân tố quyết định. Sự biến đổi này được đẩy nhanh thêm do giao lưu văn hóa, ban đầu giữa các tộc người gần gũi nhau, cùng trình độ và về sau, là giữa các tộc người hay dân tộc có trình độ phát triển xã hội khác nhau. Sự biến đổi của bản sắc văn hóa dân tộc chịu sự chi phối của nhiều nhân tố. Những nét lạc hậu, lỗi thời sẽ dần mất đi để thay thế bằng những gì được khẳng định là văn minh, hiện đại. Ngoài hoạt động trao đổi kinh tế còn có những hoạt động trao đổi “phi kinh tế” mà ảnh hưởng của chúng đến giao lưu văn hóa không nhỏ (sự trao đổi tặng phẩm, vật phẩm tôn giáo…). Sự tiếp xúc văn hóa còn có thể có được nhờ những sự tiếp xúc khác như quan hệ hôn nhân, quan hệ ngoại giao… Các cuộc thiên di lớn nhỏ, luôn luôn xảy ra trong thời nguyên thủy và cổ trung đại làm cho các tập đoàn người có văn hóa khác nhau đã tiến đến bên nhau hoặc sống xen kẽ vào nhau. Đó cũng là một yếu tố quan trọng tạo ra sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa. Giao lưu văn hóa vừa là kết quả của trao đổi, vừa là chính bản thân sự trao đổi. Có hiểu như vậy mới thấy hết tầm quan trọng của giao lưu văn hóa trong lịch sử nhân loại, vì sản xuất, trao đổi là một động lực thúc đẩy sự phát triển của lịch sử, như nhận định của Mác và Ăngghen: “Người ta luôn luôn phải nghiên cứu và viết lịch sử loài người gắn liền với lịch sử của công nghiệp và của trao đổi”, và “Những lực lượng sản xuất, nhất là những phát minh, để đạt được ở một địa phương có mất đi hay không mất đi đối với sự phát triển sau này, điều đó chỉ phụ thuộc vào sự mở rộng của trao đổi thôi.” Nói cách khác, giao lưu và tiếp biến văn hóa là sự tiếp nhận văn hóa nước ngoài bởi dân tộc chủ thể. Quá trình này luôn luôn đặt mỗi tộc người
  • 39. tốt mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh. Hai yếu tố này luôn có khả năng chuyển hóa cho nhau và rất khó tách biệt trong một thực thể văn hóa. Có yếu tố ở giai đoạn này là yếu tố ngoại sinh nhưng đến giai đoạn sau, những tính chất của yếu tố ngoại sinh ấy không còn hoặc nhạt dần đến nỗi người ta tưởng rằng đó là yếu tố nội sinh. Hơn nữa, kết quả của sự tương tác giữa hai yếu tố này thường diễn ra theo hai trạng thái: một là yếu tố ngoại sinh lấn át, triệt tiêu yếu tố nội sinh; hai là có sự cộng hưởng lẫn nhau, yếu tố ngoại sinh dần dần trở thành yếu tố nội sinh hoặc bị phai nhạt căn tính của yếu tố ngoại sinh. Nhìn ở phương diện thái độ của tộc người chủ thể, sự tiếp nhận các yếu tố ngoại sinh cũng có hai dạng thể hiện: một là tự nguyện tiếp nhận; hai là bị cưỡng bức tiếp nhận. Mức độ của sự tiếp nhận trong giao lưu cũng khác nhau: có sự tiếp nhận đơn thuần và sự tiếp nhận sáng tạo. Sự tiếp nhận đơn thuần khi nhìn ở ý nghĩa tương đối là phổ biến trong mọi người ở tộc người chủ thể. Trong khi đó, sự tiếp nhận có sáng tạo lại là sự tiếp nhận có sự kiểm soát của lí trí. Và, sự tiếp nhận có sáng tạo này cũng có ba mức: – Thứ nhất là không tiếp nhận toàn bộ mà chỉ chọn lọc lấy những giá trị thích hợp cho tộc người mình. – Thứ hai là tiếp nhận cả hệ thống nhưng đã có sự sắp xếp lại theo quan niệm giá trị của tộc người chủ thể. – Thứ ba là mô phỏng và biến thể một số thành tựu của văn hóa tộc người khác bởi tộc người chủ thể. Như thế, quan hệ biện chứng giữa yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh đặt ra đòi hỏi với chính tộc người chủ thể là nội lực của chính nó, hay nói cách khác là bản sắc và truyền thống văn hóa của tộc người tiếp nhận. Trên cái nhìn lịch sử, bản sắc và truyền thống không phải là yếu tố nhất thành bất biến. Sự vận động của mỗi nền văn hóa trong không gian và trong thời gian luôn luôn là sự vận động của các yếu tố bất biến và khả biến, giữa cái cố hữu và cái cách tân. Cái khả biến phát triển đến mức độ nào đó sẽ làm thay đổi chính thực thể văn hóa ấy, như quy luật lượng đổi, chất đổi.